Bản án số 35/2024/HNGĐ-ST ngày 04/09/2024 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về bạo lực gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 35/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 35/2024/HNGĐ-ST ngày 04/09/2024 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về bạo lực gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về bạo lực gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hữu Lũng (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 35/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: mâu thuẫn về kinh tế, bạo lực gia đình
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 35/2024/HN-ST
Ngày: 04-9-2024
V/v: Ly hôn và tranh chp
ni con khi ly hôn
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồngt xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Mạnh Cường.
Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Vũ Huy Tùng.
2. Ông Hoàng Ngọc Thuỷ.
- Thư phiên toà: Phạm Thị Hoài - Thư Toà án nhân dân
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng tham gia phiên
toà: Ông Mã Anh Tun - Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng
tỉnh Lạng Sơn xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thẩm thụ số
78/2024/TLST-HNngày 08/5/2024 về việc Ly hôn, tranh chp về nuôi con
khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2024/QĐXXST-HNGĐ
ngày 16/8/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nông Thị H, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn L, T,
huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Văn T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn N, S, huyện H,
tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/4/2024, các lời khai, yêu cầu, đề nghị trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nông Thị H anh Văn T đăng kết hôn
tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn ngày 23/5/2013, trên cơ sở tự
nguyện, không bị ép buộc, lừa dối. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh
phúc với nhau cho đến năm 2019 bắt đầu nảy sinh mẫu thuẫn. Theo chị trình
bày, sau khi vợ chồng sinh thêm con thứ hai, kinh tế gia đình khó khăn hơn,
2
trong khi đó anh do anh Lý Văn T lại chơi bời, nợ nần, không chịu đi làm để phụ
giúp vợ vkinh tế, chăm sóc con cái, thậm chí còn đem cầm cố cả đđạc trong
nhà. Mặc vợ chồng nhiều lần tìm cách hoá giải mâu thuẫn, được gia đình hai
bên khuyên bảo nhưng anh Văn T không thay đổi, vẫn chứng nào tật ny,
khiến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Từ tháng 10 năm 2023 vợ
chồng đã ly thân, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau. Ngun đơn xác
định tình cảm vợ chồng khôngn, mục đích hôn nhân không đạt được,u thuẫn
trầm trọng o i n yêu cầu được ly n với anh Lý Văn T.
Về con chung: 02 con chung, cháu Trung K, sinh ngày 20/9/2013
và cháu Lý Thu Tr, sinh ngày 19/12/2019. Hiện nay, hai cháu đang ở cùng bố và
nội; tnăm 2019 đến nay, chi phí sinh học, học tập của hai cháu đều do chị
chăm lo. Do cháu Lý Thu Tr con gái, còn nhỏ, thường xuyên đau ốm nên cần
người chăm sóc; nội của các cháu không biết đi xe, nxa trường, không
đưa đón cháu đi học được, trong khi đó anh Lý Văn T là thợ xây, thường phải đi
làm sớm. Phía gia đình ông bà ngoại của cháu vẫn còn sức khỏe tốt, thể giúp
đưa đón cháu đi học tạo điều kiện chỗ cho hai mẹ con, nhà gần trường
thuận tiện cho cháu đi học(các trường mẫu giáo, cp 1, cp 2 đều chỉ cách nhà từ
500-700m).
Hiện nay chị Nông Thị H làm công ty tại tỉnh B, sáng đi tối về, thu nhập
trung bình hàng tháng là 8.000.000 đồng/tháng 9.000.000 đồng/tháng. Nguyên
đơn xác định bản thân có đủ điều kiện để nuôi dưỡng con, phát triển học tập như
những đứa trẻ bình thường khác, dó đó yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng
cháu Thu Tr đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Nguyên đơn đnghị anh
Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Trung K không yêu cầu anh Văn T
phải cp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung nợ chung: Không có; không yêu cầu Tòa giải quyết.
Tại các lời khai, yêu cầu, đề nghị trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa, bị đơn anhVăn T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Việc chị Nông Thị H trình bày vợ chồng được tự
do tìm hiểu, tnguyện kết hôn đúng. Qúa trình chung sống, hai vợ chồng
thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nhưng không lớn; nguyên nhân một phần do
kinh tế, phần do vợ chồng không tiếng nói chung. Năm 2022, vợ chồng cùng
đi làm công ty nhưng do trái thời gian nên vợ chồng ít thời gian tiếp xúc, nói
chuyện với nhau. Đầu năm 2023, do bố bị ốm nên anh nghỉ làm ng ty đtiện
chăm sóc gia đình, từ đó vợ chồng lại thường xuyên cãi rồi ly thân. Anh
Văn T thừa nhận thi thoảng anh có chơi cờ bạc cho vui chứ không thường xuyên
như chị Nông Thị H trình bày. Hiện nay, anh Văn T đã tập trung làm ăn để
chăm lo cho các con, hoá giải mâu thuẫn, mong muốn vchồng đoàn tụ nhưng
quá trình Tán Hoà giải, do chị Nông Thị H nht quyết ly hôn, nên anh đã
Văn T nht trí tại phiên tòa anh thuận tình ly hôn.
3
Về con chung: Hiện nay hai con chung đang ở cùng anh từ khi ly thân cho
đến nay, chị Nông Thị H ít khi về thăm các con. Hiện nay, các cháu vào năm
học mới nên anh đã về làm gần nhà để tiện đưa đón các cháu đi học, thu nhập
lao động tự do trung bình khoảng 370.000 đồng/01 ngày. Hiện anh nhà cửa
ổn định, đảm bảo vchỗ cho các con; hơn nữa, chị H thường xuyên đi làm,
cũng không thể chăm sóc con tốt được và việc nếu chia tách mỗi người nuôi một
con có thể sẽ gây ảnh hưởng đến tâm của các cháu. Do đó, anh Lý Văn T yêu
cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung không yêu cầu cp dưỡng.
Về tài sản chung nợ chung: Không có: không yêu cầu Tòa giải quyết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật, quan điểm đề nghị giải quyết vụ án:
Trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng
thẩm quyền thụ vụ án, thực hiện thông báo thụ lý vụ án, xác định quan hệ
tranh chp Ly hôn, tranh chp về nuôi con khi ly hôn; việc thu thập tài liệu
chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng, thực hiện các bước tố tụng trước khi xét
xử gửi hồ cho Viện kiểm sát nghiên cứu Tòa án đã thực hiện đúng theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký đã
thực hiện đúng quy định. Việc tuân theo pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị đơn
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định.
Đề nghị áp dụng các Điều 51, 55, 57, 58, 81, 82 Điều 83 của Luật hôn
nhân và gia đình;
- Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nông Thị H và anh Lý Văn T.
- Giao mỗi người nuôi 01 con chung; không ai phải cp dưỡng nuôi con.
- V tài sản chung nợ chung không có, không yêu cầu nên không xem
xét giải quyết. Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hpháp luật thẩm quyền giải quyết: Chị Nông Thị H
đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về quan hệ hôn nhân con chung nên xác
định quan hệ tranh chp của vụ án ly hôn, tranh chp về nuôi con khi ly hôn.
Bị đơn anh Văn T nơi trú tại thôn N, S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn;
theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân; căn cứ vào lời khai của đương sự, chứng cứ do
đương sự cung cp các tài liệu do Toà án thu thập đủ sở để xác định:
Chị Nông Thị H anh Văn T đăng kết hôn trên sở hoàn toàn tự
nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn trong
khoảng thời gian dài, bắt đầu từ cuối năm 2019 nguyên nhân do không tiếng
nói chung, bt đồng quan điểm sống về chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái, chi
4
phí sinh hoạt chung cho gia đình. Bản thân chị Nông Thị H xác định còn tình
cảm và không còn quan tâm đến cuộc sống của chồng, dẫn đến việc hai vợ
chồng ly thân từ tháng 10/2023 cho đến nay.
[3] Quá trình giải quyết, Tòa án đã nhiều lần tiến hành khuyên bảo, hóa
giải mâu thuẫn để vợ chồng hội đoàn tụ nuôi dạy con cái, xây dựng gia
đình hạnh phúc. Anh Văn T mong muốn được đoàn tụ đnuôi dạy các
con, tuy nhiên không hành động thể hiện nỗ lực hàn gắn, hoá giải mâu thuẫn,
để mặc cuộc hôn nhân vọng; trong khi đó chị Nông Thị H xác định tình
cảm vchồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không tồn
tại nên nht quyết xin ly hôn. Tại phiên hòa giải ngày 09/8/2024 diễn ra trước
khi mở phiên tòa, anh Văn T nht trí ly hôn để cả hai được giải thoát khỏi
cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc; tại phiên tòa vợ chồng hoàn toàn tự
nguyện thuận tình ly hôn nên được Hội đồng xét xử công nhận.
[4] Về con chung; quá trình giải quyết vụ án hai vợ chồng đều yêu cầu
được nuôi dưỡng con chung. Xét đề nghị của chị Nông Thị H về việc nuôi con
chung cháu Thu Tr thy rằng bản thân chị Nông Thị H không bị hạn chế về
năng lực hành vi dân sự, chỗ ổn định tại nhà bố mẹ đẻ - nhà cách trường
học khoảng 500-700m, ban ngày chị Nông Thị H đi làm công ty nhưng sự
giúp đỡ, hỗ trợ của ông ngoại đưa đón cháu đi học; buổi tối chị vẫn đảm bảo
thời gian giáo dục, giúp đỡ con học. Thu nhập của chị Nông Thị H từ lương,
trung bình 8.000.000 đồng/tháng đến 9.000.000 đồng/tháng, cơ bản đủ trang trải
cuộc sống nuôi dưỡng một người con. Hiện tại cháu Lý Thu Tr, còn nhỏ
(hơn 04 tuổi) và con gái nên cần nhiều hơn sự quan tâm, chăm sóc giáo dục
phát triển tâm sinh từ người mẹ.
[5] Xét đề nghị của anh Văn T vviệc yêu cầu được quyền trực tiếp
nuôi dưỡng cả 02 người con chung, thy rằng việc anh đề nghị cho các cháu
được ở cùng nhau, đùm bọc nhau trong cuộc sống là rt tốt tuy nhiên xem xét về
điều kiện mọi mặt để đảm bảo cho các cháu phát triển, học tập như những đứa
trẻ bình thường khác, khi một mình bố đơn thân nuôi dưỡng hai con còn nhỏ sẽ
rt vt vả, khó khăn nht khi điều kiện kinh tế, công việc chưa thực sự ổn
định.
[6] Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chỉ có duy nht lời tự trình bày hiện
đang làm thợ xây thu nhập theo ngày và chỗ nhưng chưa thực hiện việc
cung cp các tài liệu chứng cứ chứng minh cho Tòa án. Theo biên bản xác minh
về mâu thuẫn vợ chng ngày 04/7/2024 với bà Trương Thị V (mẹ đẻ anh
Văn T) xác định Trương Thị V hiện không đảm bảo sức khoẻ đphụ giúp
con trai trong việc đưa đón cháu đi học; trong khi đó, đặc thù của công việc làm
nghề thợ xây phải đi làm sớm, trước giờ đi học của các cháu thông thường
công việc lao động tự do thu nhập không ổn định (phụ thuộc công trình, điều
kiện thời tiết).
5
[7] Trên cở sở xem xét các điều kiện, khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục con chung phát triển một cách bình thường như những đứa trẻ khác
của vợ chồng sau khi ly hôn; để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa
thành niên, cần giao cháu Thu Tr cho chị Nông Thị H giao cháu
Trung K cho anh Lý Văn T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
đến khi các con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi phù hợp quy định pháp luật
nguyện vọng của cháu Trung K. Việc giao con cho người trực tiếp nuôi
con yêu cầu cp dưỡng nuôi con, các bên đương squyền đề nghị thay
đổi trong quá trình nuôi dưỡng sau này theo quy định pháp luật.
[8] Các đương sự không có yêu cầu nghĩa vụ cp dưỡng nuôi con chung.
[9] V tài sản chung khoản nợ chung: Các đương sự không yêu cầu
giải quyết về tài sản chung và cùng nhau xác định không có nợ chung; Hội đồng
xét xử không xem xét giải quyết.
[10] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự điểm
a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí lệ phí Tòa án, chị Nông Thị H anh Văn T đều thuận tình
ly hôn nên mỗi người phải chịu ½ án phí ly hôn thẩm; Nguyên đơn tự
nguyện chịu phần tiền án phí của bị đơn.
[11] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật của những người tiến hành và tham gia tố tụng là đúng thực tế, phù hợp với
tài liệu thu thập trong hồ diễn biến tranh tụng tại phiên tòa. Quan điểm về
việc đề nghị giải quyết nội dung vụ án hoàn toàn phù hợp với các nhận định nêu
trên nên được Hội đồng xét xử chp nhận.
[12] Các đương sự quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều
271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 51, các Điều 55, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn
nhân và gia đình;
Căn cứ vào Điều 5; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4
Điều 147, 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lệ
phí Tòa án.
1. Quan h hôn nhân.
Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nông Thị H và anh Lýn T.
6
(Đăng kết hôn tại Uỷ ban nhân dân S, huyện H, tỉnh Lạng Sơn ngày
23/5/2013).
2. Con chung.
Chị Nông Thị H anh Văn T 02 người con chung cháu
Trung K, sinh ngày 20/9/2013 và cháu Lý Thu Tr, sinh ngày 19/12/2019.
Sau khi ly hôn, chị Nông Thị H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục cháu Lý Thu Tr cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Anh Lý Văn
T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Lý Trung K cho
đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm
nom con chung mà không ai được cản trở.
Không ai phải thực hiện nghĩa vụ cp dưỡng nuôi con chung do chưa ai có
yêu cầu.
3. Tài sản chung, khoản nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải
quyết về tài sản chung và xác định không nợ chung.
4. Án phí.
Chị Nông ThH phải chịu số tiền 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn
đồng) tiền án phí ly hôn thẩm để nộp Ngân sách nhà nước; xác nhận đã thi
hành đủ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số hiệu BLTU/23 số
0004723 ngày 06/5/2024 tại Chi cục Thi hành án dân shuyện Hữu Lũng, tỉnh
Lạng Sơn; sau khi khu trừ, chị Nông Thị H được hoàn trả số tiền 150.000đ (một
trăm năm mươi nghìn đồng).
6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND h.Hữu Lũng, T. Lạng Sơn;
- Chi cục THADS H. Hữu Lũng, T. Lạng Sơn;
- UBND xã S, h.H, T. Lạng Sơn;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG T XSƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOPHN T
Nguyễn Mạnh Cường
Tải về
Bản án số 35/2024/HNGĐ-ST Bản án số 35/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 35/2024/HNGĐ-ST Bản án số 35/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất