Bản án số 415/2025/DS-PT ngày 22/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 415/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 415/2025/DS-PT ngày 22/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 415/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Phạm Minh Đ đã khởi kiện yêu cầu ông Bùi Khắc X trả lại phần đất ranh đanh tranh chấp theo đo đạc thực tế là 1.023,9 m2.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 415/2025/DS-PT
Ngày: 22-9-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
giao khoán
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thế Phương
Các Thẩm phán: Ông Đỗ Cao Khánh
Ông Bùi Anh Tuấn
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thúy Nguyên, là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa:
Lê Thị Màu - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 149/2025/TLPT-DS ngày 14 tháng 5
năm 2025, về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất giao khoán”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án
nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 385/2025/QĐ-PT ngày 28 tháng 8
năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Minh Đ, sinh năm: 1939; CCCD số
096039002792, cấp ngày 14/8/2021; Địa chỉ trú: Ấp A, xã N, huyện U, tỉnh
Mau (hiện nay là xã K, tỉnh Cà Mau).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phạm Văn P, sinh năm
1984; CC số 096084006269 cấp ngày 06/01/2025; Địa chỉ trú: Ấp A, N,
huyện U, tỉnh Mau (hiện nay K, tỉnh Mau; giấy ủy quyền ngày
20/3/2023; có mặt).
- Bị đơn: Ông Bùi Khắc X, sinh năm: 1944; CCCD số 096044000101 cấp
ngày 26/4/2021; Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau (hiện nay
K, tỉnh Cà Mau; có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty TNHH MTV L3 (gọi tắt Công ty L3); Địa chỉ: Ấp A, N,
huyện U, tỉnh Cà Mau (hiện nay là xã K, tỉnh Cà Mau; vắng mặt).
2
2. Ngân hàng N2 Chi nhánh huyện U (gọi tắt Ngân hàng N2); Địa chỉ:
Khóm C, thị trấn U, huyện U, tỉnh Mau (hiện nay K, tỉnh Mau; vắng
mặt).
3. Bà Bùi Thị Ú.
4. Ông Bùi Quốc A.
5. Bà Trần Huyền T.
6. Ông Bùi Tuấn K.
7. Bà Bùi Thị T1.
8. Bà Dương Thị T2.
9. Ông Bùi Văn D.
10. Bà Trần Thị M.
11. Bà Bùi Kim N, sinh năm 1995.
Cùng địa chỉ trú: ấp A, N, huyện U, tỉnh Mau (hiện nay K,
tỉnh Cà Mau, tất cả đều vắng mặt).
12. Bà Bùi Kim Y, sinh năm 2002 (vắng mặt).
13. Ông Bùi Vũ L, sinh năm 1996 (vắng mặt).
14. Bà Bùi Kim N1, sinh năm 1993 (vắng mặt).
15. Bà Lê Thị S, sinh năm 1972 (vắng mặt).
16. Ông Bùi Văn T3, sinh năm: 1968 (vắng mặt).
17. Ông Bùi Hoàng V (vắng mặt).
18. Ông Bùi Hoàng V1 (vắng mặt).
19. Ông Bùi Văn L1 (L2), sinh năm 1980 (có mặt) .
20. Ông Bùi Văn M1 (vắng mặt).
21. Bà Phan Thị Ú1 (vắng mặt).
22. Bà Cao Hồng D1, sinh năm 1985 (có mặt).
23. Ông Phạm Văn P, sinh năm 1984 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ trú: Ấp A, N, huyện U, tỉnh Mau (hiện nay K,
tỉnh Cà Mau).
- Người kháng cáo: Ông Bùi Khắc X (là bị đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh C ban hành Quyết định số: 191/QĐ-CTUB
ngày 22/10/2004 về việc giao cho L Ngư trường U Minh I tổng diện tích đất 6.846
ha tại 02 K N, huyện U để quản và sử dụng vào mục đích trồng rừng sản
xuất, sản xuất nông nghiệp, thổ cư và kênh thủy lợi. Trước năm 2004, diện tích đất
trên vẫn thuộc quyền quản lý, sử dụng của L Ngư Trường U Minh I Lâm Ngư
T4 đã giao khoán cho ông Bùi Đức X1 ông Phan Văn V2 (hai phần đất giáp
ranh nhau). Quá trình sử dụng đất giao khoán, năm 1994 ông Phan Văn V2 đã
3
chuyển nhượng thành quả lao động và phần đất theo hợp đồng giao khoán lại cho
ông Phạm Minh Đ. Đến khi hết thời hạn giao khoán, ông Phạm Minh Đ được L
Ngư trường U Minh I chấp nhận kết chuyển tiếp hợp đồng giao khoán tại Hợp
đồng số: 102/HĐ ngày 23/7/1996 nhưng xác định việc giao khoán hiệu lực từ
ngày 15/9/1994, diện tích đất giao khoán 7,2 ha. Phần đất của ông Bùi Khắc X
cũng được L Ngư trường U Minh I tiếp tục Hợp đồng giao khoán chuyển tiếp
tại Hợp đồng số: 101/HĐ ngày 13/4/1998 nhưng xác định việc giao khoán hiệu
lực từ ngày 15/9/1994, diện tích giao khoán 7,1 ha. Từ trước năm 1994, khi L
Ngư trường U Minh I giao khoán đất cho ông Phan Văn V2 và ông Bùi Khắc X thì
giữa hai phần đất đã hình thành bờ ranh rõ ràng, phân chia cụ thể vị trí hai phần đất
liền kề. Khi ông Phan Văn V2 chuyển nhượng lại Hợp đồng giao khoán cho ông
Phạm Minh Đ thì bờ ranh cũng được các bên giữ ổn định. Phần đất được L Ngư
trường U Minh I giao khoán cho ông Bùi Khắc X, ông Phạm Minh Đ sau này
thuộc quyền quản lý, sử dụng của Công ty TNHH MTV L3, do hết thời hạn giao
khoán nên Công ty TNHH MTV L3 chấp thuận kết Hợp đồng chuyển tiếp việc
giao khoán đất cho ông Bùi Khắc X tại Hợp đồng giao khoán số: 1844/2015/HĐ-
RSX ngày 30/12/2015, tại hồ sơ giao khoán đã thể hiện diện tích đất giao khoán
69.124,1m
2
thuộc thửa đất 196+178+152, khoảnh 03, tiểu khu D, kèm theo bản
trích đo lập ngày 07/6/2017. Ông Phạm Minh Đ cũng được Công ty TNHH MTV
L3 chấp nhận kết Hợp đồng giao khoán phần đất giao khoán trước đó tại Hợp
đồng giao khoán số: 1843/2015/HĐ-RSX ngày 30/12/2015, diện tích giao khoán
67.186,7m
2
, tại khoảnh số 03; tiêu khu 048; thửa đất số 202+177+131, kèm theo
bản trích đo lập ngày 07/6/2021.
Sau khi được kết lại Hợp đồng giao khoán, ông Phạm Minh Đ cho rằng
phần đất của ông đã thiếu, thiếu chiều dài của mặt tiền, mặt hậu. Ông xác định ông
Bùi Khắc X đã lấn chiếm từ đó xảy ra tranh chấp. Việc tranh chấp đã được Công ty
TNHH MTV L3 nhiều lần tổ chức giải quyết nhưng không mang lại kết quả. Quá
trình giải quyết tranh chấp, ngày 24/12/2019 ngày 18/7/2020, Công ty TNHH
MTV L3 đã tiến hành đo đạc lại diện tích hai phần đất. Kết quả đo đạc đã xác định
phần đất của ông Bùi Khắc X dư chiều dài của mặt tiền, mặt hậu xác định
phần đất ranh tranh chấp có chiều ngang là 2,4 mét, dài từ mặt tiền giáp đường T29
đến mặt hậu giáp Kênh 30. Công ty TNHH MTV L3 đã động viên các bên giữ y
hiện trạng ranh đất cũng việc động viên chia đôi phần ranh đất tranh chấp
nhưng ông Phạm Minh Đ không thống nhất. Công ty cũng vận động ông Bùi Khắc
X giao lại phần diện tích tranh chấp cho ông Phạm Minh Đ nhưng không được ông
Bùi Khắc X chấp nhận. Từ đó ông Phạm Minh Đ đã khởi kiện yêu cầu ông Bùi
Khắc X trả lại phần đất ranh đanh tranh chấp theo đo đạc thực tế là 1.023,9 m
2
.
Theo ông Phạm Minh Đ cho rằng, phần đất ông nhận giao khoán thì theo
bản vẽ trong hợp đồng giao khoán thể hiện phần mặt tiền giáp đường T29 có chiều
dài 73m mặt hậu giáp Kênh 30 chiều dài 69m. Phần đất của ông giáp với
phần đất nhận khoán của ông Bùi Khắc X nên đã bị ông i Khắc X lấn chiếm
trong quá trình sử dụng cơ giới đào đắp bờ ranh. Theo kết quả đo đạc thì phần mặt
tiền giáp T29, ông Bùi Khắc X lấn chiếm chiều ngang 0,4 mét chiều ngang
mặt hậu giáp Kênh 30 03 mét, tổng diện tích bị lấn chiếm 1.700m
2
nên ông
4
yêu cầu ông Bùi Khắc X trả lại phần đất lấn chiếm.
Ông Bùi Khắc X xác định phần đất của ông đã được nhận khoán của L Ngư
trường U Minh I từ trước năm 1996 và đã qua nhiều lần được L Ngư trường U
Minh I sau này ng ty TNHH MTV L3 kết hợp đồng chuyển tiếp việc
giao khoán vào các năm 1996, 2015. Ngay từ khi được nhận giao khoán thì phần
đất của ông tiếp giáp với phần đất giáp ranh của ông Phan Văn V2 hiện nay
đang do ông Phạm Minh Đ sử dụng thì giữa hai phần đất đã hình thành bờ ranh từ
rất lâu. Quá trình sdụng đất từ trước năm 1994 đến năm 2015 không phát sinh
tranh chấp phần bờ ranh cũng giữ được ổn định, không biến động phần bờ
ranh này. Phần đất ranh đanh tranh chấp hiện nay thuộc phần đất của ông, ông
đã trồng cây qua nhiều năm trên phần đất này, ông không có việc lấn ranh như ông
Phạm Minh Đ nên ông không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Minh Đ.
Công ty TNHH MTV L3 xác định phần đất hiện đang do Công ty TNHH
MTV L3 quản là do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh C giao tại Quyết định số:
191/QĐ-CTUB ngày 22/10/2004 Công ty thực hiện việc giao khoán đất cho
người dân được thực hiện theo Nghị định 135/2005/NĐ-CP của Chính phủ
Thông tư số 102/2006/TT-BNN&PTNT và diện tích các phần đất giao khoán được
thuê Văn phòng đăng quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh C đo đạc, lập hồ địa chính cho từng thửa đất. Việc tranh chấp giữa ông
Phạm Minh Đ với ông Bùi Khắc X đã kéo dài từ năm 2015, Công ty đã nhiều lần
giải quyết nhưng không mang lại kết quả nên Công ty hướng dẫn cho các bên khởi
kiện. Nay Công ty TNHH MTV L3 không có ý kiến mà sẽ thực hiện đúng theo kết
quả xét xử của Tòa án.
Ngân hàng N2 Chi nhánh huyện U không có yêu cầu.
Tại Bản án dân sự thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án
nhân dân huyện U Minh đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Minh Đ,
buộc ông Bùi Khắc X, ông Bùi Văn T3, Thị S, i Kim N1, Bùi L, Bùi
Kim Y giao lại cho ông Phạm Minh Đ phần đất có diện tích 1023.9 m
2
tại ấp A,
N, huyện U, tỉnh Mau quản sử dụng theo hợp đồng giao khoán với Công ty
TNHH L3. Đất tcận theo kết quả đo đạc của Công ty TNHH P1 cụ thể: Mặt
giáp đường T29 dài 0.87 mét; mặt giáp kênh 30 dài 1.24 mét, chiều dài giáp phần
đất ông Bùi Khắc X 974.41 mét, chiều dài phần đất giáp đất ông Phạm Minh Đ
974.4 mét (có đồ kèm theo). Buộc ông Bùi Khắc X, ông Bùi Văn T3,
Thị S, Bùi Kim N1, Bùi L, Bùi Kim Y di dời các cây keo lai trồng trên đất khi
trả lại đất.
Ngoài ra, án thẩm còn tuyên về chi ptố tụng, án phí quyền kháng
cáo bản án theo luật định.
Ngày 11/3/2025, ông Bùi Khắc X kháng cáo toàn bộ Bản án, không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Minh Đ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ
5
án; của Hội đồng xét xnhững người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử căn
cứ khoản 4 Điều 308 của Bộ luật Ttụng dân sự, Hủy Bản án dân sự thẩm số:
09/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án nhân dân huyện U Minh đình chỉ
giải quyết vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của ông Bùi Khắc X được thực hiện trong hạn luật định
hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét về quan hệ pháp luật cho thấy, giữa nguyên đơn và bị đơn tranh
chấp với nhau phần đất giáp ranh có tổng diện tích 1.023,9m
2
tại ấp A, xã N, huyện
U. Phần đất được Ủy ban nhân dân tỉnh C giao cho ng ty TNHH MTV L3 quản
lý, sử dụng. Công ty giao khoán đất cho ông Phạm Minh Đ ông Bùi Khắc X.
Đồng thời, Công ty TNHH MTV L3 yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp v
xác định phần đất ranh tranh chấp giữa ông Phạm Minh Đ và ông Bùi Khắc X. Tòa
án cấp thẩm xác định quan hệ pháp luật về “Tranh chấp quyền sử dụng đất giao
khoán” và áp dụng các qui định của Luật Đất đai để giải quyết là phù hợp.
[3] Xét về nguồn gốc đất; nội dung tranh chấp và kháng cáo của bị đơn:
Phần đất tranh chấp thuộc diện đất do Nhà nước quản lý, được Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh C giao cho L Ngư trường U Minh I tại Quyết định số: 191/QĐ-
CTUB ngày 22/10/2004 để quản và sử dụng vào mục đích trồng rừng sản xuất,
sản xuất nông nghiệp, thổ cư và kênh thủy lợi. Trước năm 2004, phần đất trên cũng
do L Ngư trường U Minh I quản lý L Ngư trường cũng đã thực hiện giao khoán
đất cho ông Bùi Khắc X, ông Phan Văn V2 ông Phan Văn V2 đã chuyển
nhượng thành quả lao động, hợp đồng giao khoán lại cho ông Phạm Minh Đ. Sau
năm 1994, L Ngư trường U I sau đó là Công ty TNHH MTV L3 tiếp tục thực hiện
việc giao khoán đất cho ông Phạm Minh Đ, ông Bùi Khắc X theo qui định chung.
Từ đó cho thấy, phần đất mà ông Bùi Khắc X, ông Phạm Minh Đ đang quản lý, s
dụng thuộc quyền sử dụng hợp pháp của Công ty TNHH MTV L3, ông Bùi Khắc
X và ông Phạm Minh Đ không được công nhận quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ
gia đình theo qui định tại khoản 1 Điều 166 của Luật đất đai năm 2013 chỉ
người sử dụng đất theo Hợp đồng giao khoán. Ông Bùi Khắc X, ông Phạm Minh Đ
không quyền định đoạt đối với các phần đất nhận giao khoán theo qui định về
quyền của người sử dụng đất tại Điều 167 của Luật đất đai năm 2013. Tnhững
căn cứ trên, ông Phạm Minh Đ không quyền đòi lại đất chỉ quyền tranh
chấp về diện tích đất được giao khoán với người giao khoán đất Công ty TNHH
MTV L3. Tuy nhiên, ông Phạm Minh Đ cho rằng ông Bùi Khắc X lấn chiếm ranh
đất của ông được giao khoán. Bên cạnh đó, Công ty TNHH MTV L3 cũng đã
nhiều lần giải quyết nhưng không mang lại kết quả. Hiện tại, Công ty TNHH MTV
L3 yêu cầu Tòa án giải quyết việc tranh chấp trên để xác định phần đất ranh đang
tranh chấp giữa ông Phạm Minh Đ ông Bùi Khắc X. Do không thể giải quyết
được việc tranh chấp nên các đương sự Công ty TNHH MTV L3 yêu cầu Tòa
án giải quyết vụ việc là có căn cứ.
Xét qua quá trình thực hiện việc giao khoán đất cho thấy, trước năm 1996
6
thì L Ngư trường U Minh I cũng đã giao khoán đất cho ông Bùi Khắc X ông
Phan Văn V2.Khi thực hiện giao khoán 02 phần đất này xác định diện tích đất
giao khoán nhưng không thể hiện được việc đo đạc cụ thể. Ông Phan Văn V2 xác
định khi ông nhận đất giao khoán thì diện tích chiều dài mặt tiền, mặt hậu
không đủ theo hồ sơ nhận khoán đất. Sau khi được giao khoán, ông Bùi Khắc X
ông Phan Văn V2 cũng đã tạo lập bờ ranh phân định ranh giới giữa hai phần đất.
Sau đó, ông Phan Văn V2 chuyển nhượng thành quả lao động, hợp đồng nhận
khoán lại cho ông Phạm Minh Đ, phần bờ ranh vẫn tồn tại cho đến khi phát sinh
tranh chấp vào năm 2015.
Tại hồ sơ giao khoán đất lâm nghiệp xác lập vào năm 1996 và 1998 (nhưng
hiệu lực của hợp đồng giao khoán được xác định từ ngày 15/9/1994) thì phần đất
giao khoán cho ông Phạm Minh Đ diện tích 7,2 ha; chiều dài của mặt tiền, mặt
hậu là 72 mét. Phần đất giao khoán cho ông Bùi Khắc X diện tích giao khoán là
7,1 ha; chiều dài mặt tiền, mặt hậu 71 mét. Tuy nhiên, cả hai phần đất trên
không thể hiện việc đo đạc cụ thể. Phần bờ ranh giữa hai phần đất vẫn tồn tại
nguyên hiện trạng.
Tại hồ giao khoán đất lập lại vào năm 2015 thì phần đất giao khoán cho
ông Phạm Minh Đ diện tích 67.186,7m
2
. Còn phần đất giao khoán cho ông
Bùi Khắc X diện tích 69.124,1m
2
. Tại thời điểm năm 2015 không thể hiện việc
đo đạt hai phần đất này, còn bản vẽ trong hồ giao khoán được Công ty
TNHH MTV L3 thuê đơn vị tư vấn Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh C thực hiện
vào năm 2017.
Từ các sở trên, đối chiếu các lần giao khoán đất trước năm 1996; Năm
1996 năm 2015 đã chứng minh các phần đất giao khoán không xác định được
tính thống nhất về diện tích trong khi 02 phần đất giao khoán trước đó trên thực địa
không sự thay đổi kcả phần bờ ranh chung hình thành việc phân chia giữa hai
phần đất. Từ đó, chứng minh về diện tích đất giao khoán, về số đo chiều dài của
các cạnh mặt tiền, mặt hậu của hai phần đất giao khoán cho ông Phạm Minh Đ
ông Bùi Khắc X là không chính xác. Còn bản vẽ đo đạc diện tích đất do Văn phòng
Đăng ký đất đai tỉnh C thực hiện thì không xác định đúng vị trí, mốc giới trên thực
địa của 02 thửa đất đã được xác định giao khoán trước đó.
Tại Bản trích đo hiện trạng lập ngày 12/7/2023 đã xác định phần diện tích
đất không tranh chấp đang do ông Phạm Minh Đ quản 67.517,7m
2
, còn diện
tích đất không tranh chấp đang do ông Bùi Khắc X quản 70.917,4m
2
. Phần
diện tích đất tranh chấp là 1.023,9m
2
, phần đất tranh chấp này là phần bờ ranh giữa
hai phần đất có chiều dài mặt tiền là 0,87 mét, mặt hậu là 1,24 mét. Từ bản trích đo
này đã xác định phần diện tích đất của ông Phạm Minh Đ được giao khoán
67.186,7m
2
ông Phạm Minh Đ đang quản phần đất không tranh chấp
67.517,7m
2
(thừa 331m
2
). Còn phần đất giao khoán cho ông Bùi Khắc X
69.124,1m
2
ông Bùi Khắc X đang quản diện tích đất không tranh chấp
70.917,4m
2
(thừa 1.793,3m
2
). Việc thừa diện tích đất trên thực địa so với diện tích
giao khoán không lớn trong khi diện tích đất giao khoán trước đó kể cả số đo
chiều dài các cạnh mặt tiền, mặt hậu qua các lần giao khoán không chính xác,
không đúng trên thực địa. Bên cạnh đó, phần bờ ranh chung của hai phần đất đã
7
hình thành ổn định qua thời gian dài nên từ đó không thể căn cứ vào đồ bản
vẽ được Văn phòng Đăng đất đai tỉnh C để làm sở phân định ranh giữa hai
phần đất.
Ông Phạm Minh Đ cho rằng, quá trình sử dụng đất thì ông Bùi Khắc X đã
dùng cơ giới đào đắp bờ ranh lấn sang phần đất của ông cạnh mặt tiền là 0,4 mét
cạnh mặt hậu 03 mét nhưng ngoài lời khai thì ông Phạm Minh Đ không cung
cấp được chứng cứ nào để chứng minh cho việc ông Bùi Khắc X lấn đất. Trong khi
đó, phần đất hiện tại không tranh chấp của ông Phạm Minh Đ đã nhiều hơn diện
tích đất giao khoán, còn phần bờ ranh vẫn tồn tại nguyên hiện trạng. Ông Phạm
Minh Đ căn cứ vào bản vẽ được lập vào năm 2017 để xác định chiều dài các cạnh
mặt tiền, mặt hậu của phần đất thiếu do bị lấn chiếm là không đảm bảo sở vững
chắc, ngay cả khi người nhận khoán trước đó là ông Phan Văn V2 cũng xác định là
phần đất nhận khoán trên thực địa vào thời gian trước năm 1996 đã thiếu so với
diện tích đất giao khoán.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Bùi Khắc X anh Bùi Văn L1 (Lỹ) đều
đồng ý xác định phần diện tích bờ ranh đang tranh chấp bờ ranh chung giữa
hai phần đất và cũng đồng ý chia đôi phần bờ ranh tranh chấp này. Ý kiến của ông
Bùi Khắc X, anh Bùi Văn L1 (L) hoàn toàn phù hợp với hiện trạng trên thực địa
cũng như phù hợp với diễn biến của quá trình giao khoán đất cho ông Phạm Minh
Đ và ông Bùi Khắc X.
Tòa án cấp thẩm căn cứ vào Bản vẽ được Văn phòng Đăng đất đai
tỉnh C lập vào năm 2017 so với diện tích đo đạc thực tế tại Bản trích đo hiện trạng
lập ngày 12/7/2023 để buộc ông Bùi Khắc X giao toàn bộ phần đất tranh chấp cho
ông Phạm Minh Đ là không phù hợp. Qua các sở phân tích và diễn biến vụ việc
thì phần đất ranh tranh chấp được xác định bờ ranh chung nên chia đôi phần b
ranh đang tranh chấp cho ông Phạm Minh Đ và ông Bùi Khắc X là phù hợp.
Từ bản trích đo hiện trạng lập ngày 12/7/2023 của Công ty TNHH P1 đã
xác định phần đất ranh tranh chấp tại thửa số 3 có diện tích là 1.023,9m
2
được giới
hạn tại các mốc M4,M5,M9,M10. Phần ranh được xác định cụ thể sau: Cạnh mặt
tiền giáp đường T29, chia đôi chiều dài cạnh M9,M10 để xác định điểm giữa M
(M9,M = 0,44m; M10,M=0,43m); Cạnh mặt hậu giáp Kênh 30, chia đôi chiều dài
cạnh M4,M5 để xác định điểm giữa M0 (M4,M0 M5,M0=0,62m). Phần ranh
giới hạn giữa hai phần đất được xác định đường thẳng nối từ mốc M đến mốc
M0.
Phần diện tích đất tranh chấp ông Bùi Khắc Xương C những người
đang quản lý, sử dụng đất phải giao lại cho ông Phạm Minh Đ diện tích
510,4m
2
, được xác định tại các mốc M,M0,M4,M10 bản trích đo hiện trạng lập
ngày 12/7/2023 của Công ty TNHH P1.
[4] Từ các căn cứ trên, chấp nhận một phần kháng cáo của ông Bùi Khắc
X. Sửa Bản án dân sự thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án
nhân dân huyện U Minh.
[5] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau về việc
hủy án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án là chưa phù hợp với nhận định của Hội
8
đồng xét xử nên không chấp nhận.
[6] Về chi phí tố tụng: Chi phí thẩm định giá 6.364.000 đồng chi phí
đo đạc đất tranh chấp 28.158.000 đồng, chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ
200.000 đồng, tổng cộng 34.722.000 đồng đã được ông Phạm Minh Đ chi trả xong.
Chi phí này buộc ông Phạm Minh Đ ông Bùi Khắc X mỗi người phải chịu ½ là
căn cứ. Do ông Phạm Minh Đ đã thanh toán xong nên ông Bùi Khắc X chịu
trách nhiệm hoàn lại cho ông Phạm Minh Đ ½ chi phí tố tụng bằng 17.361.000
đồng.
[7] Ông Phạm Minh Đ ông Bùi Khắc X đều người cao tuổi nên được
miễn án phí dân sự thẩm. Ông Bùi Khắc X không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
[8] Kiến nghị Công ty TNHH MTV L3 chỉnh diện tích, vị trí các phần
đất giao khoán cho ông Phạm Minh Đ i Khắc X cho đúng với hiện trạng s
dụng đất.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 2 Điều 308; 309 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Bùi Khắc X. Sửa Bản án dân sự sơ
thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 20/01/2025 của Tòa án nhân dân huyện U Minh
(nay là Tòa án nhân dân Khu vực 2 – Cà Mau).
2. p dng các Điu 26; 147, 148; 157; 158, 165 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Điều 166; 167; 203 của Luật đất đai năm 2013; Ngh quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí, lệ phí Toà án;
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Minh Đ. Buộc ông
Bùi Khắc X cùng với những người ở trên đất (bao gồm ông Bùi Văn T3, bà Lê Thị
S, Bùi Kim N1, Bùi L, Bùi Kim Y, i Văn L1 (L2) giao lại cho ông Phạm
Minh Đ phần đất ranh tranh chấp diện tích 510,4m
2
tọa lạc tại ấp A, N,
huyện U, tỉnh Mau quản sdụng theo hợp đồng giao khoán số 1843 ngày
30/12/2015 giữa Công ty TNHH MTV L3 với ông Phạm Minh Đ. Vị tphần đất
được xác định tại các mốc M,M0,M4,M10 Bản trích đo hiện trạng lập ngày
12/7/2023 của Công ty TNHH P1 (được bổ sung 02 mốc M,M0 điểm mốc phân
ranh; kèm theo bản trích đo hiện trạng).
- Buộc ông Bùi Khắc X cùng với những người ở trên đất (bao gồm ông Bùi
Văn T3, bà Thị S, Bùi Kim N1, Bùi L, Bùi Kim Y, Bùi Văn L1 (Lỹ) di dời
các công trình, kiến trúc, tghu hoạch các cây trồng trên đất để giao lại đất cho ông
Phạm Minh Đ.
- Buộc ông Bùi Khắc X hoàn lại ½ chi phí tố tụng cho ông Phạm Minh Đ
bằng số tiền 17.361.000 đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành
án còn phải chịu thêm khoản lãi suất chậm thi hành theo mức lãi suất chậm thực
9
hiện nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
- Ông Phạm Minh Đ, ông Bùi Khắc X được miễn án phí dân sự thẩm.
Ông Bùi Khắc X không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân Khu vực 2 – Cà Mau;
- Phòng THADS Khu vực 2 – Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thế Phương
Tải về
Bản án số 415/2025/DS-PT Bản án số 415/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 415/2025/DS-PT Bản án số 415/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất