Bản án số 34/2025/DS-ST ngày 19/05/2025 của TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 34/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 34/2025/DS-ST ngày 19/05/2025 của TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện An Biên (TAND tỉnh Kiên Giang)
Số hiệu: 34/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông S khởi kiện yêu cầu ông T thanh toán nợ mua bán
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN AN BIÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 34/2025/DS-ST
Ngày: 19-5 -2025
V/v tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Thơm.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Trần Thị Mộng Lành và bà Trần Thu Trang.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn n Mau - Thư Tòa án nhân dân huyện
An Biên tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên tham gia phiên tòa: Bà Lai
Thị Ngọc Thúy.
Trong ngày 19 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên
tỉnh Kiên Giang, xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 36/2025/TLST-DS ngày
06 tháng 01 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sảntheo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử s 76/2025/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 4 năm 2025, Quyết
định hoãn phiên tòa số 69/2025/QĐST-DS ngày 25 tháng 4 năm 2025, giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Cao Thái S, sinh năm 1963
Địa chỉ: 140 N, phường R1, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.
Chỗ ở hiện nay: Ấp T1, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Dương Văn T, sinh năm 1978
Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn ông Cao
Thái S trình bày:
Vào ngày 21/11/2022, ông T đến của hàng vật liệu xây dựng Thái Sơn 2 của
ông S để mua vật liệu xây dựng về cất nhà. Tổng số tiền ông T mua vật liệu xây dựng
2
(VLXD) 73.255.000 đồng, ông T trả trước 53.255.000 đồng số còn lại
20.000.000 đồng hai bên hợp đồng theo hình thức mua bán trả góp cụ thể như sau:
Ông T trả góp số tiền mua bán còn nợ 20.000.000 trong thời gian 06 tháng, tiền
trượt giá hàng hóa 5%/tháng, tổng số tiền ông T phải trả cho ông S chia làm 03 lần, cứ
02 tháng trả một lần. Về thời gian trả được thống nhất như sau:
- Ngày 27/01/2023 trả 8.667.000 đồng;
- Ngày 27/3/2023 trả 8.667.000 đồng;
- Ngày 25/5/2023 trả 8.667.000 đồng.
Trong quá trình xây dựng do bị thiếu VLXD nên ông T tiếp tục đến cửa hàng
VLXD của ông Cao Thái Sơn mua VLXD đợt 2 vào ngày 03/12/2022 với số tiền
13.832.000.000 đồng, ông T trả trước 3.832.000 đồng còn nợ lại số tiền 10.000.000
đồng. Các bên cũng thỏa thuận trả góp như đợt 1, cụ thể số tiền phải trả gồm tiền nợ
mua bán 10.000.000 đồng (5% tiền trượt giá hàng hóa/tháng x 06 tháng), tổng
cộng 13.000.000 đồng. Số tiền nợ này cũng trả làm 03 lần trong vòng 06 tháng cứ
02 tháng trả 01 lần, mỗi lần trả 4.333.000 đồng. lần mua VLXD sau các bên không
làm hợp đồng mua bán nhưng cửa hàng của ông Stự ghi phiếu theo dõi.
Tổng cộng số tiền ông T còn nợ của ông S sau hai đợt mua VLXD
39.000.000 đồng.
Sau khi cất nhà xong ông T lánh mặt không thực hiện trả nợ cho ông S nhiều
lần hứa hẹn nhưng không thực hiện trả nợ.
Quá trình giải quyết vụ án ông S yêu cầu ông T trả số tiền mua bán còn nợ
39.000.000 đồng (Ba mươi chín triệu đồng) và phải trả tiền trượt giá vật tư là
5%/tháng.
Tại phiên toà ông S xác định: Đối với số tiền nợ mua VLXD lần đầu vào ngày
21/11/2022 các bên thoả thuận tiền trượt giá 5%/tháng, đây không phải thoả thuận
trả lãi đối với tiền nợ mua bán mà tiền trả cho giá chênh lệch lên xuống hàng tháng
của vật tư, tuy nhiên tại phiên toà ông S không tiếp tục yêu cầu ông T phải trả khoản
tiền trượt giá 5%/tháng theo thoả thuận trước đó của các bên ông S yêu cầu ông T
phải trả số tiền nợ mua bán đợt 1 vào ngày 21/11/2022 20.000.000 đồng cùng tiền
lãi chậm trả tính từ ngày 21/11/2022 cho đến ngày trả hết nợ với mức lãi suất theo
quy định của pháp luật. Đối với số tiền nợ mua VLXD đợt 2 vào ngày 03/12/2022 còn
lại 10.000.000 đồng ông S chỉ yêu cầu ông T trả tiền nợ mua bán 10.000.000
3
đồng và không yêu cầu trả lãi chậm trả tiền.
Ông S cũng trình bày thêm: Khi mua VLXD đợt 2 ông T nói strả tiền mua
VLXD ngay sau khi nhận hàng nên hai bên không làm hợp đồng mua bán. Tuy nhiên
khi cửa hàng của ông S đến giao hàng thì ông T không trả hết tiền mua VLXD mà chỉ
trả được số lẻ 3.832.000 đồng và còn nợ lại 10.000.000 đồng. Đối với số nợ này
ông S không cung cấp được hợp đồng hay hoá đơn xác nhận của ông T về việc
nhận hàng, nhận nợ chỉ cung cấp được các hoá đơn do cửa hàng tự ghi toa theo
dõi.
Bị đơn ông Dương Văn T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng
nhưng vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án không gửi văn bản nêu
ý kiến về yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu phản tố không ý kiến phản
đối trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Chứng cứ thu thập được:
Chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng; 06
mẫu hoá đơn bán lẻ.
Chứng cứ do bị đơn cung cấp: Không.
Qua yêu cầu khởi kiện và ý kiến của các đương sự đã thống nhất và không
thống nhất với nhau các vấn đề sau:
Thống nhất: Không.
Không thống nhất: Ông Cao Thái S yêu cầu ông Dương Văn T trả s tiền còn
nợ mua bán 30.000.000 đồng yêu cầu tính lãi chậm trả đối với số tiền nợ mua
bán 20.000.000 đồng từ ngày 21/11/2022 cho đến ngày trả xong nợ theo mức lãi suất
do pháp luật quy định. Ông T vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không thể
hiện ý kiến trình bày.
Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã thực
hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều
228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn. Không kiến nghị về phần thủ
tục tố tụng.
Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông S
đối với số tiền nợ mua bán 20.000.000 đồng thể hiện tại hợp đồng mua bán, số tiền nợ
mua bán 10.000.000 đồng do không cung cấp được chứng cứ xác định nợ nên không
4
chấp nhận. Đối với yêu cầu về lãi xuất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền do trong quá
trình khởi kiện nguyên đơn không yêu cầu phát sinh yêu cầu tại phiên toà nên
đề nghị không chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa
căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng:
Thẩm quyền giải quyết vụ kiện quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp
phát sinh từ giao dịch mua bán tài sản bị đơn nơi trú trên địa bàn huyện An
Biên, căn cứ vào Điều 26, Điều 35 và điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử
xác định vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân huyện An Biên quan hệ pháp
luật của vụ án được xác định “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Bđơn tiếp tục vắng mặt sau khi đã
được triệu tập xét xử hợp lđến lần thứ hai không lý do, căn cứ vào khoản 2
Điều 227 khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn ông
Tiển.
Việc thay đổi nội dung khởi kiện: Tại phiên toà ông S yêu cầu ông T phải trả
tiền nợ mua bán tổng cộng 30.000.000 đồng không tiếp tục yêu cầu tính tiền
trượt giá hàng hoá 5%/tháng, ngoài ra ông S bổ sung yêu cầu ông T phải trả lãi chậm
thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với stiền mua bán đợt 1 còn nợ 20.000.000 đồng từ
ngày 21/11/2022, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự để
xem xét giải quyết.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông T đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn
bản tố tụng trong đó Thông báo thụ vụ án nêu yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn nhưng ông T không văn bản phản đối nội dung khởi kiện của nguyên đơn
đồng thời không cung cấp chứng cứ chứng minh cho sự phản đối đó. Do đó Toà án
căn cứ vào khoản 2 và khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân để giải quyết vụ án
theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc.
5
Theo nội dung khởi kiện ông S xác định vào năm 2022 ông T mua vật liệu xây
dựng tại cửa hàng VLXD của ông S còn nsố tiền mua bán 30.000.000 đồng.
Quá trình khởi kiện nguyên đơn đã cung cấp chứng cứ gồm 01 hợp đồng mua bán vật
liệu xây dựng xác lập ngày 21/11/2022 06 hoá đơn mẫu bán l trong đó 05 hoá
đơn ghi ngày 21/11/2022 và 01 hoá đơn ghi ngày 03/12/2022.
Xét thấy:
Đối với chứng cứ là “Hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng tr góp hoặc trả
chậm” được xác lp ngày 21/11/2022 thể hiện ông T bên mua tên xác nhận
nội dung hợp đồng xác nhận số nợ mua bán là 20.000.000 đồng. Quá trình giải
quyết vụ án ông T không ý kiến phản đối chứng cứ này cùng số nợ thể hiện trong
hợp đồng đồng thời không chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ khoản nợ trên
nên căn cứ để xác định vào ngày 21/11/2022 ông T còn ncủa ông S 20.000.000
đồng tiền mua bán vật liệu xây dựng là sự thật.
Đối với các chứng cứ 06 (sáu) hoá đơn mẫu bán lẻ thể hiện ghi số lượng
hàng hoá mua bán và quy ra thành tiền mua bán. Trong số 06 hoá đơn bán lẻ do ông S
cung cấp thì 05 hoá đơn thể hiện lập ngày 21/11/2021, dữ liệu ngày ghi trong 05
hoá này đều bị dập xoá và ghi lại thành ngày 21/11/2022 trùng với ngày lập hợp
đồng mua bán trả chậm của số nợ 20.000.000 đồng, còn 01 hoá đơn bán lẻ ghi ngày
03/12/2022. Cả 06 hoá đơn bán lẻ do ông S cung cấp chỉ hoá đơn do đơn phương
cửa hàng của ông S ghi đtheo dõi không chữ xác nhận đã nhận hàng
nhận nợ của bên mua nên không sở để xác định ông T đã mua hàng, đã nhận
được hàng và còn nợ số tiền mua bán như ông S yêu cầu từ đó không có sở để xác
định vào ngày 03/12/2022 ông T còn thiếu nợ tiền mua bán VLXD của ông S số tiền
10.000.000 đồng.
Qua phân tích ở trên xác định ông T còn nợ của ông S số tiền mua bán VXD
20.000.000 đồng, ông T vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên căn cứ vào Điều 440 Bộ
luật dân sự cần buộc ông T nghĩa vụ thanh toán trả cho ông S số tiền mua bán còn
nợ là 20.000.000 đồng là phù hợp với quy định.
Tại phiên toà ông S xác định trong quá trình mua bán các bên có thoả thuận tiền
trượt giá đối với số nợ mua bán 5%/tháng, ông S xác định đây không phải là thoả
thuận trả lãi đối với khoản tiền nợ mua bán thoả thuận này tiền trượt giá hàng
hoá hàng tháng, tuy nhiên ông S xin rút lại yêu cầu tính tiền trượt giá hàng hoá 5%/
6
tháng đối với số nợ mua bán nên Hội đồng xét xử không tiếp tục xem xét. Căn cứ vào
khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông
Sơn đối với yêu cầu tính tiền trượt giá hàng hoá 5%/tháng đối với s tiền nợ mua bán.
Cũng tại phiên toà, ông S yêu cầu bổ sung yêu cầu ông T phải trả lãi chậm
trả đối với số tiền nợ mua bán 20.000.000 đồng từ ngày 21/11/2022 cho đến ngày trả
xong nợ. Xét thấy, trong nội dung khởi kiện ban đầu ông T không có yêu cầu tính tiền
lãi chậm trả, việc bổ sung nội dung yêu cầu khởi kiện tại phiên toà vượt quá phạm
vi khởi kiện ban đầu nên căn cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng
xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung tại phiên toà của ông S.
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật ông T chưa trả số nợ 20.000.000
đồng cho ông S thì ông T còn phải trả khoản tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả
tiền với mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi
thanh toán xong hết số nợ.
Tại phiên toà ông S xác định ông T phải trả nợ số tiền mua bán VLXD
30.000.000 đồng. Dựa trên chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chỉ căn cứ chấp
nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông S đối với số nợ mua bán 20.000.000
đồng, do đó phần yêu cầu của ông S không được chấp nhận (30.000.000 đồng
20.000.000 đồng = 10.000.000 đồng).
[3] Về án phí của vụ án:
Một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc ông T
phải nộp án phí đối với phần yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, c thể:
20.000.000 đồng x 5% = 1.000.000 đồng.
Ông S phải chịu án phí đối với phần yêu cầu không được chấp nhận như sau:
10.000.000 đồng x 5% = 500.000 đồng và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là
975.000 đồng. Ông S được hoàn trả số tiền chênh lệch là 475.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều
228, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015;
Áp dụng Điều 430, Điều 440, Điều 357 của Bộ luật dân sự 2015;
7
Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Cao Thái S.
Buộc ông Dương Văn T phải trả cho ông Cao Thái S số tiền mua vật liệu xây
dựng còn nợ là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Nghĩa vụ trả nợ được thực
hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể tngày án có hiệu lực pháp luật ông Dương Văn T chưa thanh toán tiền
khoản nợ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) cho ông Cao Thái S thì ông Dương
Văn T còn phải trả khoản tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo mức lãi suất
được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Cao Thái S về nội dung yêu
cầu ông Dương Văn T phải trả tiền trượt g hàng hoá 5%/tháng đối với số nợ mua
bán.
3. V án phí vụ kiện:
Ông Dương Văn T phải nộp án phí đối với phần yêu cầu của ông Cao Thái S
được Hội đồng xét xử chấp nhận với số tiền là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng).
Ông Cao Thái S phải chịu án phí đối với phần yêu cầu không được Hội đồng
xét xchấp nhận là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí 975.000 đồng (Chín trăm bảy mươi lăm nghìn) theo biên lai thu
tiền số 0003534 ngày 18/12/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Biên. Ông
Cao Thái S được hoàn trả số tiền chênh lệch là 475.000 đồng (bốn trăm bảy mươi lăm
nghìn đồng).
4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, nguyên đơn mặt quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 19/5/2025. Bị đơn vắng mặt tại
phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hp bn án, quyết định được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Lut thi
hành án dân s thì người được thi hành án dân sự, người phi thi hành án dân s có
quyn tha thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành án hoc
b ng chế thi hành án theo quy đnh ti các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Lut thi hành án
8
dân s; Thi hiu thi hành án được thc hiện theo quy định tại Điều 30 Lut thi hành
án dân sự./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Kiên Giang; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện An Biên;
- Chi cục THADS huyện An Biên; (Đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu: VT, HSDS.
Đinh Thị Thơm
Tải về
Bản án số 34/2025/DS-ST Bản án số 34/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 34/2025/DS-ST Bản án số 34/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất