Bản án số 31/2022/DS-ST ngày 16/06/2022 của TAND TP. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị xâm phạm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 31/2022/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 31/2022/DS-ST ngày 16/06/2022 của TAND TP. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng dân sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị xâm phạm
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồng Ngự (TAND tỉnh Đồng Tháp)
Số hiệu: 31/2022/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/06/2022
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỒNG NG
TỈNH ĐỒNG THÁP
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 31/2022/DS-ST
Ngày: 16-6-2022
V/v tranh chấp hợp đồng dân sự
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do tài sản bị xâm phạm
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Nông Phú.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Hoàng Lâm.
2. Ông Bùi Tấn Dũng.
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Hạnh - Thư Tòa án nhân dân huyện
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đực - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 20, 27 tháng 5, ngày 03, 16 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở
Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, xét xử sơ thẩm công khai v
án thụ số 183/2018/TLST-DS ngày 05 tháng 10 năm 2018 về tranh chấp hợp
đồng dân s chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do tài sản bị xâm phạm, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
93/2021/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn T, sinh năm 1958. Nơi đăng h khẩu
thường trú: số XX, tổ YY, ấp Long H, Long K A, huyện Hồng N, tỉnh
Đồng Tháp. Chhiện nay: số 152/6 Phan Chu Trinh, phường 2, thành phố Vũng
Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2. Bị đơn: Phòng T-K huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp. Người đại diện hợp
pháp của bị đơn: Ông Hùng C, chức vụ: Trưởng Phòng; Ông Phạm Chí T1,
sinh năm 1983, chức vụ: Phó trưởng Phòng là người đại diện theo y quyền (Văn
bản ủy quyền ngày 26/10/2018). (Sau đây viết tắt Phòng T-K.)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Ông Phạm Văn S, sinh năm 1963; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.2. Cao Thị S1, sinh năm 1959; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.3. Chị Phạm Thị L, sinh năm 1980; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.4. Anh Phạm Văn H, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.5. Chị Phạm Thị S2, sinh năm 1989; địa chỉ: ấp Long H, Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.6. Ông Phạm Văn C1, sinh năm 1974; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.7. Dương Thị Thu H1, sinh năm 1976; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.8. Cháu Phạm Thị Hồng N, sinh ngày 01/02/2004; địa chỉ: ấp Long H,
Long K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp. Người đại diện hợp pháp của Phạm
Thị Hồng N ông Phạm Văn C1, sinh năm 1974, là người đại diện theo pháp luật
(cha ruột của Hồng N).
3.9. Phạm Thị T2, sinh năm 1967; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.10. Ông Dương Văn B, sinh năm 1968; địa chỉ: ấp Long H, Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.11. Chị Dương ThQ, sinh năm 1993; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.12. Anh Dương Văn P, sinh năm 1999; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.13. Cao Thị D, sinh năm 1964; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.14. Ông Văn B1, sinh năm 1958; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.15. Phạm Thị B2, sinh năm 1961; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.16. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1952; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.17. Anh Nguyễn Chí T3, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3
3.18. Anh Nguyễn Chí H2, sinh năm 1991; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.19. Chị Nguyễn Thị T4, sinh năm 1980; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.20. Cháu Nguyễn Kim L1, sinh ngày 20/01/2009; địa chỉ: ấp Long H, xã
Long K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp. Người đại diện hợp pháp của Nguyễn
Kim L1, Nguyễn Ngọc M1 là chị Nguyễn Thị T4, sinh năm 1980, là người đại
diện theo pháp luật (mẹ ruột của Kim L1, Nhật M1).
3.21. Cháu Nguyễn Ngọc M1, sinh ngày 27/9/2017; địa chỉ: ấp Long H,
Long K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp. Người đại diện hợp pháp của
Nguyễn Kim L1, Nguyễn Lê Ngọc M1 là chị Nguyễn Thị T4, sinh năm 1980,
người đại diện theo pháp luật (mẹ ruột của Kim L1, Nhật M1).
3.22. Ông Nguyễn Văn C2, sinh năm 1969; địa chỉ: ấp Long H, Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.23. Trần Thị Mộng T5, sinh năm 1969; địa chỉ: ấp Long H, Long
K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.24. Chị Huỳnh Thị Ngọc H3, sinh năm 1978; địa chỉ: ấp Long H, Long
K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.25. Anh Phạm Văn C3, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp Long H, Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.26. Cháu Phạm Gia H4, sinh năm 2006; địa chỉ: p Long H, Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.27. Cháu Phạm Gia H5, sinh năm 2008; địa chỉ: ấp Long H, Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.28. Cháu Phạm Trường T6, sinh năm 2012; địa chỉ: ấp Long H, xã Long
K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp của Phạm Gia H4, Phạm Gia H5, Phạm Trường
T6 là anh Phạm Văn C3, sinh năm 1985, người đại diện theo pháp luật (cha ruột
của Gia H4, Gia H5, Gia T6).
3.29. Ông Bùi Văn P1, sinh năm 1971; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.30. Nguyễn Thị D1, sinh năm 1975; địa chỉ: ấp Long H, Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.31. Chị Bùi Thị Kim T7, sinh năm 1994; địa chỉ: ấp Long H, xã Long K
A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
4
3.32. Cháu Bùi Hữu T8, sinh ngày 16/9/2004; địa chỉ: ấp Long H, xã Long
K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp. Người đại diện hợp pháp của Bùi Hữu T8
ông Bùi Văn P1, sinh năm 1971, người đại diện theo pháp luật (cha ruột của T8).
3.33. Thị M2, sinh năm 1941; địa chỉ: ấp Long H, Long K A,
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
3.34. Ủy ban nhân dân huyện Hồng N; địa chỉ: khóm T 1, thị trấn Thường
Thới T, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
4. Người làm chứng:
4.1. Ông Nguyễn Văn H6, sinh năm 1969; Địa chỉ: Khóm X, phường An
T, thành phố Hồng N, tỉnh Đồng Tháp;
4.2. Lâm Thị Ngọc D2, sinh năm 1963; Địa chỉ: Khóm An T, phường
An L, thành phố Hồng N, tỉnh Đồng Tháp;
4.3. Bà Đỗ Thị N1, sinh năm 1965;
4.4. Bà Nguyễn Thị Kim H7, sinh năm 1969;
4.5. Bà Cao Thị T9, sinh năm 1962;
4.6. Ông Đỗ Văn D2, sinh năm 1969;
4.7. Ông Cao Phước H8, sinh năm 1949;
4.8. Ông Cao Phước H9, sinh năm 1963;
4.9. Bà Nguyễn Thị Thanh L2, sinh năm 1967;
4.10. Ông Bùi Văn Đ, sinh năm 1944;
4.11. Ông Cao Văn V, sinh năm 1968.
Cùng địa chỉ: ấp Long H, xã Long K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp.
(Nguyên đơn ông Đỗ Văn T, đại diện bị đơn ông Phạm Chí T1 mặt, n lại
tất cả người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan người làm chứng đều vắng mặt.)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 05 tháng 10 năm 2018, trong quá trình giải quyết
vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Đỗ Văn T trình bày:
Ông phần đất của cha mẹ để lại, được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng đất, số thửa 1781 1979, tờ bản đồ số 01, Long K A, huyện Hồng N,
tỉnh Đồng Tháp. Đất có chiều ngang 8,3m, dài từ đường lộ làng đến mí hồ. Năm
1999, ông cho Phòng T-K thuê đất để làm đường dẫn ra bến đò, hai bên làm
hợp đồng thuê đất 01 năm, giá thuê mỗi năm 3.000.000đ, chiều ngang 4m, dài từ
đầu lộ nền nhà Đỗ Thị D1 đến hồ, phía Đông giáp với đất của ông Cao
Phước V1 và ông Cao Phước H8, phía Tây giáp nền nhà Cao Thị S1 và đất còn
lại của ông 4,3m, phía Bắc giáp lộ làng, phía Nam giáp hồ. Trong thời gian thuê
5
đất, con đường là đất rẫy còn thấp, chỉ đi được mùa nắng, mùa mưa bị đọng nước
không đi được. Bà Lê Thị N2người đấu giá đò, lấy khối đất của ông nằm cặp
bên và khối đất thổ cư nằm phía sau nhà ông để đổ thành con lộ cho hành khách
đi, làm thiệt hại đất của ông không thể trồng hoa màu được.
Đến năm 2001, Phòng T-K không thuê đất nữa, ông H6 làm Phòng T-K,
nói rằng đất lộ bến đò bị chọn vào quy hoạch, Phòng T-K không thuê nữa, ông phải
giao đất lại cho nhà nước làm lộ công cộng. Nhàớc sẽ thu hồi đất và bồi thường
theo khung giá đã được quy định, nếu ông không chấp hành sẽ bị cưỡng chế. Ông
H6 ép ông nhận khung giá 24.000đ/m
2
cho hết diện tích đất của con l, ông H6 đo
chiều ngang 4m, chiều dài 257m, diện tích 1.028m
2
. Ông H6 i khung giá
24.000đ/m
2
là khung giá cao nhất trong các mức giá mà Nhà nước đã đưa ra. Ông
đến gặp D2 Trưởng Phòng T-K nói về sự chênh lệch khung giá bồi thường
và việc lấy khối đất của ông để đổ lên con lộ nên phải bồi thường cho ông.D2
trả lời với ông là tạm thời nhận tiền, sẽ đo mua luôn phần đất đã đào lấy khối đất
đổ n con lộ, nhưng do phần đất đó nhà quán của ông nên ông không bán.
Tháng 6/2001, ông đến Phòng T-K để nhận tiền bồi thường và Phòng T-K
kêu ông cam kết sau này ai tranh chấp phần đất này thì ông phải trả lại tiền bồi
thường cho Phòng T-K. Đến ngày 16/6/2001, Phòng T-K bồi thường cho ông với
giá tiền 1.028m
2
x 24.000đ/m
2
= 24.672.000đ, bằng một phiếu chi nội dung
nhận tiền đền , nhưng trong phiếu chi không thể hiện bồi thường theo Quyết
định hay Hợp đồng mua bán gì, ông tên vào phiếu chi nhận số tiền
24.672.000đ.
Sau khi nhận tiền xong, ông được biết đất lộ Bờ Đ thuộc Long T đối
diện bến của ông Chín T10 (không họ tên, năm sinh, địa chỉ) chiều ngang
4m, chiều dài khoảng 35m, Phòng T-K lại mua với giá 10.000.000đ như vậy giá
đất mua của ông Chín T10 hơn 71.000đ/m
2
gấp gần 03 lần giá đất bên ông. Ông
thấy sự chênh lệch giá nên vào năm 2001, ông khiếu nại đến ông H6 đại diện
Phòng T-K thời gian đó, việc khiếu nại chỉ đến trao đổi bằng lời nói, không
làm đơn khiếu nại, cũng không được trả lời bằng văn bản. Ông H6 trả lời miệng
là đã nhận tiền thì không được khiếu nại.
Đến tháng 3/2005, Phòng T-K cho thi công hết phần đất của ông để xây
con lộ lớn hơn và cao hơn, chiều ngang mặt trên ở thời điểm đó là trên 5m, chiều
ngang mặt dưới đất đổ chài ra hết đất của ông 8,3m. Ngoại trừ đoạn đường
nhà Cao Thị S1 3,8m chân lộ đoạn đó Phòng T-K cho thi công đổ sang
đất ông Cao Phước V1. Còn phần chiều cao con lộ thời điểm mới đổ đoạn
cao 1,2m, đoạn trũng thấp chiều cao 1,8m. Vì vậy, con lộ mới đổ đã dính hết
diện tích phần đất n lại của ông dính đất của ông Cao Phước V1. Phần đất
nền quán của ông không còn chỗ cất nên phải cắt chia nhà quán ra làm đôi và dời
sang hai bên trên chân lộ của Phòng T-K đã đổ ông phải đắp bao cát để nâng
cao thêm mặt bằng mới cất được nền nhà quán. Ông yêu cầu Phòng T-K đã sử
dụng đất của ông thì phải trả tiền thuê nhưng Phòng T-K không đồng ý và trả lời
6
như văn bản ngày 25/5/2012, nội dung là “Hội đồng đấu giá pqua đò huyện xét
thấy phần đất thừa của hộ ông T hội đồng không có nhu cầu sử dụng từ trước khi
mua làm đường dẫn ra bến đò đến nay, do đó Hội đồng không nhu cầu thuê
hoặc mua phần đất còn lại của ông T, ông tự quản lý sử dụng đất của mình đúng
quy định luật đất đai”.
Đến ngày 08/5/2017, Phòng T-K cho thi công hạ thấp bãi chùi, cho máy
giới đào cuốc cặp nền nhà quán của ông gây nguy cơ sạt lở nhà. Ông tiếp tục
khiếu nại yêu cầu cho đình chỉ thi công khi đất còn đang tranh chấp nhưng
công trình vẫn thi công làm hậu quả sạt lở nhà quán của ông như sơ đồ vẽ ở hình
A3 và hình chụp 2, 3, 4 (ông có đính kèm theo).
Ông vẫn đưa đơn khiếu nại tiếp tục, ông được văn bản trả lời của Ủy ban
nhân dân huyện Hồng N ngày 28/5/2018, nội dung văn bản trả lời đề nghị ông T
yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Vì các việc trên ông T yêu cầu:
- Tuyên bố việc mua bán đất giữa ông và Phòng T-K vô hiệu và giải quyết
hậu quả hiệu: Để sự việc trở về vị trí ban đầu, ông trả lại Phòng T-K số tiền
24.672.000đ Phòng T-K trả lại 1.028m
2
đất cho ông. Ông sẽ cho Phòng T-K
mượn số đất mặt bằng chiều ngang 04m, chiều dài 275m, diện tích 1.095m
2
nằm
về một bên như hiện trạng lúc ban đầu năm 1999 mới mở lộ bến, tứ cận: Bắc
giáp lộ làng, Nam giáp đường hồ sông, Đông giáp đất ông Cao Phước V1 và đất
ông Cao Phước H8, Tây giáp đất còn lại của ông chiều ngang 4,3m và đất nền nhà
Cao Thị S1, để làm con lộ công cộng cho mọi người đi chung. Khi nào mặt
bằng này Phòng T-K không còn sử dụng làm con lộ bến đò công cộng nữa thì phải
hoàn đủ mặt bằng đất này lại cho ông.
- Phòng T-K bồi thường thiệt hại tài sản do đã sử dụng đất làm con lộ dẫn
ra bến đò nên không canh tác hoa màu được chiều ngang 4,3m, chiều dài 212m,
diện tích 911,6m
2
, thuộc thửa 1781 1979, tờ bản đồ số 01, Long K A, số
tiền 152.000.000đ. Đất này mỗi năm ông trồng được 04 vụ bắp, mỗi vụ thu hoạch
khoảng 4.000.000đ x 4 vụ = 16.000. 000đ. Chi phí mỗi vụ 2.000.000đ x 4 v=
8.000.000đ trừ chi phí mỗi năm còn lãi 8.000.000đ, từ ngày 01/01/2001 cho đến
ngày 25/3/2019 hơn 19 năm. Như vậy, tài sản bị thiệt hại 8.000.000đ x 19
năm = 152.000.000đ.
- Yêu cầu Phòng T-K bồi thường thiệt hại 86.000.000đ tiền công sửa chữa
nền quán của ông bị sạt lở (diện tích 107,5m
2
x 800.000đ/m
2
= 86.000.000đ).
- Phòng T-K đã cho thi công đổ thêm con lộ dẫn bến đò vào tháng 3 năm
2005 cho thi công hạ thấp bãi chùi lài ngày 11/5/2017 làm chạm đến đất nền
nhà quán của ông gây thiệt hại nhà cửa, buôn bán lợi nhuận bị giảm sút, yêu cầu
Phòng T-K phải trả lại nền nhà quán như cũ và nằm về một bên, bồi thường thiệt
hại cho mỗi ngày kinh doanh 20.000đ. Tính thời gian bắt đầu tháng 3 năm
7
2005 cho đến tháng 3 năm 2019 14 năm số tiền bồi thường 365 ngày x 14
năm x 20.000đ/ngày = 102.200.000đ.
Kèm bảng chiết nh của nhà quán kinh doanh giai đoạn năm 1999 đến năm
2005 tầm khoảng trung bình của các mặt hàng đã bán được trong 01 ngày như sau:
phê đá 40 ly x 01 ly = 4.000đ. (Vốn 01 ly =2.500đ, lãi 1.500đ). Tổng
lãi cà phê: 40 ly x 1.500đ = 60.000đ.
Trà đường, đá chanh 80 ly, mỗi ly bán 3.000đ (Vốn 01 ly 1.500,đ lãi
1.500đ). Tổng lãi trà đường, đá chanh 80 ly x 1.500đ = 120.000đ.
Trà đá, đá lạnh 60 ly, mỗi ly bán 1.000đ (Vốn 01 ly 300đ, lãi 01 ly 700đ).
Tổng lãi trà đá, đá lạnh 60 ly x 700đ = 42.000đ
Nước ngọt các loại bán mỗi ngày được 15 chai, lãi 01 chai 1.500đ, tổng lãi
nước ngọt 15 chai x 1.500đ = 22.500đ.
Lãi bánh kẹo, mì gói, thuốc hút tầm khoảng 30.000đ.
Tổng lãi các mặt hàng đã bán trong 01 ngày là: 60.000đ + 120.000đ +
42.000đ + 22.500đ + 30.000đ = 274.500đ.
Mặt bằng nhà quán không còn địa thế kinh doanh được nữa do Phòng T-K
hai lần cho thi công con lộ dẫn đến gia đình ông không mua bán được. Ông yêu
cầu bồi thường tiền kinh doanh quán nước trong thời gian Phòng T-K sử dụng nền
quán của ông làm ông không kinh doanh quán nước bị thất thu mỗi ngày
20.000đ/ngày là: 365 ngày x 14 năm x 20.000đ/ngày = 102.200.000đ.
Đại diện bị đơn ông Phạm Chí T1, trình bày: Từ năm 1999 đến năm 2000,
Phòng T-K (Thường trực Hội đồng đấu giá pqua đò) thỏa thuận thuê đất của
ông T để làm đường ra bến đò Long Khánh Long T với giá 3.000.000đ/1 năm,
phần tiền thuê đất 02 năm là 6.000.000đ (ông T đã nhận tiền đủ, có nêu trong đơn
khởi kiện). Đến tháng 6/2001, Phòng T-K tiếp tục thỏa thuận mua diện tích đất
của ông T ngang 4m x dài 257m = 1.028m
2
với giá 24.000đ/m
2
, tổng số tiền
24.672.000đ, vtrí đất như thế nào, giáp ai anh không biết, hai bên có đo đạc thực
tế không anh cũng không biết, những cán bộ làm việc lúc đó nay đã chuyển
công tác nơi khác. Anh sẽ thu thập thông tin tại thời điểm mua đất ở vị trí nào có
nêu rõ con lộ nằm một bên hay ở đoạn giữa như hiện trạng hay không sẽ gửi văn
bản cho Tòa án. Khi ông T nhận tiền không khiếu nại. Phần diện tích đất còn lại
mỗi bên ngang 2m ra bến đò, bà D1 chị ông T quản lý và sử dụng, Phòng T-K và
Kế hoạch không sử dụng diện tích đất này. Ngày 26/6/2012, ông T bắt đầu khiếu
nại Phòng T-K, đề nghị Phòng T-K thuê phần đất còn lại của ông mỗi bên 2m với
số tiền 5.000.000đ/năm, do Phòng T-K sử dụng đất từ năm 2005 - 2012, Phòng
T-K ng văn trả lời cho ông T Hội đồng đấu gphí qua đò không sử
dụng phần đất này từ năm 2005 nên không có nhu cầu thuê đất.
Năm 2017, ông T tiếp tục khiếu nại Phòng T-K với nội dung là yêu cầu trả
tiền thuê đất làm đường dẫn xuống bến đò Long K A qua Long T, thời gian thuê
8
từ ngày 01/01/2001 đến ngày 16/6/2001 cho ông 1.500.000đ. Sau đó, Thanh tra
huyện Hồng N đã làm việc với ông T, ông T thống nhất không khiếu nại đối với
thời gian thuê đất từ ngày 01/01/2001 đến ngày 16/6/2001. Đến năm 2018, ông T
khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt
hại tài sản 152.000.000đ do không canh tác hoa màu được của ông T, Phòng T-
K cũng không thống nhất vì Phòng T-K không gây thiệt hại, phần đất còn lại của
ông T, Phòng T-K không quản lý, sử dụng. Đối với yêu cầu bồi thường tiền
kinh doanh quán nước trong thời gian Phòng T-K sử dụng nền quán của ông T
làm ông T không kinh doanh quán nước bị thất thu mỗi ngày 20.000đ/ngày là:
365 ngày x 14 năm x 20.000đ/ngày = 102.200.00, thì Phòng T-K không thống
nhất, ông T vẫn kinh doanh mua bán trên phần đất còn lại của ông, việc thất
thu này không liên quan đến Phòng T-K, Phòng T-K chỉ thi công con lộ dẫn ra
bến đò, không làm ảnh hưởng gì đến việc kinh doanh của ông T.
Nay ông T khởi kiện Phòng T-K yêu cầu với những nội dung nêu trên. Ông
đại diện cho Phòng T-K không thống nhất toàn bộ yêu cầu của ông T việc mua
bán đất để làm con lộ ông T đã nhận tiền, không khiếu nại và con lộ đã được thi
công sử dụng từ năm 2005 cho đến nay.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Dương n B trình bày: Ông
không họ hàng gì với ông T, ch hàng xóm. Nhà ông giáp với đường dẫn ra
bến đò Bờ Đ. Khoảng năm 2016, gia đình ông về p Long H cất nhà trên đất của
ông Bảy V1. Khi ông về đây thì đã đường dẫn ra bến đò như hiện nay. Việc ông
T mua n đất để làm bến đò với Phòng T-K như thế nào, vị trí nào ông không biết.
Mái hiên nhà của ông cónh vào phần đất đang tranh chấp giữa ông T với Phòng
T-K ông không tranh chấp, không yêu cầu định giá đối với i hiên, nếu a
án giải quyết đất thược về phần ai yêu cầu ông tháo dỡ thì ông sẽ tháo dỡ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm ThB2 trình bày: Bà có họ
hàng xa với ông T, nhà của giáp với đường dẫn ra bến đò Bờ Đ. Khoảng năm
2005-2006, gia đình bà về ấp Long H cất nhà trên đất của ông Bảy V1. Khi bà về
đây cất nhà thì con đường dẫn này đang đổ đất để làm đường đal. Việc ông T mua
bán đất để làm bến đò với Phòng T-K như thế nào, vị trí nào không biết. Mái
hiên nhà cây mít của có dính vào phần đất đang tranh chấp giữa ông T với
Phòng T-K bà không có tranh chấp, không yêu cầu định giá đối với i hiên, nếu
a án giải quyết đất thược về phần ai u cầu tháo dỡ thì sẽ tháo dỡ i
hiên chặt đốn cây mít.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Cao Thị S1, trình bày: cháu
họ hàng xa với ông T, bà gọi ông T chú. Cách đây khoảng 29 năm (năm bà 39
tuổi), có về ấp Long H đối diện nhà ông T hỏi mua đất của ông T để cất nhà.
Ông T có diện tích đất ngang 8,3m, chiều dài từ mí đường làng chạy xuống sông.
hỏi mua phần đất ngang 05m, dài 20m, nhưng ông T chbán ngang 04m, dài
20m, phần còn lại chừa choD1 chị ông T cất nhà. Khi bà về đây ở thì chưa
bến đò, chỉ đất rẫy. Khoảng 03 năm sau thì vợ ông T kêu tháo dsàn nước
9
cặp ch nhà bà, phía bên phải phía Nam nđã n làm bến đò ngang 04m.
Lúc này chỉ là đường đất. Đến năm bà 49 tuổi thì có công trình làm đường dẫn ra
bến đò, đổ đất xây đường đal như hiện nay. nấu m thcho công trình làm
đường. Vị trí đường dẫn ra bến đò lúc còn đường đất đến khi làm đường đal y
như hiện nay, không có thay đổi vị trí chỉ có tôn tạo từ đường đất lên đường đal.
Đất bà đã cất nhà ở ổn định lâu dài, không có dính với đất tranh chấp giữa ông T
với Phòng T-K. không có tranh chấp với nguyên đơn, bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Cao ThD trình y: h
hàng xa với ông T. Nhà bà giáp ranh với đường dẫn ra bến đò Bờ Đ. Khoảng năm
2004-2005, gia đình bà về ấp Long H cất nhà trên đất của ông Bảy V1. Khi bà về
đây cất nhà thì con đường dẫn này đang đổ đất để làm đường đal. Việc ông T mua
bán đất để làm bến đò với Phòng T-K như thế nào, vị trí nào không biết. Mái
hiên nhà có dính vào phần đất đang tranh chấp giữa ông T với Phòng T-K bà
không tranh chấp, không yêu cầu định giá đối với mái hn, nếu Tòa án giải
quyết đất thuộc về phần ai có yêu cầu bà tháo dỡ thì bà sẽ tháo dỡ mái hiên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chDương Thị Thu H1 trình bày:
Chị không có họ hàng gì với ông T. Nhà của chị giáp với đường dẫn ra bến đò Bờ
Đ. Khoảng năm 2003 chị về đây cất nhà trên đất của ông Bảy V1. Khi về đây thì
đã có đường dẫn ra bến đò như hiện nay. Việc ông T mua n đất để làm bến đò
với Phòng T-K như thế nào, vị trí nào chị không biết. Mái hiên nhà chị dính o
phần đất đang tranh chấp giữa ông T với Phòng T-K chị không có tranh chấp, không
yêu cầu định giá đối với mái hiên, nếu Tòa án giải quyết đất thuộc về phần ai
yêu cầu chị tháo dthì chị sẽ tháo dỡ mái hiên.
Người có quyền lợi, nghĩa vliên quan Lê ThM2 trình y: Bà không có
họ hàng với ông T, bên gia đình chồng hng với ông T. là vợ của ông
Cao Phước V1, nhà giáp với đường dẫn ra bến đò Bờ Đ. về ấp Long H ở từ
trước m 1975, lúc y đất của ông T đất rẫy, sau đó m đường dẫn ra bến đò
Bờ Đ. Ban đầu là đường đất, một thời gian t tu bổ lên đường đal, vị trí đường đất
c trước và đường đal hiện nay không thay đổi. Khoảng năm 2015, thì ra ngoài
cất nhà cặp với nhà con bà là Caon V, phần nhà của bà có hàng rào có dính vào
phần đất đang tranh chấp giữa ông T với Phòng T-K không tranh chấp, không
u cầu định giáng rào, nếu Tòa án giải quyết đất thuộc về phn ai có yêu cầu bà
tháo dỡ thì sẽ tháo dỡ hàng o. Việc ông T mua n đất để m bến đò với Phòng
T-K như thế o, vị trí nào bà không biết. Hiện nay bà đã lớn tuổi nên yêu cầu vắng
mặt tại các phn hòa giải, phn họp, phiên a của Tòa án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Thị Ngọc H3 trình y: Chị
không có họ hàng gì với ông T, chỉ là hàng xóm. Nhà của chị giáp với đường dẫn
ra bến đò Bờ Đ. Khoảng năm 2016, gia đình chị về ấp Long H cất nhà trên đất của
ông Bảy V1 (Cao Phước V1). Khi về đây thì đã có con đường dẫn ra bến đò như
hiện nay. Việc ông T mua bán đất để làm bến đò với Phòng T-K như thế nào, vị trí
nào chị không biết. i hiên nhà chdính vào phần đất đang tranh chấp giữa
10
ông T với Phòng T-K chị không tranh chấp, kng yêu cầu định giá đối với i
hiên, nếu Tòa án giải quyết đất thuộc về phần ai có yêu cầu chị tháo dỡ thì chị sẽ
tháo dỡ mái hiên.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn P1 trình bày: Ông không
có họ hàngvới ông T, chỉ là hàng xóm. Nhà ông giáp với đường dẫn ra bến đò
Bờ Đ. Khoảng năm 2005, gia đình ông về ấp Long H cất nhà cặp lộ dẫn ra bến đò
Bờ Đ. Khi ông về đây thì đã đường dẫn ra bến đò như hiện nay. Việc ông T mua
bán đất để làm bến đò với Phòng T-K như thế nào, vị trí nào ông không biết. Hàng
rào mái hiên nhà ông dính vào phần đất đang tranh chấp giữa ông T với Phòng
T-K, ông không có tranh chấp, không yêu cầu định giá đối với hàng rào, mái hiên,
nếu Tòa án giải quyết đất về phần ai có yêu cầu ông tháo dỡ thì ông stháo dỡ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn C2 tnh bày: Ông
không họ hàng hay tranh chấp với nguyên đơn, bị đơn, ông ng xóm với ông
T. Nhà ông giáp với đất ông T đang tranh chấp. Trước năm 2005 thì nhà ông cách
đây khoảng 300m, đến năm 2005 thì ông về đây cất ncho đến nay. Khi ông về
đây cất nhà thì con đường dẫn ra bến đò như hiện nay. Đất ông cất nhà là mua của
ông Cao Phước V1, hiện chưa sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn
gốc, vị trí con đường dẫn ra bến đò nthế nào ông không . Mái hiên nhà của
ông dính vào phần đất đang tranh chấp giữa ông T với Png T-K ông không có
tranh chấp, không u cầu định giá đối với mái hiên, nếu Tòa án giải quyết đất
thược về phần ai yêu cầu ông tháo dỡ thì ông stháo dỡ.
Người có quyền lợi, nghĩa vliên quan ông Cao Phước H9 trình bày: Ông
chồng bà Nguyễn Thị Thanh L2. Vợ chồng ông buônn cà p ở hai bên bến đò
Bờ Đ. Ông không họng gì với ông T, chỉ ở chung xóm. Ông buôn n ở bến
đò khoảng 03 năm nay, khi ông đến thuê thì hiện trạng đất và hai trại quán đã như
hiện nay. Ông biết về nguồn gốc con đường dẫn ra bến đò. Vào khoảng năm
1999, Nhà nước có đến thuê phần đất của ông T để làm đường dẫn ra bến đò, con
đường thời điểm đó nằm phía Đông con đường hiện nay, chiều ngang
khoảng 02m, dính một nửa con đường hiện nay, chiều dài từ từ lộ làng đến sông,
con đường thời điểm đó chỉ đường đất thấp n con đường hiện nay, khi trời
a là bị ngập úng. Nhà nước có cho bà ThN2 đấu gđưa đò, bà N2thuê
người múc đất ngay nhà ông T đổ lên đường đất cho cao lên chống ngập úng.
Khoảng 04-05 năm sau, thì nhà nước đổ đất làm lại đường đal như hiện nay và sử
dụng cho đến bây giờ.c cây trồng như chuối,n... trồng hai bên đường đal của
ông trồng, ông không tranh chấp, không yêu cầu định giá. Nếu sau này Tòa án giải
quyết đất thuộc về ai thì ông sẽ chặt bỏ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thanh L2 trình bày:
vợ ông Cao Phước H9, cháu ông T, không mâu thuẫn với hai n
tranh chấp. Hai nền quán hai bên bến đò sử dụng để buôn bán, bà chỉ buôn bán
nhưng quán thì do bà Đỗ Thị D1 cất sẵn cho bà thuê, cây cối hai bên bến đò là do
trồng,không có tranh chấp hay yêu cầu định giá. Nếu Tòa án giải quyết giao
11
đất cho ai thì sẽ đốn, di dời cây trồng. Còn hai quán do D1 quyết định. Hiện
nay bến đò đã không còn hoạt động, hai nền quán của bà D1, bà D1 đã tháo dỡ đi
nơi khác, các cây trồng hai bên lộ ông H9 trồng thì cũng đã chặt đốn đi
hết,không có tranh chấp hay yêu cầu gì.
Người làm chứng ông Bùi Văn Đ trình bày: Ông không họ hàng hay mâu
thuẫn gì với hai n tranh chp. Phần đất giáp ranh với đất ông T là của ông Phan
Bảo X cho ông thuê để làm rẫy từ năm 1978 cho đến nay. Khoảng tháng 9/2018,
ông X, ông T thống nhất ranh đất chôn trụ đá sự chứng kiến của ông. Ông
không có tranh chấp gì với ông T, ông X. Ông sử dụng phần đất này từ năm 1978
nên ông biết. Lúc trước từ đất của ông canh tác tới đường lộ đất cách một i hố,
cái hố chiều ngang dài bao nhiêu ông không nhớ. Con đường lúc đó là đường đất,
a ngập úng, sau này có người đấu đò lại thuê con đường đó khoảng 02 năm thì
ông thấy có sửa sang đường lớnn và sử dụng cho đến bây giờ.
Người làm chứng ông Đỗ Văn D2 tnh bày: Ông có họ hàng với ông T, gọi
ông T chú. Từ trước đến nay ông chưa từng tên giấy tờ của ông T. Việc
mua bán đất giữa ông T với Phòng T-K ông không biết gì. Con đường dẫn ra bến
đò Bờ Đ từ lúc còn đường đất đến khi xây thành đường đal thì vị trí đề nằm ở giữa
như hiện trạng hiện nay.
Người làm chứng Lâm Ngọc D2 trình y: Trước đây m việc
Phòng T-K, bà làm trong ban lãnh đạo của phòng T-K, giai đoạn 2001-2005. Đến
năm 2005, không còn làm Phòng T-K nữa. Khoảng thời gian những năm 2000,
Phòng T-K thcác bến đò để khai thác lệ phí qua đò, trong đó bến đò Bờ Đ,
giá bao nhiêu thìkhông nhớ. Thuê được một thời gian thì có quy hoạch của Ủy
ban nhan dân huyện về các bến đò ngang nên Phòng T-K tiến hành bồi thường g
đất cho các hộ đất nằm trong các bến đò. Việc thu hồi, bồi thường đất cho ông
T như thế nào thì bà không nhớ vì thời gian quá lâu. Các thủ tục như thu hồi, bồi
thường thì bộ phận phụ trách về mảng này thực hiện lưu giữ. Giá bồi thường
ông T trình bày 24.000đ/m
2
tại thời điểm đó là cao chứ không có ép giá. Còn đối
với đất bên bờ Long T thể giá cao hơn do bên kia là mặt đường lộ còn bên bến
Long K A là đất rẫy nên giá thấp hơn. Vic ông T trình bày có đến gặp bà để nói
về sự chênh lệch khung giá bồi thường việc trả lời với ông T tạm thời nhận
tiềni thường và sẽ đo luôn phần đất đã đào lấy đất đổ lên con lộ là không đúng.
Việc ông T đến gặp kng thì không nhớ. Nội dung ông T trình bày
không đúng nếu đến thì trao đổi đồng ý với giá bồi thường hay không, chứ
Phòng T-K không thể nào i tạm thời nhận tiền được. Theo biết khi thu hồi đất
bồi thường tiền thì quy hoạch của Ủy ban nhân dân huyện Hồng N, Phòng T-
K t hạch, lập kế hoạch đến đo đạc, thẩm định trình y ban phê duyệt mới tiến
hành bồi thường. Ông T đã nhận tiền đồng ý cho làm bến đò thì Phòng T-K mới
tiến hành được.
Người làm chứng ông Nguyễn Văn H6 trìnhy: Ông làm việc tại Phòng T-
K tm 1987 đến năm 2003. Ông phụ trách mảng ng nợ kế toán thanh tra
12
ngành. Vào khoảng m 1999, do nhu cầu đi lại của người n n Ủy ban nhân dân
huyện chỉ đạo Png T-K và c ngành liên quan đi khảo sát m địa điểm thuận lợi
để mbến đò, trong đó bến đò Bờ Đ. Qua khảot tcó chọn phần đất của ông
Đỗ Văn T mở bến đò Bờ Đ (xã Long K A qua Long T). Ban đầu m 1999-2000,
thì th đất của ông T, giá thuê không nhớ, đến năm 2001, Ủy ban nhân dân huyện
chủ trương m bến đò kiên cố nên Phòng T-K và các Phòng liên quan khảo sát
lập phương án đền đối vi phần đất của ông T đy dựng bến đò kiên cố,
trình cấp thẩm quyền p duyệt. Ông T thống nhất với giá đền bù và cam kết giao
đất cho chính quyền địa phương làm bến đò. Giá đền tại thời điểm y
24.000đ/m
2
là cao hơn giá của Ủy ban nhân n tỉnh quy định, đồng thời cao n giá
sang nhượng thực tế tại khu vực y thời điểm đó. Phòng T-K có lập hồ sơ,
phương án đền theo đúng quy định. Nhưng o m 2009 chủ trương ch
huyện thị xã, h đền bù cho ông T thuộc huyện Hồng N nên huyện Hồng N
quản lý. Ông T trình bày Png T-K ép ông bán đất ép giá kng đúng sự thật,
giá đền đất do ông T đưa ra thống nhất với giá, đã nhận n Phòng T-K mới
tiến hành lập pơng án đền bù đúng quy định và Ủy ban nhânn huyện giao cho
đơn vị thi công tiến hành xây dng bến đò theo quy trình để phục vngười dân.
Người làm chứng Đỗ Thị N1 trình bày: Bà có con chú bác ruột với ông
T, không có mâu thuẫn với ông T. sống gần phần đất ông T đang tranh
chấp. Không nhớ ngày tháng năm, ông T đến cho tên o tờ xác nhận,
nhưng bà kí với nội dung đất tông chi thống nhất để lại cho ông T. Bà không biết
về việc mua bán đất giữa ông T với Phòng T-K. Con đường dẫn ra bến đò BĐ
thấy từ lúc còn là đường đất đến khi xây thành đường đal thì nằm y vị trí ở giữa
như hiện trạng hiện nay.
Người làm chứng Nguyễn ThKim H7 trình bày: là vợ của ông K, chồng
bà có họ hàng xa với ông T. Gia đình bà không có mâu thuẫn gì với ông T. Chồng
không tên vào giấy tờ của ông T. Gia đình ng không biết về việc
muan đất giữa ông T với Phòng T-K.
Người làm chứng Cao Thị T9 trình bày: họ hàng xa với ông T,
không mâu thuẫn với ông T. gần phần đất tranh chấp. Từ trước đến nay
đều sinh sống ấp Long H, Long K A. Ông T từng đem tờ xác nhận ngày
04/5/2017 cho bà kí tên. Bà kí với nội dung là ở gần và biết con đường dẫn ra bến
đò Bờ Đ. biết con đường này từ lúc n đường đất cho đến lúc xây thành
đường đal thì nằm y vị trí như hiện trạng hiện nay. Việc mua bán đất giữa ông T
với Phòng T-K thì không biết. Ông Cao Thùy N3 là em ruột sống cùng hộ với
bà. Ông N3 cũng tên cũng kí tên vào tờ xác nhận với nội dung con đường dẫn
ra bến đò Bờ Đ.
Người làm chứng Cao Phước H8 trình y: Ông họ ng xa với ông T,
ôngu ông T anh, ông không có mâu thuẫn gì với ông T. Ngày 04/5/2017, ông
T đem tờ xác nhận đến gặp ông nhờ ông tên ông giáp ranh với phần đất của
ông T bán cho Phòng T-K làm đường dẫn ra bến đò. Nội dung chỉ ký tứ cận. Con
13
đường dẫn ra bến đò theo ông biết từ lúc làm đường đến hiện tại vị trí ở giữa, ông
T bán cho Phòng T-K 4m để làm đường ở doạn giữa chừa lại mỗi bên 02m, những
người ở xóm đều biết việc ông T bán đất ở đon giữa.
Người làm chứng Đỗ Văn D2 trình bày: Ông con chú bác ruột với ông
T, ông không có mâu thuẫn với ông T. Từ trước đến nay ông chưa từng tên
vào giấy tờ gì của ông T. Việc mua bán đất giữa ông T với Phòng T-K ông không
biết hết. Con đường dẫn ra bến đò Bờ Đ thì từ lúcn là đường đất đến khi xây
thành đường đal đều nằm vị trí ở giữa như hiện trạng hiện nay.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây viết
tắt BLTTDS). Về nội dung ván, đề nghị: Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện
của ông T đã rút. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về tuyên bố hợp
đồng hiệu. Về xử hậu quả hợp đồng hiệu: Công nhận sự tự nguyện
của ông T trả lại Phòng T-K 50.000.000đ; Phòng T-K trả lại quyền sử dụng
1.008,1m
2
đất cho ông T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đây vụ án tranh chấp về hợp đồng dân sự chuyển
nhượng quyền sử dụng đất bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị xâm
phạm thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, theo quy
định tại các khoản 3 và 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều
39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan người làm chứng đã
được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt, không
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, không yêu cầu độc lập, không
đơn đnghị xét xử vắng mặt, người làm chứng đã lời khai với Tòa án; việc
vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết khách
quan, toàn diện của vụ án, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại
khoản 2 Điều 227 và khoản 2 Điều 229 của BLTTDS.
[3] Tại phiên tòa, ông Đỗ Văn T rút lại yêu cầu khởi kiện đối với toàn bộ yêu
cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản bị xâm phạm. Hội đồng xét xử
xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của ông T là tự nguyện, nên Hội đồng
xét xử chấp nhận và đình chxét xử phần yêu cầu này là phù hợp với quy định tại
Điều 5, khoản 2 Điều 244 của BLTTDS.
[4] Tại phiên tòa, ông T1 có yêu cầu phản tố, yêu cầu ông T phải trlại phần
chi phí tôn nền cho Phòng T-K. Tuy nhiên, ông T1 không tính được thành số tiền
14
cụ thể và yêu cầu phản tố này mới được đưa ra tại phiên tòa, sau khi Tòa án đã mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Khoản
3 Điều 200 của BLTTDS quy định: “Bị đơn quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước
thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
hòa giải.”. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận đgiải quyết trong cùng vụ
án, bị đơn có quyền khởi kiện ván khác theo quy định tại khoản 6 Điều 72 của
BLTTDS.
[5] V ni dung tranh chấp:
[6] Tại phiên tòa, ngày 03 tháng 6 năm 2022, ông T và ông T1 đã thỏa thuận:
Hợp đồng hiệu, Phòng T-K trả lại cho ông Đỗ Văn T phần diện tích đất 1.028m
2
làm đường dẫn xuống bến đò, ông Đỗ Văn T trả lại số tiền đã nhận 24.672.000đ.
Tuy nhiên, ông T1 yêu cầu ông T phải trả lại phần chi phí tôn nền cho Phòng T-K
và đề nghị được hỏi lại ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện Hồng N. Theo đề nghị
của Kiểm sát viên Hội đồng xét xử chấp nhận tạm ngừng phiên tòa để xác minh,
thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ.
[7] Tại phiên tòa ngày 16 tháng 6 năm 2022, ông T1 đề nghị tính số tiền ông
T đã nhận 24.672.00 vào thời điểm ngày 16/6/2001 quy ra vàng, rồi lấy số vàng
đó tính lại giá trị thị trường hiện nay để buộc ông T trả lại cho Phòng T-K; vẫn giữ
yêu cầu ông T phải trả lại phần chi phí tôn nền cho Phòng T-K. Ông T1 chưa cung
cấp được giá vàng vào ngày 16/6/2001, cũng như số tiền cụ thể chi phí tôn nên để
ông T trả lại. Ông T tự nguyện trả lại Phòng T-K số tiền 50.000.000đ, để được nhận
lại quyền sử dụng đất, còn chi phí tôn nền ông T không chấp nhận.
[8] Xét, việc thỏa thuận giữa ông T và ông T1 về tuyên bố hợp đồng dân sự
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Phiếu chi ngày 16 tháng 6 năm 2001, giữa
ông Đỗ Văn T với Phòng T-K huyện Hồng N hiệu. Phòng T-K trả lại quyền sử
dụng đất cho ông Đỗ Văn T (Hiện nay, đã Bến phà mới gần đó thuận tiện hơn.);
ông Đỗ Văn T trả lại số tiền đã nhận cho Phòng T-K phù hợp với quy định tại
Điều 5 BLTTDS, các Điều 117, 120, 131 và khoản 1 Điều 407 của Bộ luật Dân sự,
Điều 188 của Luật Đất đai nên công nhận.
[9] Điều 131 Bộ luật Dân sự quy định: “Hậu quả pháp lý của giao dịch dân
sự vô hiệu
1. Giao dch dân s hiu không làm phát sinh, thay đi, chm dt quyn,
nghĩa v dân s ca các bên k t thi đim giao dch được xác lp.
2. Khi giao dch dân s hiu thì các bên khôi phc li tình trng ban
đu, hoàn tr cho nhau nhng gì đã nhn.
[10] Do đó, t việc ông T1 đại diện cho Phòng T-K yêu cầu ông T phải trả
lại số tiền quy ra vàng là chưa có căn cứ. Ông T đã nhận tiền của Phòng T-K để sử
dụng, nhưng cũng đồng thời giao lại quyền sử dụng đất của mình cho Phòng T-K sử
dụng để khai thác làm đường dẫn xuống phà chứ ông T không được sử dụng đất, cho
nên cả hai bên đều sử dụng tài sản của nhau. Do đó, khi giao dch dân shiu
15
thì các bên khôi phc li tình trng ban đu, hoàn tr cho nhau nhng gì đã nhn
là phù hợp. Tuy nhiên, do ông T tự nguyện trả lại Phòng T-K số tiền 50.000.00,
nhiều hơn số tiền đã nhận, không trái quy định của luật n công nhận.
[11] Đối với các hộ có nhà lấn qua phần đất tranh chấp thì buộc phải di dời.
Riêng hộ bà Cao Thị S1 ông Đỗ n T tự nguyện không yêu cầu, không tranh chấp
nên không đề cập đến.
[12] Xét ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên là có căn cứ nên chấp nhận.
[13] Về chi phí xem xét thẩm định và định giá tài sản: Ông T đã tạm ứng chi
phí 2.000.000đ đã chi xong, ông thống nhất tự nguyện chịu hết.
[14] Về án phí: Căn cứ vào các Điều 144 và 147 BLTTDS, điểm đ khoản 1
Điều 12, khoản 6 Điều 15, khoản 4 và 8 Điều 26, khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án để xử theo quy định. Ông T người cao tuổi đơn xin miễn tiền
tạm ứng án phí, án phí nên chấp nhận cho được miễn tiền án phí. Phòng T-K phải
chịu 300.000đ án phí đối với phần nghĩa vụ phải thực hiện giao quyền sử dụng đất
lại cho ông T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 5, 26, 35, 39, 72, 144, 147, 157, 200, 227, 229, 244
của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 117, 120, 131, 407, 500, 501, 502 503
của Bộ luật Dân sự; Điều 188 của Luật Đất đai; các Điều 12, 26 27 của Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của nguyên đơn Đỗ Văn T đã rút
về việc yêu cầu Phòng T-K huyện Hồng N bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
do tài sản bị xâm phạm, gồm: Thiệt hại tài sản do đã sử dụng đất làm con lộ dẫn
ra bến đò nên không canh tác hoa màu được, số tiền 152.000.000đ; tiền công sửa
chữa nền quán, số tiền 86.000.000đ; buôn bán lợi nhuận bị giảm sút, số tiền
102.200.000đ.
2. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tuyên bố hợp đồng dân sự
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Phiếu chi ngày 16 tháng 6 năm 2001, giữa
ông Đỗ Văn T với Phòng T-K huyện Hồng N vô hiệu.
3. Công nhận sự tự nguyện của ông Đỗ Văn T trả lại Phòng T-K huyện
Hồng N số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).
16
4. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Phòng T-K huyện Hồng N
trả lại ông Đỗ Văn T phần đất diện tích 1.008,1m
2
, trong phạm vi các mốc M7,
M8, M13, M14 trở về M7, thuộc một phần thửa 1979 1980, tờ bản đồ số 1,
(tương ứng với thửa 607 tờ bản đồ số 5 và thửa 91 tờ bản đồ số 20 theo hệ thống
bản đồ địa chính chính quy) xã Long K A, huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp (Theo
đồ đo đạc hiện trạng đất tranh chấp số TĐ12-2021 ngày 17 tháng 12 năm 2021
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Hồng N).
5. Buộc các hộ Dương Văn B (gồm Dương Văn B, Phạm Thị T2, Dương
Thị Q, Dương Văn P), hộ Phạm Thị B2 (gồm Phạm Thị B2, Nguyễn Văn M,
Nguyễn Chí T3, Nguyễn Chí H2, Nguyễn Thị T4, Nguyễn Kim L1, Nguyễn
Ngọc M1), hộ Cao Thị D Văn B1, hộ Phạm Văn C1 (gồm Phạm Văn C1,
Dương Thị Thu H1, Phạm Thị Hồng N), hộ ông Nguyễn Văn C2 và bà Trần Thị
Mộng T5, hPhạm Văn C3 (gồm Phạm Văn C3, Huỳnh Thị Ngọc H3, Phạm Gia
H4, Phạm Gia H5, Phạm Trường T6), hộ Bùi Văn P1 (gồm Bùi Văn P1, Nguyễn
Thị D1, Bùi Thị Kim T7, Bùi Hữu T8) di dời toàn bộ tài sản (mái che, hàng rào,
cây cối...) ra khỏi phạm vi phần đất nêu trên.
6. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Đỗ Văn T
tự nguyện chịu 2.000.000đ, đã nộp chi xong.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm:
7.1. Phòng T-K huyện Hồng N chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
7.2. Ông Đỗ Văn T được miễn án phí.
8. Hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi
hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sthì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án
được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
9. V quyền kháng cáo: Các đương sự quyền làm đơn kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/6/2022); đối với đương sự không có mặt tại
phiên tòa hoặc không mặt khi tuyên án do chính đáng thì thời hạn
kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- Viện kiểm sát cùng cấp;
- Lưu hồ sơ vụ án, Văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Nông Phú
Tải về
Bản án số 31/2022/DS-ST Bản án số 31/2022/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất