Bản án số 35/2024/DS-ST ngày 27/11/2024 của TAND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 35/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 35/2024/DS-ST ngày 27/11/2024 của TAND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Sơn Động (TAND tỉnh Bắc Giang)
Số hiệu: 35/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Nông Văn D và bà Vũ Thị T kết hôn với nhau năm 1988, do mâu thuẫn vợ chồng nên ngày 31/8/1999 đã được Tòa án nhân dân huyện Sơn Động giải quyết ly hôn, con chung và tài sản. Về phần tài sản là thửa đất của ông D, bà T có 01 thửa đất diện tích 80m2, tại Khu D, thị trấn A, huyện S, tỉnh Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang) đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 189 ngày 11/7/1993 cho ông Nông Văn D; khi Tòa án giải quyết bản án đã quyết định giao cho ông Nông Văn D được quản lý, sử dụng 40m2, bà Vũ Thị T được quản lý, sử dụng 40m2; ngoài ra ông D, bà T còn đang quản lý, sử dụng diện tích đất nông nghiệp 71,2m2chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền quản lý của UBND nên bản án không đề cập giải quyết. Sau khi ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẮC GIANG
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án: 35 /2024/DS - ST
Ngày 27/ 11 / 2024
V/v “Yêu cầu tháo dỡ di dời
tài sản trên đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG – TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên t: Ông Trần Văn Toàn;
Các Hội thẩm nhân dân : 1. Ông Nguyễn Ngọc Ngát;
2. Ông Lã Văn Minh;
- Thư ký ghi biên bản phiên toà: Bà Hoàng Thị Trang – Thư ký Toà án nhân dân
huyện Sơn Động.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động tham gia phiên toà: Ông
Hoàng Minh Đức - Kiểm sát viên sơ cấp.
Trong các ngày 07, 27 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn
Động, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2024/TLST-DS,
ngày 16 tháng 02 năm 2024 về việc Yêu cầu tháo dỡ di dời tài sản trên đất”; theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2024/QĐXX- ST ngày 17 tháng 7 năm 2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2024/QĐHPT- ST ngày 14 tháng 8 năm 2024,
Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2024/QĐHPT- ST ngày 28 tháng 9 năm 2024,
Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 26/2024/TB ngày 18 tháng 10 năm
2024, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 15/2024/QĐTNPT- ST ngày 07 tháng 11
năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Thị T, sinh năm 1967; Địa chỉ: Số nhà I, đường T, tổ
dân phố số D, thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang (có mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Dương Minh
K Luật sư, Văn phòng L, Đoàn Luật sư tỉnh B; có mặt.
- B đơn:
1. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1959; Địa chỉ: Số nhà H, Tổ dân phố số D, thị
trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang; Có mặt
2. Ông Nông Văn T1, sinh năm 1975; Địa chỉ: Thôn H, V, huyện S, tỉnh
Bắc Giang; Có mặt
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Vi Thị H, sinh năm 1963; Địa chỉ: Số nhà I, đường T, tổ dân phố số D,
thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang (có mặt);
2
2. UBND tỉnh B; do ông Chu Huy Q Chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện S là người đại diện theo ủy quyền; có đơn đề nghị xử
vắng mặt.
3. UBND huyện S; do ông Ngọc Đức V Chức vụ: Phó Trưởng Phòng Tài
nguyên và môi trường huyện S là người đại diện theo ủy quyền; có đơn đề nghị xử
vắng mặt.
4. UBND thị trấn A; do ông Mễ Văn T2 Chức vụ: Công chức địa chính
xây dựng là người đại diện theo ủy quyền; có đơn đề nghị xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1] Trong đơn khởi kiện, những lời khai tiếp theo có trong hồ sơ và tại phiên
tòa nguyên đơn bà Vũ Thị T trình bày:
Ông Nông Văn D và bà kết hôn với nhau năm 1988, do mâu thuẫn vợ chồng
nên ngày 31/8/1999 đã được a án nhân dân huyện Sơn Động giải quyết ly hôn,
con chung tài sản. Về phần tài sản chung có 01 thửa đất diện tích 80m
2
, tại Khu
D, thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang) đã được UBND huyện
S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s189 ngày 11/7/1993 cho ông Nông
Văn D; khi Tòa án giải quyết bản án đã quyết định giao cho ông Nông Văn D được
quản lý, sử dụng 40m
2
, được quản lý, sử dụng 40m
2
; ngoài ra còn diện tích đất
nông nghiệp 71,2m
2
gia đình đang quản lý, sử dụng nhưng do chưa được Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền quản của UBND nên bản án không đề
cập giải quyết. Sau khi ly hôn bà đã kê khai làm lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đăng biến động, ngày 28/12/1999 đã được UBND tỉnh B cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số Q691524, diện tích đất ở 222,7m
2
, thuộc thửa 5, tờ bản
đồ số 8 tại Tiểu khu D (nay là Tổ dân phố số D) thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
Ngày tháng không nhớ khoảng m 2010, Vi Thị H ở cùng khu phố đến
nhà để hỏi mượn một phần diện tích đất khoảng 20m², vị trí phía giáp với đất
của nhà ông Vũ Đức T3; mục đích H mượn đất để lợp mái tôn chứa xi măng
sắt thép. Khi hỏi mượn đất thì bà H hứa là khi nào bà cần sử dụng đất thì bà H sẽ tự
tháo dỡ mái tôn để trả lại mặt bằng đất cho quản lý sử dụng. Do khi đó chưa
nhu cầu sử dụng bà H cũng hàng xóm trong khu phố, người nhà nên đồng
ý cho H mượn để bà H lợp mái tôi chứa vật liệu xây dựng (xi măng, sắt thép).
Quá trình cho mượn chỉ nói bằng miệng, không lập thành văn bản giấy tờ gì.
Đến năm 2018, bà có nhu cầu sử dụng đất nên đã trực tiếp đến nhà H yêu
cầu H tháo dỡ di dời nhà cột sắt mái tôn để trả lại mặt bằng đất cho gia đình
quản lý, sử dụng. Tuy nhiên bà H cố ý không tự nguyện tháo dỡ để trả lại đất, bà H
đưa ra rất nhiều do để cản trở quyền quản sử dụng đất của bà. Do H không
trả nên đã làm đơn gửi đến UBND Thị trấn A giải quyết vụ việc. Ngày 12/12/2023
UBND Thị trấn A đã tổ chức hòa giải nhưng bà H cố ý không hợp tác, H đưa ra
nhiều lý do không đúng với sự thật, để nhằm mục đích cản trở việc không trả đất.
Bà đã làm đơn gửi Tòa án yêu cầu giải quyết buộc bà Vi Thị H phải tháo dỡ di dời
công trình xây dựng trên diện tích đất khoảng 20m²để trả đất cho gia đình quản
3
lý, sử dụng; quá trình giải quyết vụ án ông T1, P xác định nhà n, khung sắt
do ông T1, P làm, bà H cũng thừa nhận như vậy. Do đó, ngày 15/7/2024
làm đơn bổ sung đề nghị Tòa thay đổi cách người tham gia tố tụng đối với bị đơn,
yêu cầu Nguyễn Thị P, ông Nông Văn T1 phải tháo dỡ di dời công trình xây
dựng (nhà cột sắt mái tôn) trên diện tích đất 19,1m²để gia đình bà quản lý, sử dụng
đất; còn Vi Thị H người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra bà không
có yêu cầu gì khác.
Người bảo vệ cho nguyên đơn nhất trí với lời trình bày của Thị T cũng
như yêu cầu đưa ra.
[2] Những lời khai có trong hồ sơ trong quá trình tham gia tố tụng và ti phiên
tòa bị đơn ông T1, bà P trình bày:
Lời trình bày của bà Nguyễn Th P:
Gia đình ông Nông Văn D, Thị T 01 thửa đất được nhà nước cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất 80m
2
năm 1993; hai vchồng ông D T có
dựng một ngôi nhà gỗ 03 gian lợp ngói. Ngoài diện tích 80m
2
trên đất thì phía sau
nhà ông D và bà T vẫn còn phần đất nnong nghiệp liền kề ở phái sau chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất này gia đình ông D đã xây dựng một
số công trình trên đất nông nghiệp như (nhà bếp, chuồng lợn, giếng nước, nhà tắm,
cuối phía sau có xây một bức tường gạch ngăn cách làm mốc giới diện tích trên đất
nông nghiệp).
Năm 1999 khi ông D T ly hôn nhau, quá trình Tòa án nhân dân huyện
Sơn Động giải quyết phân chia tài sản tuyên chia đôi thửa đất, nhà mỗi người ½,
quan Chi cục Thi hành án dân sự Sơn Động cùng ông D, bà T đã bàn giao nhận đất
xong, việc phân chia tài sản do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Động xuống
chia có chứng kiến của ông D, bà T, gia đình bà và bà Nguyễn Thị H1 là hàng xóm.
Bức tường xây gạch chắn ngang làm mốc giới chính thủy xây. Do ông D không
nhu cầu sử dụng đất nên đã chuyển nhượng lại nhà + đất cho gia đình bà. Gia
đình mua của ông D theo thỏa thuận giữa hai n làm giấy tờ mua bán theo
hiện trạng, cụ thể: (01 gian nhà gỗ nguyên ½ gian giữa chia đôi), giáp nhà ông
Q1 bà H1 trên diện ch đất chuyển nhượng giao cho nhau đất giấy chứng nhận
QSDĐ đất chưa được cấp sổ đã xây dựng ngăn cách một bờ tường gạch, phần đất
bên ông D gồm có (giếng nước, nhà tắm, chuồng lợn), phần đất bên bà T giáp ranh
với gia đình ông Q1 S gồm (01 gian nhà gỗ ½ gian giữa), phía sau đất
khác là công trình nhà bếp.
Diện tích 222,7m
2
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà T đứng tên (bà
T đã làm hết phần đất của ông D đang sử dụng nhưng ông D không biết). Nay T
nhận 19,1m
2
đất của T khi T đề nghị làm Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì quan chuyên môn thẩm quyền không xuống đo đạc hiện trạng
thực tế mà chỉ dựa theo giấy tờ, sau đó đã làm hết phần đất nông nghiệp của ông D
vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà T mà ông D đã bán cho gia đình bà.
4
Năm 2005, cùng ông Nông Văn T1 thỏa thuận cùng nhau làm nhà cột
sắt, lợp tôn hết phần đất gia đình đang sử dụng ông D bán cho để cho thuê.
Trong quá trình làm nhà cột sắt, mái lợp tôn không có sự tranh chấp vướng mắc với
ai, sau đó ông T1 đã cho H thuê toàn bộ phần nhà lợp tôn để bà H bán xi
măng, sắt thép từ tháng 02 năm 2006 cho đến khi xảy ra tranh chấp.
Do đó T yêu cầu phải tháo dỡ công trình (nhà cột sắt mái tôn) xây dựng trên
diện tích đất 19,1m² để gia đình bà T quản lý, sử dụng bà không đồng ý, bà đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật; ngoài bà không có yêu cầu gì khác.
Lời trình bày của ông Nông Văn T1:
Nguồn gốc thửa đất là gia đình Nguyễn Thị P mua chuyển nhượng của ông
Nông Văn D; sau khi mua bà P đã làm thủ tục sang tên Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên ông Đức T3. Năm 2005 ông P cùng nhau thỏa thuận
chung nhau làm nhà cột sắt, lợp tôn trên một phần đất của gia đình P đang sử
dụng để cho thuê. Trong quá trình làm ncột sắt, mái lợp tôn không sự tranh
chấp với ai và không ai có ý kiến gì. Sau khi làm xong ông và bà P đã cho bà Vi Thị
H thuê để bán xi măng, sắt thép từ tháng 02 năm 2006 cho đến nay.
Do đó T yêu cầu phải tháo dỡ công trình (nhà cột sắt mái tôn) xây dựng trên
diện tích đất 19,1m² để gia đình T quản lý, sử dụng ông không đồng ý; ông đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật; ngoài ông không có yêu cầu
khác.
[3] Lời trình bày của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án:
Lời trình bày của Vi Th H: Năm 2002 gia đình Nguyễn Thị P có mua
chuyển nhượng của ông Nông Văn D 01 thửa đất, cụ thể: 01 gian nhà gỗ nguyên và
½ gian giữa chia đôi, giáp nhà ông Q1 H1 trên diện tích đất chuyển nhượng
giao cho nhau đã xây dựng ngăn cách một bờ tường gạch, phần đất bên ông D gồm
có (giếng nước, nhà tắm, chuồng lợn), phần đất bên bà T giáp ranh với gia đình ông
Q1 S gồm (01 gian nhà gỗ ½ gian giữa), phía sau đất vi phạm công
trình nhà bếp.
Năm 2006, P cùng ông T1 làm nhà cột sắt, lợp tôn hết phần đất gia đình
bà P đang sử dụng ở phía sau. Trong quá trình làm nhà ct sắt, mái lợp tôn không có
sự tranh chấp và khiếu kiện gì. Năm 2006 khi gia đình P chuyển sang nhà mới ở,
bà P và ông T1 đã cho bà thuê bán xi măng, sắt thép từ tháng 02 năm 2006 cho đến
khi xảy ra tranh chấp cuối năm 2023. Bà T cho rằng bà mượn đất để làm nhà cột sắt
mái tôn để bán hàng là hoàn toàn không đúng sự thật.
T yêu cầu bà P, ông T1 phải tháo dcông trình (nhà cột sắt mái tôn) xây
dựng trên diện tích đất 19,1m² để gia đình bà T quản lý, sử dụng bà đề nghị Tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với hợp đồng thuê nhà làm kho sau khi
tranh chấp xảy ra thì đã không thnữa hai bên đã chấm dứt hợp đồng
không có vướng mắc gì; ngoài ra bà không có yêu cầu gì khác.
Quan điểm của UBND th trấn A:
5
Ông Nông Văn D Thị T kết hôn chung sống với nhau từ năm 1988,
năm 1999 đã được Tòa án nhân dân huyện Sơn động giải quyết cho ly hôn, con
chung và tài sản. Quá trình chung sống ông D, bà T có tạo lập tài sản là 01 thửa đất
được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s 189 ngày
11/7/1993, diện tích 80m
2
tại TDP số 4, thị trấn A; trên thửa đất có một ngôi nhà gỗ
03 gian lợp ngói và ngoài ra 01 nhà bếp, chuồng lợn, giếng nước, nhà tắm, cuối
phía sau có xây một bức tường gạch ngăn cách làm mốc giới diện tích trên đất nông
nghiệp.
Khi ông D và bà T ly hôn và phân chia tài sản do Tòa án huyện S tuyên chia
đôi thửa đất, cụ thể: Mỗi người được chia hưởng ½ thửa đất lấy điểm từ giáp hành
lang đường giao thông phía trước kéo hết đến giáp phần bờ tường gạch xây (giáp
phần đất nông nghiệp), tài sản trên đất mỗi người được giao 01 gian nhà gỗ nguyên
½ gian giữa chia đôi các tài sản có trên đất, (phần của ông D giếng nước,
nhà tắm, chuồng lợn, tường bao; phần đất bên T 01 gian nhà gỗ ½ gian giữa
và phía sau đất khác là công trình nhà bếp). Sau khi bản án có hiệu lực thi hành thì
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Động xuống thi hành xong bản án cho ông
D, bà T.
Năm 2002, ông Nông Văn D đã bán chuyển nhượng toàn bộ thửa đất và tài sản
trên đất cho gia đình Nguyễn Thị P, giá trị chuyển nhượng 16.000.000đ, hai
bên lập hợp đồng xác nhận của UBND thị trấn A. Sau khi nhận chuyển
nhượng gia đình P đã quản lý, sử dụng ổn định không có vướng mắc gì với bà T;
quá trình quản năm 2006 gia đình bà P làm thêm phía sau đất 01 nhà cột sắt
lợp tôn tạm để cho thuê. Năm 2018, T tự ý phá bức tường xây bằng gạch làm mốc
giới mà cơ quan thi hành án đã giao cho ông D theo bản án, gia đình bà P có ý kiến
nhưng bà T vẫn cố tình phá. UBND thị trấn A đã tiến hành giải quyết nhiều lần
nhưng hai bên không thống nhất được.
Thửa đất gia đình Thị T đã được UBND tỉnh B Cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số Q691524 ngày 28/12/1999, diện tích là 222,7m
2
, đất lâu dài,
thửa 5, số tờ bản đồ 8, tại tiểu khu D, thị trấn A, huyện S. Sau khi ly hôn chia tài sản
thì ngày 10/9/2004 Phòng địa chính quyền Sơn Động đã thay đổi diện tích do tách
ra theo Bản án cho ông D là 40m
2
. Thửa đất của hộ ông Vũ Đức T3 đã được UBND
huyện S Cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số Đ278742 ngày 28/12/1999,
diện tích là 40m
2
, đất ở lâu dài, thửa 5, số tờ bản đồ 8, tại Khu D, thị trấn A, huyện
S. Năm 2019, bà Nguyễn Thị P đơn đề nghị UBND huyện S xem xét lại việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Vũ Đức T3 do gia đình thấy không
đúng diện tích, ngày 28/6/2023 UBND huyện S ra Quyết định số 271/QĐ-UBND về
việc Thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hộ Thị T, hộ ông
Vũ Đức T3”.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Thị T đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Sơn Động xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của UBND huyện S tại Công văn số 3216/ UBND - NC ngày 18/10/2024:
6
Ngày 31/8/1999, Tòa án nhân dân huyn Sơn Động ban hành Bn án s
08/DSST về việc bà Vũ Thị T4, ông Nông Văn D tranh chấp con và tài sản, tại Bản
án phân chia đất và tài sản trên đất kèm theo đồ phân chia đất theo Bản án;
thực hiện Bản án và đề nghị của ông Nông Văn D, ngày 07/4/2003, UBND huyện S
cấp cho ông Nông Đức D1 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 40m đất ở
(Phần diện tích đất nông nghiệp theo Bản án không đề nghị cấp).
Ngày 07/7/2004, ông Nông Văn D chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
Vũ Đức T3 diện tích đất 40m
2
; ngày 15/7/2004, ông Vũ Đức T3 có đơn đề nghị cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Hồ cấp giấy gồm có: Đơn xin đăng quyền
sử dụng đất ghi ngày 15/7/2004, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi
ngày 07/7/2004, biên bản xác định mốc giới, tờ khai nộp thuế, ngày 10/9/2004),
UBND huyện S cấp cho ông Đức T3 giấy chứng nhận quyền sdụng đất diện
tích 40m
2
tại thửa đất số 5, tờ bản đồ số 8, bản đồ địa chính thị trấn A, tại khu D, thị
trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang (Phần đất nông nghiệp nhận chuyển nhượng tông
Nông Đức D1 theo bản án không đnghị cấp giấy). Hồ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất từ ông Nông Đức D1 sang ông Vũ Đức T3 là đúng quy định của
pháp luật quy định về đất đai.
Thực hiện Kết luận số 5512/KL-UBND ngày 26/9/2023 của Chủ tịch UBND
tỉnh về việc kết luận nội dung tố cáo đối với UBND huyện S, (Tại mục 1.1, Mục 1.2-
phần III. Thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 271/QĐ-UBND ngày 28/6/2019 của UBND
huyện S về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 02 hộ gia đình,
cá nhân tại khu D, thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang; xem xét trách nhiệm của tập
thể, nhân liên quan trong việc tham mưu ban hành Quyết định số 271/QĐ-
UBND ngày 28/6/2019 của UBND huyện; xem xét xử lý các vấn đề phát sinh (nếu
có) theo đúng quy định của pháp luật. (Mục 1.2) Chỉ đạo Chủ tịch UBND thị trấn A,
huyện S thu hồi, hủy bỏ Thông báo Kết luận số 13/KL-UBND ngày 30/11/2018 của
Chủ tịch UBND thị trấn A về việc giải quyết đơn đề nghị của các ông, Nguyễn
Hồng Q1, Hoàng Thị T5, Thị T, trú tại khu D, thị trấn A; xem t trách nhiệm
của Chủ tịch UBND thị trấn cán bộ, công chức liên quan đến việc ban hành
Thông báo Kết luận số 13/KL-UBND ngày 30/11/2018 của Chủ tịch UBND thị trần
A). Ngày 25/10/2023, UBND huyện S đã ban hành Quyết định số 691/QĐ- UBND
về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định s271/QĐ-UBND ngày 28/6/2019 của UBND
huyện S về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 02 h gia đình,
nhân tại khu D, thị trấn A, huyện S. Ngày 17/10/2023, UBND thtrấn A đã ban
hành Thông báo số 109/TB- UBND về việc thu hồi, hủy bò Thông báo kết luận số
13/KL-UBND ngày 30/11/2018 của UBND thị trấn A thông báo kết luận giải quyết
đơn để nghị của ông Nguyễn Hồng Q1, bà Hoàng Thị T5, Vũ ThT trú tại Khu
D, thị trấn A. UBND huyện S.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Thị T đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Sơn Động xem xét, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của UBND tỉnh B tại Văn bản số 205/ CNVPDK ngày 16/10/2024:
7
Năm 1998-1999, thực hiện dự án đo đạc bản đồ địa chính và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn thị trấn A. Sau khi hoàn thành việc đo đạc bản
đồ địa chính đến bước lập hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân
dân, thành phần hồ các trình tự thủ tục được tiến hành như sau: Ngày
27/3/1999, UBND huyện S ban hành Quyết định số 175/QĐ-CT vviệc thành lập
hội đồng đăng đất đai thị trấn A, sau khi tiếp nhận đơn của các hộ gia đình,
nhân ngày 27/4/1999 có biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng ký đất đai thị trấn A,
ngày 18/7/1999 biên bản kiểm tra hồ sơ xét duyệt đăng ký đất của phòng Địa chính
Sơn Động; Ngày 01/5/1999 thông báo số 01/TB-UB thông báo về việc công khai hồ
sơ đăng ký đất; Ngày 16/5/1999 UBND thị trấn A biên bản số 02/BB-UB về việc
kết thúc công khai hồ sơ đăng ký đất; Ngày 08/7/1999 UBND thị trấn A có tờ trình
số 08TT/UB về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình,
nhân thị trấn A; Ngày 18/7/1999 Phòng Địa chính huyện S Tờ trình số 57TT/UB
về việc về việc cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho các hộ gia đình, nhân
thị trấn A; Ngày 29/7/1999 UBND huyện S Tờ trình số 297TT/UB vviệc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, nhân thị trấn A; Ngày
24/12/1999 Sở Địa chính có Tờ trình số 386TT/UB về việc đề nghị phê duyệt cấp
giấy chứng nhận quyền sdụng đất ở và đất vườn đợt I cho các hgia đình, cá nhân
thị trấn A, huyện S.
Ngày 28/12/1999 UBND tỉnh B ban hành Quyết định số 1732/QĐ-CT về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất vườn đợt I cho các hộ gia đình, cá
nhân thị trấn A, huyện S (có danh sách hộ gia đình, nhân kèm theo quyết định
trong đó Thị T). Ngày 28/12/1999, UBND tỉnh B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho hộ bà Vũ Thị T, sinh năm 1967 tại thửa đất số 05, tờ bản đồ
số 08, diện tích 222,7m
2
thuộc Tiểu khu D, thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang.
Căn cứ vào hồ sơ, việc UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số Q 691524, cấp ngày 28/12/1999 cho hộ Vũ Thị T tại thửa đất số 05, tờ bản đồ
số 08, diện tích 222,7m
2
được thực hiện theo đúng quy định trình tự, thủ tục thẩm
quyền quy định tại Luật Đất đai năm 1993, Thông số 346/1998/TT-TCĐC ngày
16/3/1998 của T6 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Thị T đề nghị Tòa án nhân dân huyện
Sơn Động xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[4] Kết quả xem xét, thẩm định: 01 nhà xưởng cột sắt, lợp mái tôn diện tích
19,1m
2
nằm trên diện tích đất 222,7m
2
, thuộc thửa 5, tờ bản đồ số 8 tại Tiểu khu D
(nay Tổ dân phố số D) thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang, được UBND tỉnh B
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q691524 ngày 28/12/1999, cho hộ
Vũ Thị T; gồm các điểm 1-2 = 3,7m, 2-3= 5,62m, 3-4 = 3,6m, 4-1 = 4,85m.
[5] Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên toà, Thẩm phán, Thư
thực hiện đúng thủ tục tố tụng; tại phiên toà, Hội đồng xét xử tiến hành đúng trình
tự, thủ tục của phiên toà sơ thẩm.
8
Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị
ssơn chấp hành đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng căn cứ vào khoản 14
Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, 92 khoản 1 Điều 147
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 158, 164 và 169 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khoản
1, 3, 4, 5 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 ca y
ban Thường v Quc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và s
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn bà Vũ Thị T yêu cầu ông Nông
T1, bà Nguyễn Thị P tháo dỡ di dời tài sản trên đất.
Buộc ông Nông Văn T1, bà Nguyễn Thị P phải tháo dỡ di dời toàn bộ 01 nhà
xưởng cột sắt, lợp tôn diện tích 19,1m
2
nằm trên diện tích đất 222,7m
2
, thuộc thửa
5, tờ bản đồ số 8 tại Tiểu khu D (nay Tổ dân phố số D) thị trấn A, huyện S, tỉnh
Bắc Giang, được UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Q691524
ngày 28/12/1999, cho hộ bà Vũ Thị T.
Về án phí chi phí tố tụng: Nguyên đơn bà Vũ Thị T không phải chịu án phí
dân sự thẩm. Bà Nguyễn Thị P người cao tuổi nên được miễn án phí, ông Nông
Văn T1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Ông Nông Văn T1, Nguyễn
Thị P mỗi người phải chịu 500.000đ tiền chi phí t tụng, số tiền ông T1bà P nộp
trả cho bà T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà;
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Vũ Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân
dân huyện Sơn Động giải quyết buộc ông Nông Văn T1, bà Nguyễn Thị P tháo dỡ
di dời tài sản trên đất; quan hệ pháp luật của vụ án là “Yêu cầu tháo dỡ di dời tài sản
trên đất” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện n Động theo
quy định tại khoản 14 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: UBND tỉnh B ủy quyền cho ông Chu Huy Q Chức vụ: Giám
đốc Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện S người đại diện tham gia tố
tụng, văn bản y quyền số 1500/QĐ-UBND ngày 19/9/2024. UBND huyện S ủy
quyền cho ông Ngọc Đức V Chức vụ: Phó Trưởng Phòng Tài nguyên môi
trường huyện S người đại diện tham gia tố tụng văn bản ủy quyền s2713/QĐ-
UBND ngày 06/9/2024. UBND thị trấn A ủy quyền ông Mễ Văn T2 Chức vụ:
Công chức địa chính xây dựng người đại diện tham gia tố tụng, văn bản ủy
quyền số 31a/QĐ-UBND ngày 20/9/2024. Các đương sự ủy quyền đúng theo quy
định của pháp luật cần được chấp nhận theo Điều 138 của Bộ luật Dân sự.
9
Ông Chu Huy Q, ông Ngọc Đức V, ông Mễ Văn T2 đơn xin xét xử vắng
mặt; do đó, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt theo khoản 1 Điều 228 của Bộ luật T
tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Thị T khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị P, ông Nông Văn T1 phải tháo dỡ di
dời phần ncột sắt, lợp mái tôn trên diện tích đất 19,1m
2
để trả lại đất cho gia đình
bà T quản lý, sử dụng nhưng P, ông T1 không nhất trí.
Nguyên đơn Thị Thủy cung C tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho
yêu cầu khởi kiện: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 05 mang tên ông Vũ Đức
T3; Giấy chứng nhận quyền sdụng thửa đất số 05 mang tên hVũ Thị T; 01
căn cước công dân; giấy xác nhận thông tin cư trú; Biên bản hòa giải UBND thị trấn
A; Thông báo trả lời đơn của UBND thị trấn A.
Bị đơn P, ông T1 cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh: 01 quyết định
thi hành án; 01 biên bản giải quyết thi hành án; 02 đồ đồ; 01 bản án; 01 giấy
chuyển nhượng nhà đất.
Ngoài các tài liệu trên các đương sđã cung cấp để chứng minh ở trên thì các
bên đương sự không còn giao nộp tài liệu, chứng cứ nào khác.
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự thì nghĩa vchứng minh:
“Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu
thập, cung cp, giao nộp cho Tòa án, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
đó là có căn cứ và hợp pháp”.
Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự, tài liệu chứng cứ do các đương s
cung cấp và những tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập được thì có cơ sở xác định:
Ông Nông Văn D và bà Thị T kết hôn với nhau năm 1988, do mâu thuẫn
vợ chồng nên ngày 31/8/1999 đã được Tòa án nhân dân huyện Sơn Động giải quyết
ly hôn, con chung và tài sản. Về phần tài sản là thửa đất của ông D, bà T có 01 thửa
đất diện tích 80m
2
, tại Khu D, thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc (nay tỉnh Bắc
Giang) đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 189
ngày 11/7/1993 cho ông Nông Văn D; khi Tòa án giải quyết bản án đã quyết định
giao cho ông Nông Văn D được quản lý, sử dụng 40m
2
, bà Thị T được quản lý,
sử dụng 40m
2
; ngoài ra ông D, T còn đang quản lý, sử dụng diện tích đất nông
nghiệp 71,2m
2
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền
quản lý của UBND nên bản án không đề cập giải quyết.
Sau khi ly hôn: Ông Nông Văn D đã đi đăng tách sổ đã được UBND
huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 851209 ngày 07/02/2003, diện
tích 40m
2
, thửa 5, số tờ bản đồ 8, khu D, thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang cho h
ông Nông Văn D. Ngày 07/7/2004 ông Nông Văn D đã chuyển nhượng toàn bộ thửa
đất nêu trên cho ông Vũ Đức T3, sau khi nhận chuyển nhượng ông Vũ Đức T3 đã đi
làm chuyển đổi sổ và đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Q278742 ngày 20/9/2004, diện tích 40m
2
, thửa 5, số tờ bản đồ 8, khu D, thị
trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang cho hộ ông Đức T3. Thị T đã khai
10
đăng ký biến động và cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngày 28/12/1999
Thị T đã được UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
Q691524, diện tích đất ở 222,7m
2
, thuộc thửa 5, tờ bản đồ số 8 tại Tiểu khu D (nay
Tổ n phố số D) thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Sau khi cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất gia đình T gia đình ông T3 các bên không ý kiến
gì cho đến khi xảy ra tranh chấp.
Hội đồng xét xử xác định, UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số Q691524 ngày 28/12/1999 cho hộ Thị T; UBND huyện S cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số Q278742 ngày 20/9/2004 cho hộ ông Vũ Đức T3
đều được thực hiện theo đúng quy định trình tự, thủ tục và thẩm quyền quy định tại
Luật Đất đai.
Toàn bộ phần nhà cột sắt lợp mái tôn 19,1m
2
do P, ông T1 làm nằm trong
diện tích đất bà Thị T đã được UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Từ phân tích, đánh giá nêu trên thì bà Vũ Thị T yêu cầu P, ông T1 phải tháo rỡ di
dời toàn phần nhà cột sắt, lợp mái tôn diện tích 19,1m
2
căn cứ chấp nhận.
Nguyễn Thị P, ông Nông Văn T1 trình bày là thửa đất mua của ông Nông Văn D
theo bản án của Tòa án giao cho ông D, bao gồm cả phần đất chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất bà T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là không có căn cứ chấp nhận.
Do đó, chấp nhận yêu cầu của Thị T; buộc ông Nông Văn T1,
Nguyễn Thị P phải tháo dỡ, di dời toàn bộ 01 nhà xưởng cột sắt, lợp tôn diện ch
19,1m
2
nằm trên diện tích đất 222,7m
2
, thuộc thửa 5, tờ bản đồ số 8 tại Tiểu khu D
(nay Tổ dân phố số D) thị trấn A, huyện S, tỉnh Bắc Giang, được UBND tỉnh B
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sQ691524 ngày 28/12/1999, cho hộ
Vũ Thị T.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí t tụng:
Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn bà T được chấp nhận nên bà Nguyễn
Thị P, ông Nông Văn T1 phải chịu án phí dân sthẩm theo khoản 5 Điều 26 Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 ca y ban Thường v Quc
Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu án phí lphí Tòa án. Tuy nhiên bà P
người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều
12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 ca y ban Thường v
Quc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm án phí và lệ phí Tòa án
Vchi phí tố tụng: Tiền chi phí xem xét thẩm định hết 1.000.000đ, stiền này
T đã ứng nộp. Do yêu cầu khởi kiện của T được chấp nhận nên ông T1, bà P
mỗi người phải chịu 500.000đ; số tiền ông T1, bà P nộp trả cho bà T.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo theo quy định tại
Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụngn sự.
Vì các lẽ trên,
11
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 158, 164 169 của Bộ luật Dân s2015; Khoản 14 Điều
26, Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều
266, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điểm đ
khoản 1 Điều 12, khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày
30/12/2016 ca y ban Thường v Quc Hi quy định về mức thu, miễn, giảm án
phí và lệ phí Tòa án.
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị T yêu cầu ông
Nông T1, bà Nguyễn Thị P phải tháo dỡ di dời tài sản trên đất.
Buộc ông Nông Văn T1, bà Nguyễn Thị P phải tháo dỡ di dời toàn bộ 01 nhà
xưởng cột sắt, lợp tôn diện tích 19,1m
2
nằm trên diện tích đất 222,7m
2
, thuộc thửa
5, tờ bản đồ số 8 tại Tiểu khu D (nay Tổ dân phố số D) thị trấn A, huyện S, tỉnh
Bắc Giang, được UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sQ691524
ngày 28/12/1999, cho hộ bà Vũ Thị T; gồm các điểm: 1-2 = 3,7m, 2-3= 5,62m, 3-4
= 3,6m, 4-1 = 4,85m. (có sơ đồ đo vẽ kèm theo).
[2] Về án phí và chi phí tố tụng:
Về án phí: Nguyễn Thị P là người cao tuổi nên được miễn án phí n sự
sơ thẩm, ông Nông Văn T1 phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Về chi phí t tụng: Ông Nông Văn T1, bà Nguyễn Thị P mỗi người phải chịu
500.000đ tiền chi phí tố tụng; số tiền ông T1 và bà P nộp trả cho T.
[3] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; các đương sự vắng mặt có quyền kháng
cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm
yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc b cưỡng
chế thi hành án theo quy đnh tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án
dân sự. Thời hiệu được thực hiện theo quy đnh tại Điều 30 Luật Thi nh án dân
sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND huyện Sơn Động;
- Chi cục THADS huyện Sơn Động;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu .
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Toàn
12
Tải về
Bản án số 35/2024/DS-ST Bản án số 35/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 35/2024/DS-ST Bản án số 35/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất