Bản án số 30/2024/HNGĐ-ST ngày 20/08/2024 của TAND huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 30/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 30/2024/HNGĐ-ST ngày 20/08/2024 của TAND huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tuần Giáo (TAND tỉnh Điện Biên)
Số hiệu: 30/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Dân xin ly hôn với anh nghiến và đề nghị giải quyết việc nuôi dưỡng con chung
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TUẦN GIÁO
TỈNH ĐIỆN BIÊN
Bản án số: 30/2024/HNGĐ-ST
Ngày 20-8-2024
"V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con
khi ly hôn"
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Đình Hà
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Bạc Thị Hồng
Bà Lê Thị Thanh Thùy
- Thư phiên tòa: Đinh Thị Thúy Hằng, Thư Tòa án nhân dân huyện
Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo tham gia phiên tòa:
Ông Hoàng Đức Thái - Kiểm sát viên.
Ngày 20/8/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ số: 96/2024/TLST-HNGĐ ngày 11/7/2024 về:
“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
36/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày 31/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo
giữa:
Nguyên đơn: Chị Thị D, sinh năm 1990
Địa chỉ thường trú: Bản H, xã Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên, có đơn xin xét xử
vắng mặt.
Bị đơn: Anh Lò Văn N, sinh năm 1986.
Địa chỉ: Bản N, Q, huyện T, tỉnh Điện Biên, hiện anh N đang chấp hành
quyết định áp dụng biện pháp xử hành chính đưa vào sở giáo dục T1, huyện B,
tỉnh Vĩnh Phúc, anh N có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 01/7/2024, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt
nguyên đơn chị Lò Thị D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị anh Văn N qua tự nguyện tìm hiểu đã chung
sống như vợ chồng từ năm 2011 được gia đình hai bên tổ chức đám cưới theo phong
tục tập quán địa phương. Đến ngày 20/01/2014 mới tiến tiến hành đăng ký kết hôn tại
Ủy ban nhân dân xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên. Chị D, anh N chung sống hạnh phúc
được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh N không tu chí làm
ăn, không quan tâm đến gia đình, vợ con nghiện ma túy. Hai anh chị đã làm biên
bản thỏa thuận ly hôn sống ly thân với nhau từ ngày 10/10/2017. Sau khi ly thân
chị D mới được biết vào năm 2022 anh N bị áp dụng biện pháp xử hành chính đưa
vào sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 22/4/2023 chấp hành xong. Đến ngày
2
28/02/2024 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào sở giáo dục bắt buộc tại sở giáo dục T1, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Từ
khi sống ly thân đến nay không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy tình cảm vợ
chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết
cho chị được ly hôn với anh Lò Văn N.
Về con chung: Quá trình chung sống anh chị 02 con chung: Cháu Thanh
T, sinh ngày 08/9/2012 Thị Bảo Y, sinh ngày 22/10/2015. Hiện hai cháu đang
với chị tại bản Huổi Hỏm, Ẳ, huyện M, tỉnh Điện Biên. Khi ly hôn, chị
nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục hai cháu đến khi thành
niên và có khả năng lao động, chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.
Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: ChD
khai không có.
Sau khi thụ vụ án vào ngày 11/7/2024, Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo,
tỉnh Điện Biên đã gửi công văn số 16/CV-TA ngày 11/7/2024, đề nghị sở giáo
dục T1, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc tống đạt thông báo thụ vụ án, các tài liệu chứng
cứ liên quan, các văn bản ttụng và hướng dẫn anh N viết bản tự khai hoặc lấy lời
khai trong trường hợp anh N không biết chữ và các thủ tục tố tụng khác. Tại biên bản
lấy lời khai ngày 18/7/2024 xác nhận của sở sở giáo dục T1, huyện B, tỉnh
Vĩnh Phúc, anh N thừa nhận về quan hệ hôn nhân đăng ký kết hôn, thừa nhận v
nguyên nhân mâu thuẫn do anh N sử dụng ma túy anh chị đã ly thân. Anh đồng ý
ly hôn.
Về con chung: Anh thừa nhận hai con chung như chị D trình bày, anh nhất
trí giao hai con chung cho chị D nuôi dưỡng, anh đang chấp hành quyết định đưa vào
cơ sở giáo dục nên không có điều kiện cấp dưỡng nuôi con chung.
Về quan hệ tài sn: Anh N cũng thừa nhận không có như lời khai chị D.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ ngày
30/7/2024 chị D vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, bản tự khai.
Anh N đã đơn xin vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công
khai chứng cứ hòa giải nên nên việc hòa giải không tiến hành được. Tòa án đã lập
biên bản về việc không tiến hành hòa giải được. Cùng ngày 30/7/2024 chị D đơn
đề nghị không tiến hành hòa giải, đnghị Tòa án xem xét giải quyết vụ án theo quy
định của pháp luật.
Ngày 20/8/2024, Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo mphiên tòa xét xử theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày 31/7/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo. Chị D, anh N đều có đơn xin xét xử vắng mặt.
Tại đơn xin t xử vắng mặt, chị D vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn
khởi kiện, bản tự khai đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị theo quy định của pháp
luật. Tại đơn xin xét xử vắng mặt xác nhận của của sở giáo dục T1, huyện B,
tỉnh Vĩnh Phúc, anh N có quan điểm như biên bản lấy lời khai đã gửi cho Tòa án.
Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền trình
tự thủ tục Thẩm phán, Thư Tòa án Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy
định của pháp luật Tố tụng Dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho nguyên
đơn chị Thị D được ly hôn với bị đơn anh Văn N theo Điều 51, khoản 1 Điều
56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung: Căn cứ Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn
nhân gia đình: Giao hai cháu Lò Thanh T, sinh ngày 08/9/2012 và Lò Thị Bảo Y, sinh
3
ngày 22/10/2015 cho chị Lò Thị D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên.
Chị Lò Thị D không yêu cầu anh Lò Văn N cấp dưỡng nuôi con chung.
Về quan hệ tài sản: Không có
Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự Đ đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí lệ
phí Tòa án: Chị Thị D người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế
hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí, đơn xin miễn án phí, đnghị
HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò Thị D.
Về kiến nghị: Ngày 20/7/2024, Toà án tiếp nhận Biên bản lấy lời khai của đương sự
ngày 18/7/2024 do cán bộ của sở giáo dục T1, huyện B, tỉnh Vĩnh phúc lấy lời
khai của anh N không đảm bảo theo đúng quy định tại Điều 98 Bộ Luật TTDS.
Việc Toà án sử dụng tài liệu chứng cứ nêu trên trong việc giải quyết vụ án là vi phạm
khoản 5 Điều 95 Bộ Luật TTDS.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn
cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo địa chỉ của các đương
sự, Tòa án xác định đây vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân n huyện Tuần Giáo theo khoản 1 Điều 28,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.
[2]. Về pháp luật áp dụng đgiải quyết vụ án: ChThị D anh Văn N
lấy nhau đăng kết hôn vào ngày 20/01/2014. Đến thời điểm giải quyết, Luật
hôn nhân gia đình năm 2014 đang hiệu lực, do vậy a án sẽ áp dụng các quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.
[3]. Việc xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn: ChThị D anh Văn
N đều đơn xin xét xử vắng mặt: XX căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều
228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
Quá trình giải quyết, do anh N đang chấp hành quyết định áp dụng biện pháp
xử hành chính đưa vào sgiáo dục bắt buộc tại sở giáo dục T1, huyện B,
tỉnh Vĩnh Phúc nên không thể có mặt tại Tòa án để tham gia hòa giải, anh có đơn xin
vắng mặt, chị D cũng đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, vụ án thuộc trường
hợp không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 Bộ Luật tố tụng dân sự.
[4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lò Thị D và anh Lò Văn N lấy nhau có đăng ký
kết hôn nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp.
Xét về nguyên nhân mâu thuẫn và yêu cầu xin ly hôn của chị Lò Thị D, HĐXX
xét thấy: Qua lời khai của chị D, sự thừa nhận của anh N, qua quá trình Tòa án thu
thập chứng cứ xác minh tình trạng hôn nhân tại bản Nong Liếng, Q, cũng khẳng
định về quá trình chung sống của anh chị nguyên nhân mâu thuẫn như các bên
trình bày. Chị D anh N đã sống ly thân tnăm 2017, không còn quan tâm đến
nhau nữa. Anh N cũng nhất trí ly hôn.
Hội đồng xét xử xét thấy: Mục đích hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu
chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân của anh chđã
trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị D xin ly hôn với anh N, anh
N nhất trí cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
4
[5] Xét nguyện vọng về con chung của chị D và anh N: Nguyện vọng của chị
D là được nuôi hai con chung, hiện hai cháu đều đang ở với chị.
Hội đồng xét xử xét thấy: Anh N đang chấp hành chấp hành quyết định đưa
vào sở giáo dục nên không điều kiện nuôi dưỡng nuôi con chung, anh cũng
nhất trí giao hai con cho chị D nuôi dưỡng. Ý kiến của cháu T cháu Y đều
nguyện vọng được ở với mẹ. Do vậy việc giao hai con chung cho chị D nuôi dưỡng là
phù hợp theo pháp luật, đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của các cháu.
HĐXX căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân gia đình quyết định: Giao hai cháu
Lò Thanh T, sinh ngày 08/9/2012 và Thị Bảo Y, sinh ngày 22/10/2015 cho chị
Thị D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên. Chấp nhận viêc chị D không
yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.
[6]. Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về:
Chị Lò Thị D và anh Lò Văn N không có.
[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí lệ phí Tòa án: Chị Thị D người n tộc thiểu số sống tại địa bàn kinh tế
hội đặc biệt khó khăn thuộc diện được miễn án phí, đơn xin miễn án phí,
HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò Thị D.
[8]. Đối với kiến nghị của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử, xét thấy:
Cơ sở giáo dục T1 đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo Công văn đề nghị của Tòa án.
Anh Văn N người không biết chữ, không thể tự mình viết bản tkhai, đã được
cán bộ sở giáo dục T1 ghi lời trình bày vào ngày 18/7/2024 đầy đủ các nội
dung trả lời ý kiến của nguyên đơn, điểm chỉ của anh N, xác nhận của sở
giáo dục T1 (BL 35). Biên bản này là văn bản ghi nhận sự kiện, là hành vi pháp lý do
người chức năng lập, phù hợp với quy định tại khoản 8 Điều 94 Bộ luật tố tụng
dân sự về nguồn chứng cứ. Biên bản này chứng cứ có thật theo Điều 93 Bộ luật Tố
tụng dân sự. Biên bản này phù hợp với quy định tại khoản 1 khoản 5 Điều 95 Bộ
luật tố tụng dân svề xác định chứng cứ. (Lời khai của bị đơn được ghi bằng văn
bản, do quan tổ chức thẩm quyền cung cấp) Hơn nữa biên bản ngày 18/7/2024
này phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ ván (Đơn đề nghị xin vắng
mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải
của anh N (BL 36), đơn xin xét xử vắng mặt của anh N (BL 37), các tài liệu chứng cứ
khác trong hồ vụ án (Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân (BL 44..). Từ những
phân tích trên, việc Thẩm phán không tiến hành lấy lời khai mà sử dụng biên bản lấy
lời khai ngày 18/7/2024 một trong những chứng cứ để giải quyết vụ án phù hợp
theo quy định của pháp luật, không những không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự việc tiếp nhận sử dụng tài liệu chứng cứ trên còn giúp Tòa
án đẩy nhanh tiến độ giải quyết ván đúng pháp luật, giúp cho đương sự tiết kiệm
được các chi phí tố tụng thể phát sinh khi Tòa án tiến hành lấy lời khai đương sự
tại sở giáo dục T1. Do vậy việc: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng Tòa án vi phạm
khoản 5 Điều 95 Điều 98 Bộ luật Ttụng dân sự nkiến nghị nêu trên không
đúng theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
5
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 271 và Điều 273 Bộ Luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân gia đình:
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho nguyên đơn chị Thị D được ly
hôn với bị đơn anh Lò Văn N.
2. Về con chung: Giao hai cháu Thanh T, sinh ngày 08/9/2012 Thị
Bảo Y, sinh ngày 22/10/2015 cho chị Thị D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến
khi thành niên khả năng lao động. Chị Thị D không yêu cầu anh Văn N
cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm nom con
không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để
cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con t
người trực tiếp nuôi con quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của
người đó.
Trong trường hợp yêu cầu của cha, mẹ hoặc nhân, tổ chức quy định tại
khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân gia đình, Tòa án thể thay đổi người trực tiếp
nuôi con.
3. Về quan hệ tài sản: Tài sản chung, tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Chị
D, anh N không có.
4. Về án phí dân sự thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự Đ đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò Thị D.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Thị D bị đơn anh Văn N được
quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể tngày nhận được Bản án hoặc Bản
án được niêm yết./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Điện Biên;
- VKSND huyện Tuần Giáo;
- Chi cục THADS huyện TG;
- UBND xã Quài Nưa;
- Các đương sự;
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN T
Lê Đình Hà
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẢM
THÀNH VIÊN HĐXX THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
6
Bạc Thị Hồng Lê Thị Thanh Thùy
Lê Đình
7
8
9
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẢM
THÀNH VIÊN HĐXX THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
10
Lý A Thu Lò Thị Thiêm
Lê Đình
11
12
13
14
15
16
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẢM
THÀNH VIÊN HĐXX THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bạc Thị Kiên Lò Văn Ơn
Lê Đình Hà
Kể từ ngày Bản án hiệu lực pháp luật người được thi hành án đơn yêu
cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền trên thì còn phải
trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh
toán theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3.1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu của anh
Anh Dương Xuân L có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại yêu
cầu trên theo quy định của pháp luật.
17
{6} Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Ông Nguyễn Xuân V đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ lần thứ 2 vẫn vắng mặt không do nên căn cứ điểm b khoản 2
Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân Sự, HĐXX vẫn tiến hành xét xử
vắng mặt ông Nguyễn Xuân V. Ngân hàng N1 - Chi nhánh huyện Đ đơn xin giải
quyết vắng mặt, HĐXX n cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt.
Về sự vắng mặt của người làm chứng: Phiên tòa ngày 27 28/12/2018 chỉ
anh D1, chị L1, chị L mặt. Ông Bùi Quang M, anh L2, anh Y1, ông Văn K,
anh Phạm Văn K1 vắng mặt.Xét thấy sự vắng mặt của những người làm chứng trên
không ảnh hưởng đến việc xét xử, họ đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, HĐXX tiếp tục
giải quyết theo thủ tục chung (Bỏ)
Khoản 2 Điều 71; Điều 72; Điều 218, khoản 2 Điều 219, Điều 273 khoản 2
Điều 244; khoản 2 Điều 157; Điều 158; khoản 2 Điều 165; Điều 166 BLTTDS năm
2015;
Căn cứ Điều 8 Luật hôn nhân gia đình năm 1986;
Căn cứ Điều 27 và Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
Căn cứ các Điều: Điều 27; Điều 37; khoản 1 Điều 56; Điều 59; Điều 62; Điều
81; Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 2 Điều 13, khoản 2 Điều 176 BLDS năm 1995, khoản 1 Điều 2
Luật đất đai năm 1993; Điều 166, 167, 170 và Điều 179 Luật đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT - TANDTC - VKSNDTC -
BTP của Tòa án nhân dân Tối Cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối Cao, Bộ pháp
ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật HNGĐ năm 2014;
Căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a, b, e khoản 5 Điều 27 Nghị
quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí lệ
phí Tòa án.
18
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
HỘI THẨM
Bạc Thị Kiên
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Đình Hà
HỘI THẨM
Lò Văn Thƣơng
19
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Điện Biên;
- VKSND huyện Điện Biên;
- Chi cục THADS huyện Điện Biên;
- Các đương sự;
- Lưu HS, DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN T
Lê Đình Hà
20
- Ý kiến ông Tân C: Đối với hồ cấp đất năm 2001 cho hộ ông Vương Q
Khương văn phòng không hồ sơ lưu. Đối với việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất năm 2013 cho anh Vương n K2 là do hợp thửa 314 và 327, không thể
hiện số diện tích mua của anh Văn Y2, bởi đất anh Lò Văn Y2 là đất lúa (Đưa vào
phần nhận định)
Người làm chứng: Văn Y2, Lò Văn L3, Ông Hà Văn K, anh Phạm Văn K1
đều xác nhận cam đoan tại bản tự khai việc mua bán chuyển nhượng viết tay
với ông Vương Quốc H về thời gian bán, số tiền mua bán chuyển nhượng và diện tích
mua bán như lời khai của anh K2 ông H, việc mua bán đã hoàn thành, đất trên đã
làm thủ tục đăng quyền sử dụng đất mang tên anh K2, đều không ý kiến
khác.
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án, đơn đề nghị, ý kiến của anh
Vương Văn K2, chị Nguyễn Thị V1, Tòa án quyết định đưa ông Vương Quốc H -
Ngô Thị M1, Chi nhánh Văn Phòng đăng đất đai huyện Đ, ông Nguyễn Xuân V,
Ngân hàng N1 - Chi nhánh huyện Đ, phòng giao dịch Ngân hàng chính sách hội
huyện Đ, anh Phạm Văn Đ1, chị Bùi Thị Thúy V2 với cách là người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan. Đưa ông Văn K, anh Phạm Văn K1, anh Văn L3, Văn
Y2, anh Vương Quốc Đ2, anh Vương Minh D2, chị Vương Thị L4, chị Vương Thị
Kim L5 và ông Bùi Quang M với tư cách là người làm chứng trong vụ án
Đối với diện tích đất ông H khai: Được chia năm 1995 1.000m
2
, mua của ông
Hà Văn K 500m
2
, mua của ông Phạm Văn K1 500m
2
, khai phá thêm 205 m
2
. Khi cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001 2000m
2
. Sau đó anh K2 bán cho
ông H1 112m
2
, bán cho H2 110m
2
. Mua lại của ông L3 ( anh trai ông Y2
600m
2
. Thực tế diện tích đất hiện đã trao đổi mua bán khai pthêm 2000m
2
222m
2
+ 600m
2
+ 205 m
2
= 2.583 m
2
, lớn hơn so với diện tích đất hiện có là 2.205m
2
Chị V2 cũng khai: ông H cho 1000
2
, mua lại của ông Hùng1000m
2
. Sau đó anh
chị bán cho ông H1 112m
2
, bán cho H2 110m
2
. Mua lại của Văn L3 (ông Y2
600 m
2
. Thực tế diện tích đất hiện đã trao đổi mua bán là 2000 m
2
- 222m
2
+ 600 m
2
=
2.378 m
2
lớn hơn so với diện tích đất hiện có sau khi cấp đổi sổ là 2.205m
2
21
Diện tích đất đang chênh lệch này ông H anh K2 cho rằng phần khai phá
thêm 205 m
2
đất thuộc hàng lang suối liền kề thửa đất nên không thể hiện trong
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn phần mua thêm 600 m
2
của Văn L3 (Lò
Văn Y2) thì khi mua cả hai không tiến hành đo đạc. Còn thủ tục chuyển nhượng từ
ông Văn L3 sang tên anh K2 do anh L3 trách nhiệm làm thủ tục chuyển
nhượng, cthể diện tích đo đạc thế nào và hợp đồng ra sao cả hai không năm được,
sau này anh ông H mới biết thực tế diện tích chuyển nhượng theo đo đạc của địa
chính 556 m
2
chứ không phải 600 m
2
khi hai bên viết giấy chuyển nhượng tay với
nhau không có sự chứng thực của cơ quan thẩm quyền. Nhưng năm 2013 khi cấp
đổi sổ, địa chính đã đo vẽ lại nên chỉ diện tích đất như hiện tại. Do anh K2 không
hợp tác trong việc thẩm định tại chỗ lần 2 lần 3 nên không n cứ để xác định
diện tích đất thực tế hiện so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Tuy
nhiên cả hai anh chị và ông H đều khẳng định khi xin cấp đổi GCNQSDĐ cán bộ địa
chính đã đo vẽ lại đúng diện tích đất đang sử dụng đúng với kết quả đo đạc thẩm
định tại chỗ lần 1 của Tòa án. Anh, chị không mua, bán hay khai phá thêm nên đây là
chứng cứ không cần chứng minh.
22
Tải về
Bản án số 30/2024/HNGĐ-ST Bản án số 30/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 30/2024/HNGĐ-ST Bản án số 30/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất