Bản án số 33/2024/HNGĐ-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về bạo lực gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 33/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 33/2024/HNGĐ-ST ngày 28/08/2024 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về bạo lực gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về bạo lực gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hữu Lũng (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 33/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chị Vi Thị Hương T và anh Nguyễn Văn D có đăng ký kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, đe đọa, xúc phạm nhau, thậm chí anh Nguyễn Văn D còn gây thương tích cho vợ.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 33/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 28-8-2024
V/v: Ly hôn, tranh chp nuôi con
khi ly hôn.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Mạnh Cường.
Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Lê Thị Hồng Vân.
2. Ông Đặng Hải Quân.
- Thư phiên toà: Vy Khánh Ly - Thư Tán nhân dân huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng tham gia phiên toà:
Bà Hoàng Thị Thuý - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình sơ thẩm về việc
ly hôn, tranh chp nuôi con khi ly hôn thụ số 99/2024/TLST-HNGĐ, ngày
04/6/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày
01/8/2024, Quyết định hoãn phiên toà số 24/2024/QĐST-HNGĐ ngày 19/8/2024
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vi Thị Hương T, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn Đ, H,
huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn Đ, H, huyện
H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án nguyên đơn trình bày:
Chị Vi Thị Hương Tanh Nguyễn Văn D có được tìm hiểu, yêu nhau và
quyết định đi đến kết hôn, năm 2012 đăng kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (UBND)
H, huyện H trên sở tự nguyện và được sđồng ý của hai bên gia đình tổ
chức lễ cưới hỏi theo phong tục truyền thống.
Từ sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau đã không được hạnh phúc,
2
do anh Nguyễn Văn D rt ham chơi, không việc làm thường xuyên tụ tập
bạn chơi bời dẫn đến không chịu lao động làm ăn, xây dựng kinh tế gia đình,
bỏ bê vợ con; để mình vợ lo toan cuộc sống, làm lụng vt vả kiếm tiền nuôi con.
Chị Vi Thị Hương T đã khuyên bảo nhiều lần nhưng chồng không nghe
còn xảy ra cãi nhau rt căng thẳng; anh Nguyễn Văn D khi uống rượu vào lại
cãi nhau thể hiện thói phu - hùng hổ, thái độ bực tức vô cớ dẫn đến rt nhiều
lần tát, đánh vợ; trong đó có lần gây thương tích tại vùng ngực phải đi Bệnh viện
điều trị nhưng chị Vi Thị Hương T không làm thủ tục, ly giy tờ nhập viện điều
trị do khi đó đang đi làm công ty, không muốn bị ảnh hưởng đến công việc. Chỉ
thương con mong chồng hội sửa sai nên chị đã không báo công an,
chính quyền mà chọn cách im lặng, nhẫn nhịn chịu đựng.
Sau những sự việc đó xảy ra thì gia đình nội ngoại hai bên cũng khuyên
nhủ, hòa giải chị Vi Thị Hương T cũng mong muốn chồng thay đổi để cùng
nhau chung sống nuôi dạy con cái, nhưng chồng vẫn không chịu thay đổi mà còn
hay gây sự, đánh chị nhiều hơn.
Mâu thuẫn ngày một chồng cht, không thể hoá giải dẫn đến ngày càng trầm
trọng, cuộc sống hôn nhân không được hạnh phúc, căng thẳng, lo lắng bạo lực gia
đình nên vợ chồng đã ly thân từ tháng 01 năm 2024 cho đến hiện nay; cả hai không
còn quan tâm đến cuộc sống của nhau nữa. Nay chị Vi Thị Hương T xác định tình
cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung
không thể tồn tại, mâu thuẫn bạo lực gia đình không thể giải quyết, nên yêu cầu
được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.
- Về con chung: Vchồng 02 người con chung cháu Nguyễn V,
sinh ngày 30/9/2012 cháu Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 08/12/2016. Khi ly hôn,
chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Nguyễn Quỳnh
N; còn anh Nguyễn Văn D sẽ nuôi dưỡng cháu Nguyễn V để thuận tiện việc
ăn ở, học hành công việc sau này. Nếu mỗi người nuôi một con thì không ai phải
cp dưỡng nuôi con chung.
Về điều kiện nuôi con: Hiện nay chị Vi Thị Hương T đang làm công nhân
của công ty S, thu nhập bình quân 7.000.000 đồng/một tháng, chỗ do công
ty B; khi về nhà thì bố mẹ đẻ tạo điều kiện cho ở cùng.
Trường hợp nếu anh Nguyễn Văn D kiên quyết yêu cầu nuôi hết cả hai đứa
con chung, chị Vi Thị Hương T đồng ý cp dưỡng nuôi con chung 600.000đ/01
tháng/01 cháu cho đến khi các con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi.
- Về tài sản chung: Không có yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về khoản nợ chung: Không có; không yêu cầu Tòa án giải quyết
Tại các lời khai, đề nghị trong quá trình giải quyết bị đơn trình bày:
Việc tự nguyện kết hôn đúng như chị Vi Thị Hương T trình bày. Từ sau khi
3
kết hôn cuộc sống hôn nhân của anh chị không được hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu
thuẫn, cãi cọ, xúc phạm lẫn nhau, nht kể từ thời điểm anh đi thụ án gây thương
tích và vợ nhà đi làm công ty thì anh ý nghi ngờ vợ có mối quan hệ với người
đàn ông khác, mâu thuẫn vợ chồng ngày một nhiều, không hoá giải được. Ngoài
ra, chị Vi Thị Hương T thường xuyên cãi nhau với mẹ chồng, anh nói nhưng
vợ không nghe.
Sau những sự việc đó xảy ra thì gia đình nội ngoại hai bên cũng có khuyên
nhủ hòa giải cho vợ chồng, tuy nhiên mâu thuẫn ngày một chồng cht, cuộc
sống hôn nhân không được hạnh phúc; lần mâu thuẫn trầm trọng nht việc đánh
nhau cãi nhau, dẫn đến hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 01 năm 2024 cho đến
hiện nay không quan tâm đến cuộc sống của nhau.
Nay anh Nguyễn Văn D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích
hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể tồn tại, mâu thuẫn không thể
giải quyết, nên đồng ý ly hôn.
- Về con chung: Khi ly hôn anh Nguyễn Văn D yêu cầu được trực tiếp nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả 02 chung để cho các cháu được ở cùng nhau và ổn
định việc sinh hoạt học tập; anh không yêu cầu cp dưỡng nuôi con chung. Tuy
nhiên do các cháu đều trên 07 tuổi nên anh tôn trọng nguyện vọng của các cháu
theo quy định của pháp luật.
Về điều kiện nuôi con: Hiện nay anh có đt nhà ở do bố mẹ cho nên có chỗ
ở ổn định; có công việc ở nhà làm ruộng, làm thuê lao động phổ thông, thu nhập
hàng tháng trung bình khoảng 6.000.000đ/tháng, nên có đủ kinh tế để nuôi con.
- Về tài sản chung: Hiện nay các tài sản nhà đt đang đều của anh Nguyễn
Văn D nên không yêu cầu chia; anh D cho rằng chị Vi Thị Hương T có 01 khoản
tiền tiết kiệm gửi ngân hàng nhưng chính xác bao nhiêu, không và ngân hàng
nào anh cũng chưa biết; nếu ly hôn phải chia cho anh một nửa.
Toà án đã giải thích cho anh quy định pháp luật liên quan đến việc anh
quyền làm đơn yêu cầu liên quan đến phân chia khoản tiền tiết kiệm gửi ngân
hàng và cung cp tài liệu chứng cứ liên quan đến yêu cầu đó trong thời hạn 05
ngày làm việc kể từ ngày 26/6/2024. Tuy nhiên hết thời hạn anh D không cung
cp được chứng cứ và không có đơn yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có; không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật, quan điểm đề nghị giải quyết vụ án:
Trong thời gian chuẩn bị xét xử, thẩm phán đã tiến hành thụ lý vụ án đúng
thẩm quyền, xác định cách đương sự, tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ và
gửi hồ cho Viện kiểm sát đều đã đảm bảo đúng quy định. Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng đối với phiên tòa dân sự
thẩm. Việc tuân theo pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị đơn thực hiện đúng
4
quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 51, 56, 57, 58, 81,
82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình; chp nhận yêu cầu khởi kiện, cho chị Vi
Thị Hương T được ly hôn với anh Nguyễn Văn D. Vcon chung, chị Vi Thị
Hương T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Nguyễn
Quỳnh N; anh Nguyễn Văn D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu
Nguyễn Hà V đến khi các con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi. Hai bên không ai
phải cp dưỡng nuôi con chung quyền thăm non con chung không bị cản
trở. Về tài sản chung nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải
quyết. Chị Vi Thị Hương T là người yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn
sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được xem
xét, thẩm tra và tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Vi Thị Hương T đơn khởi kiện yêu cầu giải
quyết về quan hệ hôn nhân con chung nên xác định quan hệ tranh chp của vụ
án ly hôn, tranh chp về nuôi con khi ly hôn. Bị đơn anh Nguyễn Văn D, trú
tại Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn nên xác định vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại khoản 1
Điều 28, các Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên toà, nguyên đơn
chị Vi Thị Hương T đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Văn D đã
được triệu tập hợp llần hai nhưng vẫn vắng mặt không do; căn cứ vào
khoản 1 Điều 227 khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, chứng cứ do
đương sự cung cp các tài liệu do Toà án thu thập căn cứ để xác định chị
Vi Thị Hương T và anh Nguyễn Văn D có đăng ký kết hôn trên cơ sở hoàn toàn
tự nguyện, hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống không hạnh phúc,
thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, đe đọa, xúc phạm nhau, thậm chí anh
Nguyễn Văn D còn gây thương tích cho vợ. Nguyên nhân do anh Nguyễn Văn D
ham chơi, lười lao động, thường xuyên tụ tập bạn không tu chí làm ăn,
thậm chí phải đi cải tạo do bị xét xvề hành vi gây thương tích; nên một mình
chị Vi Thị Hương T phải tự mình lo toan cuộc sống. Bản thân chị Vi Thị Hương
T cũng mâu thuẫn với gia đình nhà chồng. Mâu thuẫn giữa anh chị xảy ra
thường xuyên, ngày càng trầm trọng, nhiều lần xảy ra bạo lực gia đình, xâm phạm
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm nên hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 01/2024 đến
nay, không còn quan tâm nhau.
[3] Tại biên bản ly lời khai những người làm chứng ông Vy Văn Đ bố
ruột chị T; bà Triệu Thị D1 mẹ ruột chị T; anh Vy Văn T1 anh trai ruột chị T
5
trình bày: Từ ngay sau khi kết hôn vợ chồng anh D chị T chung sống với nhau đã
không được hạnh phúc, do anh D rt ham chơi, không có việc làm thường xuyên
tụ tập bạn bè chơi bời dẫn đến không chịu lao động làm ăn, xây dựng kinh tế gia
đình, bỏ vợ con; để mình chị T lo toan cuộc sống, làm lụng vt vả kiếm tiền
nuôi con. Anh D thường xuyên đánh đập chị T, gia đình được biết khuyên
nhủ nhưng anh D không nghe lời.
[4] Quá trình giải quyết vụ án tại phiên hoà giải trước khi xét xử ngày
26/6/2024, a đã nhiều lần tiến hành khuyên bảo hai vợ chồng hóa giải mâu
thuẫn, đoàn tụ nuôi dạy con cái, xây dựng gia đình hạnh phúc; nhưng chị Vi Thị
Hương T xác định tình cảm vchồng không còn, mâu thuẫn kéo dài, đời sống
chung không tồn tại nên nht quyết ly hôn, để được giải thoát khỏi cuộc sống hôn
nhân không hạnh phúc anh Nguyễn Văn D cũng nht trí, đồng ý đề nghị Toà
giải quyết cho ly hôn. Từ những nhận định nêu trên, xét thy mâu thuẫn giữa chị
Vi Thị Hương T anh Nguyễn Văn D đã thực sự trầm trọng, đi sng chung
hiện không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 51, 55 Luật
Hôn nhân gia đình năm 2014 cần công nhận sự thuận tình do hai bên đương
sự đều nht trí, tự nguyệnkhông có du hiệu vi phạm sự tự nguyện, không vi
phạm điều cm của luật và không trái đạo đức xã hội.
[5] Về con chung: Xét yêu cầu của nguyên đơn đề nghị nuôi dưỡng cháu
Nguyễn Quỳnh N, thy rằng; hiện tại cháu còn nhỏ (mới học hết lớp 2), cháu có
mong muốn được ở cùng mẹ, cần có sự quan tâm, gần gũi từ người mẹ đảm bảo
điều kiện chăm sóc, giáo dục tâm sinh phù hợp hơn. Bản thân chị Vi Thị Hương
T hiện đang làm ng nhân với mức thu nhập hiện tại trung bình khoảng
7.000.000 đồng/tháng, chị vẫn bố trí thời gian nghỉ về thăm nom chăm sóc con;
chỗ ở sau khi ly hôn tại nhà bố đẻ là ông Vy Văn Đ (thôn A, xã T, huyện H, tỉnh
Lạng Sơn). Đối với cháu Nguyễn Hà V hiện đang sinh sống cùng bố và theo học
tại Trung học cơ sở xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn; bản thân cháu cũng có mong
muốn được với bố để n định việc học tập, thuận lợi cho công việc sau này.
Anh Nguyễn Văn D chỗ trên đt của bố mẹ đẻ cho, thu nhập bình quân từ
việc làm ruộng khoảng 6.000.000 đồng/tháng. Như vậy về cơ bản cả hai anh chị
đều đảm bảo điều kiện cơ bản nuôi sống bản thân và nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục 01 người con chưa thành niên phát triển một cách bình thường như những
đứa trẻ khác.
[6] Việc tphân định trách nhiệm nuôi con của nguyên đơn bị đơn
phù hợp với điều kiện sống, hoàn cảnh thực tế của bố mẹ các cháu, đồng thời phù
hợp với nguyện vọng của hai người con chung trên 07 tuổi; do vậy Hội đồng xét
xử quyết định giao cho chị Vi Thị Hương T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc
cháu Nguyễn Quỳnh N anh Nguyễn Văn D được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm
sóc cháu Nguyễn Hà V đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi.
[7] Việc giao con cho người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cp dưỡng nuôi
6
con, các bên đương sự có quyền đề nghị thay đổi trong quá trình nuôi dưỡng sau
này theo quy định pháp luật.
[8] V tài sản chung: Anh Nguyễn Văn D cho rằng vợ khoản tiền tiết
kiệm gửi tại ngân hàng nên yêu cầu phân chia tuy nhiên trong suốt quá trình giải
quyết vụ án đã không đơn yêu cầu và không thực hiện được việc cung cp căn
cứ chứng minh. Phía chVi Thị Hương T khẳng định, bản thân chưa bao giờ được
cầm giữ một khoản tiền nào của chồng gia đình chồng; do đó không n cứ
để Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết.
[9] Vnợ chung: Không có; không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng
xét xử không xem xét.
[10] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự và điểm
a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
lệ phí Tòa án, chị Vi Thị Hương T anh Nguyễn Văn D thuận tình ly hôn
trước khi mở phiên toà, nên mỗi người phải chịu ½ án phí ly hôn thm; nguyên
đơn tự nguyện chịu phần án phí của bị đơn.
[11] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật
của những người tiến hành tham gia tố tụng đúng thực tế, phợp với tài
liệu thu thập trong hồ sơ và diễn biến tranh tụng tại phiên tòa. Quan điểm đề nghị
giải quyết nội dung vụ án về việc xét xử cho ly hôn và xác định nghĩa vụ chịu án
phí không phù hợp với các nhận định nêu trên nên không được Hội đồng xét xử
chp nhận.
[12] Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271,
khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 51, các Điều 55, 57, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật
hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Điều 5; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228; các Điều
271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Quan h hôn nhân.
Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Vi Thị Hương T và anh Nguyễn Văn
D.
(Đăng kết hôn số 35 quyển s01 ngày 11/10/2012 của Ủy ban nhân dân
7
xã H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn).
2. Con chung.
- Chị Vi Thị Hương T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
cháu Nguyễn Quỳnh N sinh ngày 08/ 12/2016 và anh Nguyễn Văn D được quyền
trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Nguyễn V sinh ngày 30/9/2012
cho đến khi các con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi.
Người không trực tiếp nuôi con chung quyền, nghĩa vụ thăm nom con
chung, không ai được cản trở.
- Chị Vi Thị Hương T anh Nguyễn Văn D không phải thực hiện nghĩa
vụ cp dưỡng nuôi con chung (do các bên đương sự không có yêu cầu).
3. Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Khoản nợ chung: Không có; không yêu cầu Tòa án giải quyết.
5. Án phí: Chị Vi Thị Hương T phải chịu 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn
đồng) án phí ly hôn thẩm để nộp Ngân sách nhà nước. Xác nhận đã thi hành,
nộp đủ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004741 ngày
31/5/2024, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn; sau
khi khu trừ chị Vi Thị Hương T được hoàn trả 150.000đ (một trăm năm mươi
nghìn đồng).
6. Quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo
bản án trong thời hạn 15 ngày, ktừ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án
được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng;
- Chi cục THADS huyện Hữu Lũng;
- UBND xã Hồ Sơn, huyện Hữu Lũng;
- Các đương sự: .............................................;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN T
(Đã ký)
Nguyễn Mạnh Cường
Tải về
Bản án số 33/2024/HNGĐ-ST Bản án số 33/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 33/2024/HNGĐ-ST Bản án số 33/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất