Bản án số 38/2022/DS-ST ngày 02/08/2022 của TAND TP. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 38/2022/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 38/2022/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 38/2022/DS-ST ngày 02/08/2022 của TAND TP. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Hồng Ngự (TAND tỉnh Đồng Tháp) |
| Số hiệu: | 38/2022/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 02/08/2022 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN HỒNG NGỰ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH ĐỒNG THÁP
Bản án số: 38/2022/DS-ST
Ngày: 02-8-2022
V/v tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản
và bồi thường thiệt ngoài hợp đồng do sức
khỏe bị xâm phạm
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Dung.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Bùi Tấn Dũng.
2. Ông Nguyễn Thanh Hải.
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thị Tưởng – Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp tham
gia phiên tòa: Ông Trần Thái Hưng – Kiểm sát viên.
Ngày 02 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2022/TLST-DS ngày 18 tháng 4 năm 2022,
về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do sức khỏe bị xâm phạm, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
97/2022/QĐXXST- DS ngày 14 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1966. Địa chỉ cư trú: ấp 2, xã
1, huyện HN, tỉnh ĐT. Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Kim Q, sinh năm 1981. Địa chỉ cư trú: ấp G, xã 1,
huyện HN, tỉnh ĐT. Vắng mặt.
3. Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1938. Địa chỉ cư trú: ấp
2, xã 1, huyện HN, tỉnh ĐT (đã chết).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện ngày 16/3/2022, trong quá trình tiến hành tố tụng và tại
phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ, trình bày: Ông và chị Q không
có quan hệ bà con, do ông làm lúa gần nhà chị Q nên quen biết nhau. Thấy chị Q
nghèo khổ, bán vé số nên có cho chị Q mượn vàng, tiền, cụ thể như sau:
Lần thứ 1: Vào ngày 15, không nhớ tháng, năm 2020 chị Q mượn 02 chỉ vàng
24kra, vàng nhẫn nhưng ông không đưa vàng mà đưa tiền là 10.500.000đ, thỏa thuận
đóng lãi hàng tháng 160.000đ, việc cho vay tiền không làm biên nhận, có ông T
không biết họ tên, năm sinh ở ấp 2, xã 1 trực tiếp nhìn thấy ông đưa tiền cho chị Q
mượn tại nhà ông T;
Lần thứ 2: Do chị Q không lấy vé số của ông Bảy D, không biết họ tên, năm
sinh đầy đủ nhà ở ấp 2, xã 1 bán được, vì chị Q bán cần tiền nên mượn ông hỏi (vay)
vàng bà Sáu H họ tên là Lê Thị Đ, sinh năm 1956 ở ấp 1, xã 1. Ông là người trực
tiếp vay 03 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn của bà Sáu H để đưa cho chị Q vào ngày
13, không nhớ tháng, năm 2020;
Lần thứ 3: Vào ngày 17, không nhớ tháng, năm 2020 thì chị Q nhờ ông hỏi
(vay) bà Sáu H 05 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn.
Lần thứ 4: Vào ngày 20, không nhớ tháng, năm 2020 thì chị Q cũng nhờ ông
hỏi (vay) bà Sáu H 05 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q vay để cất nhà cầu
và sửa nhà bếp;
Lần thứ 5: Ngày 19, không nhớ tháng, năm 2020 thì chị Q nhờ ông hỏi (vay)
bà Sáu H 07 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn để chị Q làm đám hỏi cho con trai chị
Q nhưng ông không biết họ tên đầy đủ của con chị Q;
Lần thứ 6: Ngày 13, không nhớ tháng, năm 2020 thì chị Q nhờ ông hỏi (vay)
bà Sáu H 05 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn để chị Q vô hụi và cho vay lại;
Lần thứ 7: Ngày 13, không nhớ tháng, năm 2020 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 01 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q để chị Q sửa máy may để may
đồ và mua đồ về may bán;
Lần thứ 8: Ngày 18, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 02 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q để chị Q mua đồ về bán;
Lần thứ 9: Ngày 24, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 02 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q để chị Q mua đồ về bán;
Lần thứ 10: Ngày 17, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 06 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn, chị Q nói thiếu nợ người ta, đóng lãi nhiều
quá nên nhờ ông vay vàng dùm để chị Q trả nợ;
3
Lần thứ 11: Ngày 18, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 01 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q, chị Q nói dịch bệnh, làm không
được nên nhờ ông vay;
Lần thứ 12: Ngày 11, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 03 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q để chị Q đóng chiếc xe đẩy mua
bán. Tại phiên tòa ông Đ trình bày chị Q nói làm công chuyện.
Lần thứ 13: Ngày 19, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 02 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q, chị Q nói thiếu thốn, lấy đồ về
mua bán. Tại phiên tòa ông Đ khai chị Q vay vàng không biết làm gì.
Lần thứ 14: Ngày 11, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Sáu H 02 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q, chị Q nói mua bán lỗ lã nên nhờ
ông vay dùm. Tại phiên tòa ông Đ khai chị Q vay vàng không biết làm gì.
Lần thứ 15: Ngày 18, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) bà
Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1963 là vợ của ông 03 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho
chị Q, để chị Q xoay sở. Tại phiên tòa ông Đ khai chị Q vay vàng không biết làm gì.
Lần thứ 16: Ngày 15, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay)
chị T, không biết họ tên năm sinh đầy đủ ở ấp 2, xã 1, vay 01 chỉ vàng 24kra, loại
vàng nhẫn cho chị Q, để chị Q đóng lời cho người khác. Tại phiên tòa ông Đ khai
chị Q vay vàng không biết làm gì.
Lần thứ 17: Ngày 15, không nhớ tháng, năm 2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay)
chị T 01 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn cho chị Q để chị Q đóng lãi cho người ta.
Tại phiên tòa ông Đ khai chị Q vay vàng không biết làm gì.
Lần thứ 18: Ngày 05/12/2021 chị Q nhờ ông hỏi (vay) chị T 01 chỉ vàng 24kra,
loại vàng nhẫn cho chị Q để chị Q mua đồ cho con trai chị Q. Tại phiên tòa ông Đ
khai chị Q vay vàng không biết làm gì.
Tất cả các lần chị Q vay vàng là vàng 9T8, lãi suất thỏa thuận 80.000đ/01 chỉ,
không hẹn ngày trả nợ gốc, không nhớ chị Q đóng lãi được bao nhiêu tiền, mỗi lần
đóng lãi là 4.000.000đ/52 chỉ, chị Q đóng lãi đến tháng 12 năm 2021 âm lịch thì
không còn đóng lãi nữa, các lần ông đưa vàng cho chị Q vay cũng như chị Q đóng
tiền lãi cho ông thì không có làm giấy tờ, không có ai chứng kiến. Nhưng ngày
13/11/2021 tại nhà ông T, thì có mặt ông, chị Q, ông T thì ông hỏi chị Q “tiền lời
người ta sao” thì chị Q trả lời với ông “tới tháng tôi ra, tôi gởi tiền chú ba đóng cho
ông”. Nghĩa là gởi tiền lãi cho ông T để đóng lãi cho ông.
Lần thứ 19: Ngày 19/12/2021 chị Q nhờ ông vay anh L, không biết họ tên,
năm sinh đầy đủ 15.000.000đ để chị Q tổ chức đám cưới cho con trai, thỏa thuận 10
4
ngày sau trả, chị Q đóng lãi 300.000đ/01 tháng. Ngày 29/12/2021 chị Q đã trả số
tiền vay này dứt, sau đó chị Q nhờ ông vay lại 4.000.000đ để chị Q đóng lãi cho
người ta, thỏa thuận 40.000đ/01 triệu, nhưng từ khi vay cho đến nay chị Q không
đóng lãi cho ông lần nào, lúc ông đưa tiền cho chị Q không có làm giấy tờ, không ai
nhìn thấy.
Các lần chị Q vay vàng, tiền là chị Q kêu ông đi hỏi (vay) dùm chị Q. Ông là
người trực tiếp đi vay vàng, tiền của bà Sáu H, chị T, anh L, bà Đ rồi trực tiếp giao
vàng, tiền lại cho chị Q, chị Q không có trực tiếp hỏi vàng hay đóng tiền lãi cho cho
bà Sáu H, chị T, anh L, bà Đ, tới tháng chị Q đưa tiền lời cho ông, rồi ông đi đóng
lời cho những người ông đã hỏi vay. Việc vay tiền, vàng không có thế chấp tài sản.
Nguyên nhân chị Q không trực tiếp hỏi vay vàng, tiền của bà Đ, bà Sáu H, anh L,
chị T là do chị Q hỏi người ta không cho vay. Ông không có quan hệ tình cảm với
chị Q, không có đi nhà trọ hay nhà nghĩ để quan hệ nam nữ với chị Q, cũng không
có hứa cho chị Q tiền. Tại phiên tòa ông Đ trình bày có đi nhà nghĩ 555 với chị Q
được 2-3 lần, mỗi lần quan hệ nam nữ xong thì ông cho chị Q 500.000đ.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn T trước đây có đến Tòa án làm chứng về
việc có nghe chị Q hứa tới tháng đóng tiền lãi cho ông thì ông T đã chết, do bị tai nạn
giao thông, còn những người mà ông trình bày là cho ông vay vàng rồi ông cho chị Q
vay lại thì họ chỉ biết ông vay, mượn vàng của họ, không có biết việc ông cho chị Q
vay, mượn vàng cũng như chị Q đóng tiền lời cho ông.
Tổng cộng ông cho chị Q vay 52 chỉ vàng 24kra, loại vàng nhẫn 9T8 và
4.000.000đ. Nay ông yêu cầu chị Q trả cho ông 52 chỉ vàng 24kra (vàng 9T8), không
yêu cầu tính lãi, không yêu cầu chị Q trả 4.000.000d, thống nhất cho chị Q
4.000.000đ mà ông đã vay của anh L cho chị Q mượn. Ngoài ra, không yêu cầu
nào khác.
Do chị Q nhờ ông vay vàng để lo cho gia đình và làm ăn, nợ ông tổng cộng
52 chỉ vàng 24kra, tới tháng đóng lời (tiền lãi), chị Q không đóng tiền lời, ông gọi
điện thoại cho chị Q không được, nghĩa là chị Q không nghe máy, chặn cuộc gọi
điện thoại từ ông nên vào ngày 10/01/2022 âm lịch ông nhìn thấy chị Q ngoài Đồn
biên phòng xã 1 thì ông hỏi chị Q tại sao chặn cuộc gọi điện thoại của ông thì chị Q
nói “tôi chặn thì làm gì tôi” tức giận nên ông lấy xe của ông đụn vào xe của chị Q,
làm xe chị Q ngã xuống đường, rồi chị Q chửi ông nên ông có dùng tay đánh trúng
vào mặt chị Q 02 cái, ông không có dùng chân đạp vào bụng, dùng tay đánh vào
lưng chị Q, chỉ có dùng tay đánh vào mặt chị Q 02 cái, sau đó chị Q cởi áo luyện
(chọi) lại ông, thấy vậy nên ông bỏ đi, chứ ông không lột đồ chị Q, khi bỏ đi thì chị
Q chạy theo nắm áo ông lại và lấy nón bảo hiểm đánh trúng đầu và lưng của ông
5
khoảng 03-04 cái nhưng không gây thương tích nên ông không có đi điều trị thương
tích, sau đó chị Q làm rớt cái điện thoại nên ông lụm (nhặt) bỏ vào túi quần của
mình, ông đã trả lại điện thoại cho chị Q. Sự việc xảy ra Công an xã 1 đến làm việc
và Công an huyện HN đã xử phạt ông 5.000.000đ, về hành vi đánh chị Q và ông đã
nộp phạt xong. Nay chị Q yêu cầu ông bồi thường thiệt hại về sức khỏe tổng cộng
37.300.000đ. Tại phiên tòa ông Đ chỉ thống nhất bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho
chị Q tổng cộng 5.000.000đ.
Trong quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm: Bị đơn chị Nguyễn
Thị Kim Q, trình bày: Việc ông Đ trình bày chị có vay của ông Đ 19 lần với số vàng
52 chỉ vàng 24 kra và 4.000.000đ là không đúng, chị không có vay tiền vàng gì của
ông Đ, cũng không có nhờ ông Đ vay tiền, vàng gì của người khác để cho chị vay,
ông Đ cũng không cho chị vàng hay tiền. Không có lần nào chị nói với ông Đ câu
“tới tháng tôi ra, tôi đóng chứ không có giựt ông” cũng không có nói câu “tới tháng
tôi ra, tôi gởi tiền chú ba đóng cho ông”. Không nhớ ngày tháng năm, chỉ nhớ cách
nay hơn 01 năm thì chị bán vé số ông Đ mua vé số chị thối tiền dư ông Đ không
nhận và cho chị, có một lần tại nhà ông T thì ông Đ có cho chị được 500.000đ, do
ông Đ thường xuyên chọc ghẹo chị, một ngày gọi điện thoại cho chị rất nhiều lần
nên chị chặn cuộc gọi điện thoại từ ông Đ, không nhớ ngày tháng năm chị và ông Đ
có đến nhà nghĩ 555 trên biên giới TP1 để quan hệ nam nữ, việc chị và ông Đ có
quan hệ tình cảm không có ai biết. Không có lần nào tại nhà ông T, chị thừa nhận
hoặc nói câu “tới tháng tôi ra đóng” hay “tới đó không gặp ông thì gởi cho chú ba”.
Ngày 26/01/2022 chị và bà thợ nấu đám cưới cho nhà chị, không biết họ tên
thì bị ông Đ chặn đường và đụng xe làm chị và bà thợ nấu té xuống đường, rồi ông
Đ nói, nếu chị không nghe điện thoại thì ông Đ sẽ đến nhà chị quậy, đám cưới con
chị khỏi làm. Vào ngày 10/2/2022 ông Đ chặn đầu xe chị, rồi dùng tay đánh trúng
mặt chị 02 cái, mặt bị bầm, sưng, ông Đ còn dùng tay đánh vào lưng chị 02 cái, dùng
chân đạp vào bụng chị khoảng 02-03 cái, chị bị lối, lưng bầm, chân tay bị chày xước,
bàn chân phải bị xức móng chân, nhờ người dân can ngăn nên ông Đ không đánh
chị nữa. Nguyên nhân ông Đ đánh chị là do ông Đ điện thoại cho chị rất nhiều lần,
sợ chồng và con trai chị biết nên chị chặn cuộc gọi điện thoại của ông Đ, việc ông Đ
gọi điện cho chị là do chị và ông Đ có quan hệ tình cảm với nhau, không phải ông
Đ gọi điện để đòi tiền, vàng hoặc yêu cầu chị đóng tiền lãi mà ông Đ trình bày đã
cho chị vay tổng cộng 52 chỉ vàng 24kra. Ngoài ra, chị và ông Đ không còn mâu
thuẫn nào khác. Sau khi bị ông Đ đánh thì chị có báo Công an xã 1 và Công an huyện
HN, kết luận giám định tỷ lệ thương tật của chị do ông Đ gây ra là 10% nên cơ quan
Cảnh sát điều tra Công an huyện HN không khởi tố vụ án hình sự. Chị không có
khiếu nại về việc Công an huyện không xử lý hình sự đối với hành vi ông Đ đánh
6
chị, chỉ yêu cầu ông Đ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho chị.
Việc ông Đ yêu cầu chị trả 52 chỉ vàng 24kra thì chị không chấp nhận toàn bộ
yêu cầu của ông Đ. Chị yêu cầu ông Nguyễn Văn Đ bồi thường thiệt hại về sức khỏe
cho chị số tiền là 37.300.000đ, gồm các khoản tiền sau: Tiền thuốc và chi phí điều trị
bệnh tại Bệnh viện, tổng cộng 5.000.000đ; Tiền ăn uống bồi thường, phục hồi sức
khỏe trong thời gian điều trị bệnh là 60 ngày x 200.000đ = 12.000.000đ; Tiền xe đi
lại từ ấp GB đến bệnh viện đa khoa khu vực HN đi về 03 lượt x 200.000đ = 600.000đ,
tiền đi từ ấp GB đến Trung tâm giám định pháp y tỉnh ĐT 300.000đ, tổng cộng là
900.000đ; Tiền mất thu nhập khi nằm viện và sau khi xuất viện không lao động được
là 200.000đ x 60 ngày = 12.000.000đ; Tiền công của người nuôi bệnh trong thời gian
nằm viện 200.000đ x 7 ngày = 1.400.000đ; Tiền tổn thất tinh thần 02 tháng x
3.000.000đ = 6.000.000đ. Do bị ông Đ đánh nên chị phải hỏi, vay tiền của người
khác để điều trị thương tích, hiện chị còn nợ 15.000.000đ, nếu ông Đ thống nhất bồi
thường thiệt hại sức khỏe cho chị thì chị chỉ yêu cầu ông Đ bồi thường 11.900.000đ
gồm tiền chi phí điều trị bệnh, tiền xe và tiền tổn thất tinh thần, không yêu cầu bồi
thường tiền công lao động người nuôi bệnh, tiền mất thu nhập. Tại phiên tòa chị Q
thống nhất việc ông Đ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho chị tổng cộng
5.000.000đ. Ngoài ra, không còn yêu cầu nào khác.
Tại phiên tòa ông Nguyễn Văn Đ thống nhất giá vàng tại thời điểm xét xử sơ
thẩm là 5.170.000đ/01 chỉ. Chị Q không có ý kiến về giá vàng mà ông Đ đã thống
nhất, cũng không đề nghị Hội đồng xét xử thành lập Hội đồng định giá để định giá
vàng tại thời điểm xét xử.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 12/5/2022 người làm chứng ông Nguyễn Văn T,
trình bày: Ông không có bà con hay mâu thuẫn gì với ông Đ, chị Q. Không nhớ ngày
tháng năm, cũng không nhớ cách đây bao lâu, chỉ nhớ lúc đó tại nhà ông thì chị Q
từ trên đi xuống, ghé nhà ông, một lúc sau thì ông Đ chạy đến nhà ông, ông nghe chị
Q và ông Đ cự cãi nhau, ông nghe ông Đ nói “tiền lời 3.000.000 – 4.000.000đ tới
tháng sao không đóng cho người ta” thì chị Q trả lời “tới tháng tôi ra đóng”, chị Q
còn nói “tới đó không gặp ông thì gởi cho chú ba”, nghĩa là gởi tiền lời cho ông để
ông đưa lại cho ông Đ, vì 01-02 ngày thì ông Đ đến nhà ông uống trà. Sau đó, hai
bên tiếp tục cự cãi nhau nên ông đuổi chị Q, ông Đ ra chỗ khác, không được um xùm
tại nhà ông. Ông chỉ trực tiếp nghe nói như vậy, ngoài ra không biết gì khác. Chị Q
nói gởi tiền cho ông nhưng sau đó không có lần nào chị Q đưa tiền gì để nhờ ông
chuyển lại cho ông Đ. Việc chị Q nói “tới tháng tôi ra đóng” thì ông không biết đó
là đóng tiền gì, nghĩa là tiền đóng lời, lãi hay trả nợ ông Đ, chỉ nghe ông Đ nói
3.000.000đ - 4.000.000đ tiền lời sao tới tháng không đóng thì ông chỉ nghe chị Q trả
7
lời như vậy. Không nhớ ngày tháng năm, chỉ nhớ có lần tại nhà ông thì ông nhìn
thấy ông Đ đưa tiền cho chị Q, không biết đưa bao nhiêu tiền, cũng không biết cho
chị Q vay hay mượn tiền gì của ông Đ, hay ông Đ cho chị Q tiền tiêu xài cá nhân.
Chuyện quan hệ tình cảm giữa ông Đ, chị Q thì ông không biết, vì đó là chuyện đời
tư cá nhân. Ngoài ra, không trình bày gì khác.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Về tố tụng từ khi thụ lý vụ án
và quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án theo đúng các quy
định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư
ký phiên tòa đã tiến hành đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.
Người tham gia tố tụng chấp hành tốt nội quy phiên tòa. Về nội dung vụ án: Đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn Đ, về việc yêu cầu
chị Qtrả 52 chỉ vàng 24kra (vàng 9T8). Tại phiên tòa ông Nguyễn Văn Đ và chị
Nguyễn Thị Kim Qthống nhất thỏa thuận, ông Đ bồi thường thiệt hại về sức khỏe
cho chị Qlà 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên,
Hội đồng xét xử nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ông Nguyễn Văn Đ yêu cầu chị Nguyễn Thị Kim Q trả vàng vay còn nợ
và chị Q yêu cầu ông Đ bồi thường thiệt hại về sức khỏe do bị xâm phạm và chị Q
hiện đang cư trú tại ấp G, xã 1, huyện HN nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân huyện HN theo quy định tại các Điều 463, 590 của Bộ luật Dân sự năm
2015, khoản 3, 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
[2] Trong quá trình tiến hành tố tụng người làm chứng ông Nguyễn Văn T đã
chết nhưng trước đó ông T đã có lời khai trực tiếp với Tòa án nên Hội đồng xét xử
tiếp tục giải giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[3] Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn Đ và chị Nguyễn Thị Kim Q thống nhất
thỏa thuận, ông Đ bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho chị Q số tiền 5.000.000đ.
Xét, việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự phù hợp với quy định tại Điều 5, Điều 246 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét, tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu
chị Nguyễn Thị Kim Qtrả 52 chỉ vàng 24kra (vàng 9T8). Bị đơn chị Nguyễn Thị
8
Kim Q không thừa nhận có mượn hay vay vàng của ông Đ và ông Đ cũng không có
chứng cứ chứng minh đã cho chị Qvay 52 chỉ vàng 24kra. Ông Đ cho rằng ngày
13/11/2021 tại nhà ông T, thì có mặt ông, chị Q, ông T thì ông Đ hỏi chị Q “tiền lời
người ta sao” thì chị Q trả lời với ông “tới tháng tôi ra, tôi gởi tiền chú ba đóng cho
ông”. Nghĩa là gởi tiền lãi cho ông T để đóng lãi cho ông, tuy nhiên tại biên bản lấy
lời khai ngày 12/5/2022 người làm chứng ông Nguyễn Văn T, trình bày “Việc chị Q
nói tới tháng tôi ra đóng thì ông không biết đó là đóng tiền gì, nghĩa là tiền đóng lời,
lãi hay trả nợ cho ông Đ, chỉ nghe ông Đ nói 3.000.000đ - 4.000.000đ tiền lời sao
tới tháng không đóng thì ông chỉ nghe chị Q trả lời như vậy. Không nhớ ngày tháng
năm, chỉ nhớ có lần tại nhà ông thì ông nhìn thấy ông Đ đưa tiền cho chị Q, không
biết đưa bao nhiêu tiền, cũng không biết cho chị Q vay hay mượn tiền gì của ông Đ,
hay ông Đ cho chị Q tiền tiêu xài cá nhân”. Như vậy, việc ông T trình bày có nghe
chị Q nói “tới tháng tôi ra đóng” không có nghĩa là thừa nhận nợ ông Đ 52 chỉ vàng
24kra. Do đó, yêu cầu của ông Nguyễn Văn Đ là không có căn cứ nên Hội đồng xét
xử không chấp nhận là phù hợp với quy định tại khoản 1, 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[4] Đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện HN là
có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử
nên được chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn Đ chịu 13.442.000đ (52 chỉ
vàng x giá vàng 5.170.000đ/1 chỉ x 5% = 13.442.000đ) tiền án phí dân sự sơ thẩm
đối với yêu cầu không được chấp nhận, chịu 250.000đ (5.000.000đ x 5% =
250.000đ) đối với yêu cầu của chị Q được chấp nhận, tổng cộng 13.692.000đ được
trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 7.150.000đ theo biên lai thu số 0003872 ngày
18/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HN, ông Đ còn phải chịu
6.542.000đ là phù hợp với quy định tại Điều 144, khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng
dân sự, khoản 3, 5 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 5, khoản 3, 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, khoản 1, 4 Điều 91, Điều 144, khoản 1 Điều 147, Điều 246 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Điều 463, Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 3, 5 Điều 26
của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
9
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn Đ, về việc yêu cầu chị
Nguyễn Thị Kim Q trả 52 (năm mươi hai) chỉ vàng 24kra.
2. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Ông Nguyễn Văn Đ thống nhất
bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho chị Nguyễn Thị Kim Q số tiền là 5.000.000đ
(Năm triệu đồng).
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn Đ chịu 13.692.000đ được trừ
vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 7.150.000đ theo biên lai thu số 0003872 ngày
18/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện HN, ông Đ còn phải chịu
6.542.000đ (Sáu triệu năm trăm bốn mươi hai nghìn đồng).
4. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, tất
cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất bằng 50% mức lãi suất quy định tại
khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
6. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án (ngày 02/8/2022).
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện HN; (đã ký)
- Lưu hồ sơ, lưu trữ.
Nguyễn Thị Thùy Dung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm