Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST ngày 06/09/2024 của TAND huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 32/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST ngày 06/09/2024 của TAND huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tuần Giáo (TAND tỉnh Điện Biên) |
Số hiệu: | 32/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị thu xin ly hôn với anh S và đề nghị giải quyết việc nuôi dưỡng con chung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TUẦN GIÁO
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Bản án số: 32/2024/HNGĐ-ST
Ngày 06-9-2024
"V/v: Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn "
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Đình Hà
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trịnh Quyết Thắng
Ông Phạm Văn Tuân
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Lợi, Thư ký Tòa án nhân dân huyện Tuần
Giáo, tỉnh Điện Biên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo tham gia phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Mạnh - Kiểm sát viên.
Ngày 06/9/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 69/2024/TLST - HNGĐ ngày 02/4/2024
về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 34/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày 22/7/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số
25/2024/QĐST-HNGĐ ngày 08/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị T, sinh năm 1989.
Địa chỉ thường trú: Bản C, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên, có đơn xin xét xử
vắng mặt.
Địa chỉ hiện nay: Khu tập thể trường tiểu học Mùn Chung, bản Xóm Chợ, xã
Mùn Chung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên
2. Bị đơn: Anh Lò Văn S, sinh năm 1992
Địa chỉ thường trú: Bản C, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên, vắng mặt lần 2
không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện nộp ngày 02/4/2024, bản tự khai, nguyên đơn chị Lò Thị
T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lò Văn S chung sống như vợ chồng từ
năm 2012 nhưng đến ngày 25/6/2013 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Hôn nhân giữa chị T và anh S là tự nguyện
không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian thì
2
phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng
không có tiếng nói chung. Năm 2016, chị T phát hiện anh S sử dụng ma túy, chị đã
khuyên bảo nhiều lần song anh S không bỏ được. Chị T đã sống ly thân từ tháng 9
năm 2023 cho đến nay và ở tại bản X, xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên không về sinh
sống cùng anh S nữa. Từ khi sống ly thân anh chị không còn quan tâm gì đến nhau
nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị
yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Lò Văn S.
Về quan hệ con chung: Chị T và anh S có một con chung: Cháu Lò Ngọc K,
sinh ngày 10/4/2016. Khi ly hôn chị T đề nghị Toà án giải quyết giao cháu Lò Ngọc
K cho chị trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên
và có khả năng lao động. Chị T không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.
Về con riêng: Chị T có một con riêng là Lò Phương T1, sinh ngày 01/10/2011.
Khi ly hôn chị T đề nghị Toà án giải quyết giao cháu Lò Phương T1 cho chị T trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên và có khả năng
lao động. Chị T không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.
Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, nợ phải trả: Chị T xin tự thỏa thuận không
yêu cầu Tòa án giải quyết; tài sản riêng, nợ lấy về: Không có
Tại đơn đề nghị đề ngày 06/4/2024 gửi qua đường bưu điện anh S trình bày
về quan hệ hôn nhân với chị T có tổ chức đám cưới theo phong tục. Quá trình chung
sống trong 13 năm không có mâu thuẫn gì, luôn yêu thương nhau. Anh không hiểu
tại sao từ tháng 10 năm 2023 chị T bỏ nhà đi không về nữa. Ý kiến của anh nếu vợ
anh muốn ly hôn thì anh cũng nhất trí. Về con chung anh thừa nhận vợ chồng anh có
một con chung và một con riêng như chị T trình bày. Đối với con chung là Lò Ngọc
K, nguyện vọng anh muốn nuôi cháu đến khi trưởng thành. Về nợ vay: Anh có ý
kiến cho rằng trong thời gian anh đi làm ăn ở Hà Nội, chị T tự ý vay ngân hàng C
với số tiền 90.000 đồng. Ý kiến chung của anh là đề nghị Tòa án xem xét giải quyết
cho anh.
Do anh S không trực tiếp đến Tòa án làm các thủ tục pháp lý theo quy định
của pháp luật, ngày 12/4/2024, Tòa án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân và
nơi cư trú của anh S. Tại các biên bản xác minh hồi 17 giờ ngày 12/4/2024 đối với
bố anh Lò Văn S; hồi 16 giờ ngày 12/4/2024 tại Công an xã M và biên bản xác minh
hồi 14 giờ 32 phút ngày 12/4/2024 tại nhà Trưởng bản Ban, xã M, huyện T đều cho
biết anh S có đăng ký thường trú tại bản Chiềng Ban, xã M, huyện T là đối tượng sử
dụng ma túy từ lâu mà Công an xã M đang theo dõi, hiện anh S đang đi làm ăn tại
địa phương khác không khai báo với chính quyền nên không thể nắm rõ anh S đang
làm ăn ở đâu.
Tòa án đã tiến hành tống đạt bằng hình thức tống đạt trực tiếp cho bố đẻ anh
S, niêm yết công khai các văn bản tố tụng: Thông báo về phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, niêm yết kết quả việc Tòa án thu
thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm
yết các văn bản tố tụng, ngày 29/4/2024, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao
nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự song anh S vắng
mặt không có lý do, Tòa án đã lập biên bản về sự vắng mặt không có lý do của anh
S và tiến hành niêm yết thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
3
cận, công khai chứng cứ theo quy định của pháp luật. Cùng ngày 29/4/2024, chị Lò
Thị T đã có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nữa, đề nghị Tòa án xét xử
vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 08/8/2024, Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo mở phiên tòa xét xử theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày 22/7/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo và đã niêm yết theo quy định của pháp luật song
anh S vắng mặt không có lý do, Tòa án đã hoãn phiên tòa theo luật định.
Tại đơn xin xét xử vắng mặt, chị Thu g nguyên quan điểm như trong đơn khởi
kiện, bản tự khai đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình
tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định
của pháp luật Tố tụng Dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho nguyên
đơn chị Lò Thị T được ly hôn với bị đơn anh Lò Văn S theo Điều 51, khoản 1 Điều
56 Luật Hôn nhân gia đình.
Về con chung: Căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình: Giao con
chung Lò Ngọc K, sinh ngày 10/4/2016 và giao con riêng của chị T là Lò Phương
T1, sinh ngày 01/10/2011 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục đến tuổi thành niên và có khả năng lao động. Chị T không yêu cầu giải quyết
phần cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, nợ phải trả: Chấp nhận việc chị T xin tự thỏa
thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết; tài sản riêng, nợ lấy về: Chị T khai không có
Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Đ đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị T là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế
xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí và có đơn xin được miễn án
phí, đề nghị HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò Thị T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các
đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly
hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo theo
khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng
dân sự.
[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị T và anh Lò Văn S
đăng ký kết hôn vào ngày 25/6/2013 tại UBND xã M, đến thời điểm giải quyết, Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực, do vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.
3. Về việc hoãn phiên tòa và xét xử vắng mặt đương sự: Ngày 08/8/2024, Tòa
án nhân dân huyện Tuần Giáo mở phiên tòa xét xử song bị đơn vắng mặt không có
4
lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự,
HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.
Tại phiên tòa ngày 06/9/2024, chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh S vắng
mặt lần 2 không có lý do, HĐXX căn cứ Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ
luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh S lấy nhau có đăng ký kết hôn theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp
pháp.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh tình
trạng hôn nhân, tống đạt cho ông Lò Văn D là bố anh S và niêm yết các văn bản tố
tụng: Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và
hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai
chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa để anh S thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng
Dân sự song anh S vẫn không có mặt tại Tòa án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ
của mình, vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng
cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, đã thể hiện ý thức không chấp
hành pháp luật, vi phạm các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo điều 70, 72 Bộ
luật Tố tụng Dân sự. Anh S đã tự từ bỏ các quyền và không thực hiện nghĩa vụ của
mình. Ngày 29/4/2024, chị T có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải. Vụ án thuộc
trường hợp không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 Bộ Luật Tố tụng dân sự.
Theo các biên bản xác minh tình trạng hôn nhân 12/4/2024 tại gia đình bố đẻ anh S;
tại bản Chiềng Ban, xã M và tại Công an xã M, huyện T thể hiện về nguyên nhân
mâu thuẫn do anh S sử dụng ma túy là nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn,
dẫn đến việc chị T không quan hệ sinh sống cùng anh S từ tháng 8 năm 2023 cho tới
nay. Từ đó đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Anh S hiện đang đi làm ăn ở
địa phương khác thỉnh thoảng mới về.
HĐXX xét thấy: Tại đơn đề nghị gửi Tòa án, anh S cho rằng quan hệ hôn
nhân giữa anh và chị T không có mâu thuẫn gì, chị T đã tự ý bỏ nhà đi anh không
nhất trí song nếu chị T muốn ly hôn thì anh cũng nhất trí. Song qua các tài liệu
chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình Tòa án thu thập chứng cứ xác minh
tình trạng hôn nhân, đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn do anh S sử dụng
ma túy từ lâu, chị T khuyên bảo nhiều lần không được khiến chị phải ly thân, hôn
nhân của chị T và anh S đã lâm vào tình trạng trầm trọng là có thật và đúng như lời
khai của chị T, việc anh S cho rằng hôn nhân không có mâu thuẫn gì là không có cơ
sở. Mục đích hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp
đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không
đạt được, việc chị T xin ly hôn với anh S cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56
Luật hôn nhân và gia đình.
[5]. Xét nguyện vọng về con chung và cấp dưỡng: Chị T và anh S có 01 con
chung là cháu Lò Ngọc K, sinh ngày 10/4/2016. Con riêng của chị T là Lò Phương
T1, sinh ngày 01/10/2011, hiện chị T và anh S đã làm thủ tục về việc công nhận con
cho anh S theo Quyết định số 47/QĐ-UBND ngày 06/9/2014 của UBND thị trấn T,
huyện T. Hiện cả hai cháu đang ở với chị T, chị T hiện đang làm hành chính tại
5
trường tiểu học M với mức lương ổn định hàng tháng là 7.449.660 đồng và đang ở
tập thể trường tiểu học M, bản Xóm Chợ, xã M, huyện T.
Tại đơn đề nghị, anh S có nguyện vọng được nuôi cháu Lò Ngọc K, tuy nhiên
sau đó anh S đã không lên Tòa án để chứng minh nguyện vọng và khả năng nuôi
dưỡng của mình, hơn nữa anh S là đối tượng sử dụng ma túy, anh S đã tự từ bỏ
quyền được Tòa án xem xét nuôi con khi ly hôn. HĐXX xét nguyện vọng của chị T,
nguyện vọng và quyền lợi mọi mặt của hai cháu K và T1 đều có ý kiến xin được ở
với chị T. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, quyết định: Giao con chung
Lò Ngọc K, sinh ngày 10/4/2016 và giao con riêng của chị T là Lò Phương T1, sinh
ngày 01/10/2011 cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến
tuổi thành niên và có khả năng lao động. Chấp nhận việc chị T không yêu cầu giải
quyết phần cấp dưỡng nuôi con.
[6]. Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, nợ phải trả: Chấp nhận việc chị T xin tự
thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết; tài sản riêng, nợ lấy về: Chị T khai
không có. Đối với ý kiến anh S cho rằng số tiền 90.000.000 đồng chị T tự ý vay
ngân hàng C, HĐXX xét thấy: Quan điểm của anh S không rõ ràng, chỉ là ý kiến
thắc mắc. Mặt khác anh S không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh về khoản nợ
trên, hơn nữa anh S đã không lên Tòa án để thực hiện các thủ tục theo quy định của
pháp luật mặc dù đã được niêm yết, tống đạt triệu tập hợp lệ theo quy định. Nếu anh
S có yêu cầu khởi kiện chia số nợ 90.000.000 đồng của Ngân hàng C, Tòa án sẽ xem
xét giải quyết thành một vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Đ đ khoản 1 Điều
12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị T là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn
kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí và có đơn xin được
miễn án phí, HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò Thị T.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia
Đình, tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho nguyên đơn chị Lò Thị T được ly
hôn với bị đơn anh Lò Văn S.
2. Về con chung: Giao con chung Lò Ngọc K, sinh ngày 10/4/2016 và giao
con riêng của chị Lò Thị T là Lò Phương T1, sinh ngày 01/10/2011 cho chị Lò Thị
T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên và có khả
năng lao động. Chị T không yêu cầu giải quyết phần cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm
nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục
6
con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom
con của người đó.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại
khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp
nuôi con.
3. Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, nợ phải trả: Chấp nhận việc chị T
không yêu cầu Tòa án giải quyết; tài sản riêng, nợ lấy về: Chị T khai không có.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và
điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò
Thị T.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Lò Thị T, bị đơn anh Lò Văn S
được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án
hoặc Bản án được niêm yết./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Điện Biên;
- VKSND huyện Tuần Giáo;
- Chi cục THADS huyện TG;
- UBND xã Mùn Chung (Nơi ĐKKH);
- Đương sự;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Lê Đình Hà
7
8
9
10
11
12
13
14
15
Tải về
Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 32/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 02/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 17/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm