Bản án số 29/2025/HNGĐ-ST ngày 15/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 29/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 29/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 29/2025/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 29/2025/HNGĐ-ST ngày 15/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 4 - Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang |
| Số hiệu: | 29/2025/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 15/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | O p |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 4 - T
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Pc
Bản án số: 29/2025/HNGĐ-ST
Ngày 15/9/2025
V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản, công nợ khi ly hôn.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 4 - TUYÊN QUANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Bình
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Triệu Minh Tư
2. Ông Hứa Văn Chế
- Thư ký phiên tòa: Bà Tống Thị Nghĩa - Thư ký viên Tòa án nhân dân khu
vực 4 - Tuyên Quang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 4 - Tuyên Quang tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09/9/2025 và ngày 15 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân khu vực 4 - Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia
đình, thụ lý số: 79/2025/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2025 về việc: "Ly
hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản, công nợ khi ly hôn" theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 10/2025/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2025, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Đặng Quốc P; CCCD: 002071003606; do Cục Cảnh sát
Quản lý hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an cấp ngày 09/5/2021. (Có mặt).
- Bị đơn: Bà Mã Kim D; CCCD: 002171004461 do Cục Cảnh sát Quản lý
ngày hành chính về trật tự xã hội - Bộ Công an cấp ngày 28/11/2023. (Có mặt)
Cùng địa chỉ: SN 377a, đường N, tổ 10 phường H 1, tỉnh Tuyên Quang.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Cụ Đặng Phúc H; địa chỉ: SN 377a, đường N, tổ 10 phường H 1, tỉnh
Tuyên Quang;
2. Ông Đặng Quốc Th; địa chỉ: SN 377, đường N, tổ 10 phường H 1, tỉnh
Tuyên Quang;
2
3. Ông Đặng G; địa chỉ: Tổ 06 Trần P, phường H 2, tỉnh Tuyên Quang;
4. Bà Đặng Thị Q; địa chỉ: SN 272, đường N, phường G, TP Hồ Chí Minh;
5. Ông Đặng Dân C; địa chỉ: SN 2567/1a, khu phố 1, đường A 09, phường
A, TP Hồ Chí Minh;
6. Ông Đặng Quang H; địa chỉ: SN 42, đường P, tổ 04 Q, phường H 2, tỉnh
Tuyên Quang.
7. Bà Đặng Thị Thương H; địa chỉ: Tổ dân phố B, phường V, tỉnh Phú Thọ.
(Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có đơn xin vắng mặt).
NỘI D VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 24/5/2025; bản tự khai ngày 16/6/2025; trong
quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Đặng Quốc P, trình
bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà D kết hôn ngày 13/4/1999, đăng ký kết
hôn tại UBND Thị trấn T, huyện Q, tỉnh H (Cũ), trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết
hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh Phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu
thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, chung sống không hòa hợp,
thường xuyên cãi chửi nhau, gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết
quả. Từ năm 2017 đến nay ông và bà D đã sống ly thân, không quan tâm đến cuộc
sống của nhau. Do cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng,
không thể khắc phục được nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn
với bà D.
- Về con chung: Ông và bà D có 02 con chung là cháu Đặng Vũ P, sinh ngày
30/10/2007 và cháu Đặng Hà P1, sinh ngày 24/10/2001. Ly hôn ông P đề nghị ông
là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đặng Vũ P, không yêu cầu bà D cấp
dưỡng nuôi con. Cháu P1 đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Tài sản chung: Ông và bà D có tài sản chung là 01 ngôi nhà xây 04 tầng tại
địa chỉ: SN 377a, đường N, tổ 10, phường N, thành phố H, tỉnh H (cũ), nay là
phường H 1, tỉnh Tuyên Quang. Ngôi nhà được xây dựng vào năm 2012 bằng
nguồn tiền chung của ông và bà D, ngôi nhà được xây dựng trên diện tích đất của
cụ Đặng Pc H và cụ bà Bùi Thị T là bố mẹ của đẻ ông (cụ T đã chết, năm 2022),
diện tích đất hiện nay vẫn thuộc quyền sở hữu của cụ H. Theo kết quả định giá tài
sản ngày 21/8/2025, xác định được giá trị ngôi nhà là 1.876.503.996đ (Một tỷ tám
trăm bảy mươi sáu triệu năm trăm linh ba nghìn chín trăm chín mươi sáu đồng).
Quan điểm của ông P khi ly hôn mỗi người hưởng ½ giá trị ngôi nhà. Do ngôi nhà
chung được xây dựng trên đất của cụ H và cụ T, là nơi thờ cúng chung của gia
đình, dòng họ nên ông P đề nghị được sử dụng ngôi nhà và thanh toán tiền chênh
lệch giá trị ngôi nhà cho bà D là 938.251.998đ (Chín trăm ba mươi tám triệu hai
3
trăm năm mươi mốt nghìn chín trăm chín mươi sáu đồng). Ông P đề nghị đối trừ
vào số tiền ông đã phải trả nợ thay cho bà D là 600.000.000đ, do bà D vay nợ riêng
trước khi ông nộp đơn ly hôn. Như vậy, số tiền còn lại ông P sẽ thanh toán cho bà
D là 338.251.998 (Ba trăm ba mươi tám triệu hai trăm năm mươi mốt nghìn chín
trăm chín mươi tám đồng).
- Công nợ chung: Không có.
* Theo bản tự khai ngày 20/6/2025; trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa
bị đơn bà Mã Kim D trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà D xác nhận thời gian địa điểm kết hôn và quá
trình vợ chồng chung sống như ông P trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng
bà chung sống hạnh Pc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên
nhân do sau khi xây dựng ngôi nhà địa chỉ tại tổ 10, phường N, thành phố H xong,
do phát sinh chi phí quá lớn nên bà không thể trả được, ông P cũng không hỗ trợ bà
trong việc trả nợ, kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn nên ông, bà bắt đầu mâu
thuẫn và sống ly thân. Do tình cảm vợ chồng không còn bà D nhất trí ly hôn với
ông P.
- Về con chung: Bà D xác nhận bà và ông P có hai con chung như ông P
khai là đúng. Ly hôn bà xin là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đặng Vũ
P, không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con. Cháu P1 đã trưởng thành không yêu
cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Bà D xác nhận bà và ông P có tài sản chung là 01 ngôi
nhà xây 04 tầng tại địa chỉ: SN 377a, đường N, tổ 10, phường N, thành phố H, tỉnh
H (cũ), nay là phường H 1, tỉnh Tuyên Quang và thời gian xây dựng ngôi nhà như
ông P trình bày là đúng. Ngôi nhà được xây dựng trên diện tích đất của bố mẹ đẻ
ông P
(Cụ H và cụ T). Bà không đề nghị chia giá trị diện tích đất của ngôi nhà, vì đó là
đất của cụ H (bố chồng) chưa cHển quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà. Bà D nhất
trí với ý kiến của ông P về việc chia đôi giá trị ngôi nhà, bà lấy ½ giá trị bằng tiền
là 938.251.998đ (Chín trăm ba mươi tám triệu hai trăm năm mươi mốt nghìn chín
trăm chín mươi tám đồng), và để cho ông P sử dụng nhà.
Bà D không nhất trí với ý kiến của ông P về việc đối trừ số tiền
600.000.000đ ông P đã trả nợ thay bà. Vì lý do, khi làm nhà bà đã phải vay lãi cao
của anh, chị, em nhà ông P và trong cuộc sống do ông P không đưa tiền sinh hoạt
cho bà để nuôi các con nên bà đã phải đi vay nợ và nhận xin chạy việc cho người
khác để kiếm tiền sinh sống. Lẽ ra với khoản thu nhập của ông P mỗi năm ông P
phải đưa cho bà khoảng 100.000.000đ để nuôi con nhưng ông P không đưa. Do
vậy, số tiền 600.000.000đ, ông P trả nợ thay cho khoản nợ riêng của bà, bà D xác
định đấy là số tiền ông P phải đưa cho bà trong các năm chung sống cùng ông P
nên bà không đồng ý việc đối trừ khoản tiền ông P đã trả nợ vào số tiền giá trị ngôi
4
nhà bà được hưởng. Bà D yêu cầu ông P phải thanh toán đủ cho bà số tiền
938.251.998đ một lần vào tài khoản cá nhân của bà hoặc của cơ quan thi hành án.
- Công nợ chung: Bà D trình bày bà và ông P có vay của bà Đặng Thị Q (chị
gái ông P) số tiền 800.000.000đ để xây dựng ngôi nhà, hiện nay đã trả hết. Hiện
nay bà còn nợ số tiền 100.000.000đ, vay bằng thế chấp lương tại ngân hàng
Viettinbank. Bà D không yêu cầu ông P phải trả số nợ này, bà tự trả cho ngân
hàng.
- Đối với khoản tiền bà nợ của bà Hền số tiền 600.000.000đ, là tiền bà nợ
riêng, số tiền này ông P đã cho bà tiền để trả nợ cho bà Hền xong.
* Ngày 07/7/2025, bà D có đơn yêu cầu phản tố về việc chia tài sản chung
của vợ chồng và công sức đóng góp cụ thể: Bà D đề nghị ông P phải trả cho bà D
giá trị 03 mảnh đất do ông bà mua được trong thời kỳ hôn nhân, sau đó đã bán đi
để lấy tiền xây dựng ngôi nhà chung của vợ chồng vào năm 2012 là
1.000.000.000đ (Một tỉ đồng). Đồng thời bà D đề nghị ông P phải trả khoản tiền
công cho việc bà phải ở chung với gia đình nhà chồng, chăm sóc ông bà, bố mẹ
chồng từ khi kết hôn với ông P cho đến nay với số tiền 300.000.000đ (Ba trăm
triệu đồng). Tổng số tiền bà D yêu cầu ông P phải trả cho bà là 1.300.000.000đ
(Một tỉ ba trăm triệu đồng).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Cụ Đặng Phúc H trình bày: Diện tích đất thửa đất số 09, tờ bản đồ số 18,
diện tích 128.0m
2
, loại đất ở đã được UBND tỉnh H cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số T 876936 ngày 05/10/2001 mang tên hộ ông Đặng Pc H; địa chỉ thửa
đất tại tổ 10, phường N, thành phố H là tài sản của vợ chồng cụ (Cụ H, cụ T) Toàn
bộ gia đình cụ đều sinh sống trên diện tích đất trên cho đến khi các con trưởng
thành lập gia đình, do ông P là con trai út nên ở cùng cụ. Năm 2012, cụ đồng ý cho
vợ chồng ông P, bà D xây 01 ngôi nhà trên phần diện tích đất của cụ, nhưng cụ
chưa cHển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông P. Diện tích đất trên vẫn
thuộc quyền sở hữu của cụ H, cụ T (Cụ T đã chết năm 2022). Ngôi nhà hiện cụ
đang ở (Phía trước ngôi nhà ông P, bà D) là của vợ chồng cụ H xây từ trước khi
bà D về làm dâu. Đối với ngôi nhà riêng của vợ chồng ông P (Phía sau nhà cụ) xây
từ năm 2012, cụ H, cụ T không có đóng góp gì. Nay ông P bà D ly hôn, tranh chấp
tài sản chung của ông P, bà D, cụ H không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định pháp luât.
- Các con đẻ của cụ H, cụ T: Các ông Đặng Quốc Th, Đặng G, Đặng Dân C,
bà Đặng Thị Qúy đều xác nhận cụ H và cụ T có diện tích đất thửa đất số 09, tờ bản
đồ số 18, diện tích 128.0m
2
, loại đất ở được cấp giấy chứng nhận QSDĐ số T
876936 ngày 05/10/2001 mang tên hộ ông Đặng Pc H; địa chỉ: Tổ 10 phường N,
thành phố H, tỉnh H là tài sản của cụ H, cụ T. Các ông, bà đều sinh sống trên mảnh
đất trên cho đến khi trưởng thành, lập gia đình, do ông P là con út nên ở cùng các
5
cụ. Năm 2012, vợ chồng ông P, bà D xây 01 ngôi nhà trên diện tích đất thuộc
quyền sở hữu của cụ H, T và ở đó cho đến nay. Các ông, bà không yêu cầu giải
quyết quyền lợi đối với thửa đất trên của cụ H. Đối với ngôi nhà của vợ chồng ông
P xây dựng năm 2012, các ông bà không có đóng góp, không có ý kiến gì. Đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định pháp luât.
- Anh Đặng Quang H, chị Đặng Thị Thanh Hền là các con đẻ của ông Đặng
Quang Hưng (ông Hưng là con đẻ của cụ H, cụ T, ông Hưng chết 1996) đều xác
nhận: Diện tích thửa đất số 09, tờ bản đồ số 18, diện tích 128.0m
2
, loại đất ở được
cấp giấy chứng nhận QSDĐ số T 876936 ngà 05/10/2001 mang tên hộ ông Đặng
Pc H là của cụ H, cụ T (là ông bà nội). Anh H và chị Hền không yêu cầu giải quyết
quyền lợi đối với thửa đất trên của cụ H. Đối với ngôi nhà của vợ chồng ông P xây
dựng năm 2012, anh H và chị Hền không có đóng góp và không có ý kiến gì. Đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Theo biên bản thẩm định ngày 21/7/2025, xác định được diện tích đất, nhà
tại địa chỉ 377a, đường N, tổ 10 phường H 1, tỉnh Tuyên Quang cụ thể:
1. Về đất:
Thửa đất số 09, tờ bản đồ số 18 diện tích đất 128,0m
2
, loại đất ở lâu dài có vị
trí phía Đông giáp đường N (QL2) rộng 3,9m; phía Tây giáp Núi cấm rộng 5.7m;
phía Nam giáp đất nhà ông Th dài 26m; phía Bắc gồm 03 đoạn giáp đất nhà ông
Đại đã được cấp GCNQSDĐ số T 876936 ngày 05/10/2001 mang tên hộ ông Đặng
Pc H; địa chỉ: Tổ 13, phường N, thành phố H, thị xã H, nay là tổ 10 phường H 1,
tỉnh Tuyên Quang, (Không có tranh chấp).
2. Về tài sản trên đất:
- 01 nhà xây 01 tầng đổ mái bằng diện tích phía Đông giáp đường N (QL2)
kích thước rộng 3.82m; chiều sâu phía Nam giáp nhà ông Th 8.6m; phía Tây giáp
nhà ông P, bà D 3.82m; phía Bắc giáp nhà ông Đại 8.6m. Tường xây gạch chỉ 220,
nền lát gạch men 40cmx40cm, tường sơn. Hệ thống điện chiếu sáng thông thường.
Gác xép lửng kích thước (3.82x8.6) m; trên lợp mái tôn, cột bê tông kết hợp cột
sắt, xà gồ vì kèo thép kích thước (3.82x8.6) m, xung quanh bịt khung inox, nền lát
gạch 40cmx40cm. Nhà của cụ Đặng Pc H, xây năm 1991 (không có tranh chấp).
- 01 nhà xây 04 tầng khung cứng chịu lực, tường 110, nền lát gach 80cm x
80cm và 60cm x60cm, tường sơn màu, hệ thống điện chiếu sáng thông thường đi
chìm. Khu nhà tắm, vệ sinh khép kín tự hoại, cầu thang lát đá, lan can gỗ. Kích
thước tầng 1,2,3: 4,7m x 21m. Tầng 4 phía trước xây dựng như tầng 3, kích thước:
4,7mx9m. Phía sau mái lợp tôn cột bê tông xung quanh bịt khung inox. Chiều rộng
ngôi nhà phía Đông giáp nhà cụ H rộng 4.7m; phía Nam giáp đất nhà ông Th dài
21m (Trong đó 17,4m nằm trong GCNQSDĐ số T 876936 mang tên hộ ông Đặng
Pc H; 3,6m nối tiếp xây dựng nằm ngoài GCNQSDĐ số T 876936 mang tên hộ
6
ông Đặng Pc H); Phía Tây giáp với phần đất ngoài GCNQSDĐ số T 876936 mang
tên hộ ông Đặng Pc H có chiều rộng 4,7m; phía Bắc giáp phần đất chưa xây dựng
giáp nhà ông Đại 17,4m. (Phần diện tích nhà xây ngoài GCNQSDĐ số T 876936
mang tên hộ ông Đặng Pc H có chiều rộng 4,7m và chiều dài 3,6m). Toàn bộ diện
tích ngôi nhà do ông P, bà D xây dựng năm 2012. (Có sơ đồ chi tiết kèm theo).
* Theo biên bản định giá ngày 21/8/2025, Hội đồng định giá phường H 1,
tỉnh Tuyên Quang đã xác định:
01 nhà xây 04 tầng khung cứng chịu lực, tường 110, nền lát gach 80cm x
80cm và 60cm x60cm, tường sơn màu, hệ thống điện chiếu sáng thông thường đi
chìm. Khu nhà tắm, vệ sinh khép kín tự hoại, cầu thang lát đá, lan can gỗ. Kích
thước tầng 1,2,3: 4,7m x 21m. Tầng 4 phía trước xây dựng như tầng 3, kích thước:
4,7mx9m. Phía sau mái lợp tôn cột bê tông xung quanh bịt khung inox. Tổng diện
tích 479,4m
2
, giá trị ngôi nhà sau khi trừ khấu hao là 1.876.503.996đ (Một tỷ tám
trăm bảy mươi sáu triệu năm trăm linh ba nghìn chín trăm chín mươi sáu đồng.
Quá trình giải quyết, Toà án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận công khai chứng cứ và hoà giải giữa các đương sự nhưng các đương sự không
thống nhất thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về quan hệ hôn nhân, nuôi con
chung, chia tài sản, đối trừ nghĩa vụ công nợ.
Bị đơn có ý kiến:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà D thay đổi ý kiến không trí ly hôn. Vì bà D cho
rằng nếu ông P không thanh toán đủ số tiền để sau ly hôn bà và các con sinh hoạt
trong cuộc sống, thì bà không đồng ý ly hôn.
- Về con chung: Bà D nhất trí với ý kiến của ông P về nuôi con chung.
- Về tài sản chung: Bà D bổ sung yêu cầu phản tố buộc ông P phải thanh
toán cho khoản bà tiền công sức lao động, tổn thất tinh thần, chi phí hàng tháng
trong quá trình hôn nhân, mỗi tháng 10.000.000đ trong thời gian 26 năm x
10.000.000đ/1 tháng = 3.120.000.000 đ (ba tỉ một trăm hai mươi triệu đồng).
* Ý kiến của ông P về yêu cầu phản tố của bà D: Ông P không đồng ý thanh
toán số tiền 1.300.000.000đ và khoản tiền 3.120.000.000đ theo yêu cầu của bà D.
Đại diện VKSND khu vực 4 - Tuyên Quang phát biểu ý kiến tại phiên toà:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Điều 48; Điều 239
Bộ luật tố tụng dân sự.
7
- Về thẩm quyền: TAND khu vực 4 - Tuyên Quang thụ lý giải quyết vụ án là
đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1
Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội D: Căn cứ Điều 8; Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986; Điều
29, Điều 33, Điều 43, Điều 45; khoản 1 Điều 51; Điều 55, Điều 57, Điều 59; Điều
81; Điều 82; Điều 83; Điều 131 Luật HNGĐ năm 2014; khoản 2 Điều 1 Luật số
85/2025/QH15 ngày 25/6/2025; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39; Điều 144, Điều 147, khoản 3 Điều 157; Điều 158; khoản 2 Điều 165;
Điều 166; Điều 266; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị
quyết 326 về án phí, lệ phí Tòa án,
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Quốc
P:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ông Đặng Quốc P được ly hôn với bà Mã
Kim D ly hôn.
2. Về con chung: Giao cho bà Mã Kim D là người trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục cháu Đặng Vũ P, sinh ngày 30/10/2007 cho đến khi cháu P đủ
18 tuổi. Ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu P theo mức 2.000.000đ/1 tháng.
Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 01/7/2025 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Bà D là
người trực tiếp nhận tiền cấp dưỡng. Ông P cùng có quyền, nghĩa vụ chăm sóc con
chung. Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là không cố định. Cháu Đặng Hà P1,
đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết.
3. Về tài sản chung:
- Giao cho ông P là người trực tiếp quản lý 01 ngôi nhà xây 04 tầng khung
cứng chịu lực tường 110, nền lát gạch (80 x80) cm và (60 x60) cm, tường sơn màu
hệ thống điện chiếu sáng thông thường đi chìm, khu nhà tắm vệ sinh khép kín tự
hoại; cầu thang lát đá, lan can gỗ, kích thước tầng 1,2,3: 4,7m x21m; tầng 4 phía
trước xây dựng như tầng 3, kích thước 4,7m x 9m; phía sau mái lợp tôn cột bê tông
xung quanh bịt khung inox. Chiều rộng ngôi nhà phía Đông giáp nhà cụ H rộng
4,7m; phía Nam giáp đất nhà ông Th dài 21m (trong đó 17,4 m nằm trong Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhà ông Đặng Pc H); phía Tây giáp với phần đất
ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T876936 có chiều rộng 4,7m; phía
Bắc giáp phần đất chưa xây dựng nhà ông Đại 17,4m và tạm giao phần diện tích
nhà xây dựng ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có chiều rộng 4,7m, chiều
dài 3,6m.
- Ông P có trách nhiệm thanh toán cho bà Mã Kim D ½ giá trị tài sản chung
là số tiền 938.251.998đ (Chín trăm ba mươi tám triệu hai trăm mười năm mươi
mốt nghìn chín trăm chín mươi tám đồng). Chấp nhận yêu cầu của ông P về việc
đối trừ vào số tiền ông P đã phải trả nợ thay cho bà D là 600.000.000đ. Như vậy,

8
số tiền còn lại ông P sẽ thanh toán cho bà D là 338.251.998đ (Ba trăm ba mươi tám
triệu hai trăm mười năm mươi mốt nghìn chín trăm chín mươi tám đồng).
4. Về án phí: Ông P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, án phí cấp dưỡng. Ông
P và bà D phải chịu án phí có giá nghạch tương ứng với phần tài sản mỗi người
được hưởng.
5. Về chi phí thẩm đinh tại chỗ, định giá tài sản: Do tài sản chung ông P và
bà D được hưởng ngang nhau. Nên ông P, Bà D mỗi người chịu ½ chi phí thẩm
định, định giá tài sản. Do ông P đã nộp tạm ứng chi phí nên bà D phải có trách
nhiệm trả cho ong P ½ số tiền tạm ứng chi phí thẩm định định giá theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại
phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thẩm quyền: Nguyên đơn ông Đặng Quốc P khởi kiện yêu cầu ly
hôn, tranh chấp nuôi con chung, chia tài sản chung, công nợ khi ly hôn với bà Mã
Thị Kim D; địa chỉ: SN 377ª N, tổ 10, phường N, thành phố H, tỉnh H (Nay là SN
377ª N, tổ 10 phường H 1, tỉnh Tuyên Quang). Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a
khoản 1, Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 4
Nghị quyết 81/2025/UBTVQH15 ngày 27/6/2025 và điều 5, 6 Nghị quyết
01/2025/NQ-HĐTP ngày 27/6/2025. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân khu vực 4 - Tuyên Quang.
[2]. Về quan hệ tranh chấp: Ông Đặng Quốc P khởi kiện đề nghị giải quyết
về ly hôn, nuôi con chung, chia tài sản chung và trong quá trình giải quyết vụ án
ông đề nghị giải quyết phần đối trừ nghĩa vụ thanh toán vào công nợ riêng của bà
D. Do vậy, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn, công nợ” theo quy định Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về nội D: Ông Đặng Quốc P và bà Mã Kim D kết hôn ngày 13/4/1999,
đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Tam Sơn, Hện Quản Bạ, tỉnh H (Cũ), kết hôn
trên cơ sở tự nguyện. Căn cứ vào Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986, xác
định quan hệ hôn nhân giữa ông P và bà D là hợp pháp.
[4]. Lý do ông P xin ly hôn: Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung
sống hạnh Pc, hoà thuận. Đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên
nhân do tính cách không hoà hợp, bất đồng quan điểm, cả hai bên có lối sống và
suy nghĩ trái ngược nhau, cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, không
còn sự quan tâm, tôn trọng lẫn nhau, mâu thuẫn đã được hai bên gia đình hoà giải
nhưng không có kết quả. Từ năm 2017 đến nay, ông P và bà D đã sống ly thân.
Cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không
9
đạt được, hiện nay ông P không còn tình cảm với bà D nên ông đề nghị ly hôn với
bà D.
[5]. Quá trình giải quyết vụ án bà D xác nhận thời gian, địa điểm đăng ký kết
hôn, quá trình vợ chồng xảy ra mâu thuẫn như ông P trình bày là đúng. Hai ông bà
đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay ông P có yêu cầu ly hôn, bà D đồng ý.
Tuy nhiên, tại phiên toà, bà D thay đổi ý kiến không đồng ý ly hôn với lý do sau
khi ly hôn bà phải ra ngoài ở nếu ông P không thanh toán cho bà một khoản tiền
hợp lý để bà đảm bảo cuộc sống sau này thì bà không đồng ý với ông P.
[6]. Xét yêu cầu xin ly hôn của ông P là phù hợp, bởi lẽ: Quá trình chung
sống ông P và bà D đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách không hoà
hợp, bất đồng quan điểm, cả hai bên có lối sống và suy nghĩ trái ngược nhau, cuộc
sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, không còn sự quan tâm, tôn trọng lẫn
nhau. Bản thân bà D xác nhận cuộc sống vợ chồng của hai ông bà có xảy ra mâu
thuẫn, ông bà đã sống ly thân trong thời gian dài. Điều 19 - Luật Hôn nhân và Gia
đình 2014 quy định “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng,
quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc
trong gia đình; 2 Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau...”, nhưng quan hệ
hôn nhân của hai ông bà không đáp ứng được theo quy định của pháp luật, vi phạm
nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ về tình nghĩa vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm
vào tình trạng trầm trọng, nếu cứ tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân thì cuộc sống
của ông bà cũng không hạnh Pc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu
cầu xin ly hôn của ông P là phù hợp với quy định tại điều 56 - Luật HN&GĐ, Điều
4 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định pháp luật trong giải quyết vụ
việc về hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Đặng
Quốc P đối với bà Mã Kim D.
[7]. Quá trình giải quyết vụ án, bà D đồng ý ly hôn với ông P. Tuy nhiên tại
phiên toà bà D cho rằng sau khi ly hôn bà phải ra ngoài ở nếu ông P không thanh
toán cho bà một khoản tiền hợp lý để bà đảm bảo cuộc sống sau này thì bà không
đồng ý ly hôn với ông P. Xét ý kiến của bà D về việc không nhất trí ly hôn là chưa
phù hợp bởi lẽ, khi vợ chồng chung sống với nhau cần có sự yêu thương, tôn trọng,
quan tâm, chăm sóc, chia sẻ trong cuộc sống từ hai phía. Tuy nhiên, ông P, bà D
đều khẳng định cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, hai bên đã sống ly thân
trong thời gian dài và lý do không đồng ý ly hôn để yêu cầu ông P phải trả cho bà
D một khoản tiền là không phù hợp, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp
nhận ý kiến của bà D.
[8]. Về con chung: Ông P và bà D cùng thống nhất xác nhận có 02 con
chung là chị Đặng Hà P1, sinh ngày 24/10/2001 và cháu Đặng Vũ P, sinh ngày
30/10/2007. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà: ông P và bà D cùng thống
nhất việc nuôi con chung. Giao cho bà D là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc,
10
giáo dục cháu Đặng Vũ P, sinh ngày 30/10/2007 cho đến khi cháu P đủ 18 tuổi.
Ông P tự nguyện có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu P theo mức 2.000.000đ/1
tháng. Ngoài ra tại biên bản ghi nguyện vọng con chung cháu P có ý kiến nếu bố
mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét thấy, nội D thoả thuận
của ông P và bà D là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định pháp luật, nguyện
vọng của cháu P nên cần công nhận. Đối với chị Đặng Hà P1 sinh năm 2001 đã
trưởng thành nên không xem xét giải quyết.
[9]. Về tài sản là diện tích đất: Diện tích đất thửa số 09, tờ bản đồ số 18, loại
đất ở, diện tích 128.0m
2
được UBND tỉnh H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ngày 05/10/2001 mang tên hộ ông Đặng Pc H trên đất có ngôi nhà chung của
vợ chồng ông P và bà D: Ông P và bà D và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan cùng thống nhất xác nhận diện tích đất thuộc quyền sở hữu của cụ Đặng
Pc H và cụ Bùi Thị T (đã chết, năm 2022), không có tranh chấp về quyền sở hữu
và không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải
quyết.
[10]. Về tài sản chung: Quá trình giải quyết và tại phiên toà, ông P và bà D
đều thống nhất xác nhận, vợ chồng tạo lập được khối tài sản chung gồm: 01 ngôi
nhà xây 04 tầng tại địa chỉ: SN 377a, đường N, tổ 10, phường N, thành phố H, tỉnh
H (cũ), nay là phường H 1, tỉnh Tuyên Quang và thời gian xây dựng ngôi nhà vào
năm 2012 trên diện tích đất của cụ H và cụ T (Đã chết, năm 2022) là bố, mẹ đẻ ông
P. Ông P, bà D thống nhất xác định giá trị tài sản chung là 1.876.503.996đ (Theo
biên bản định giá ngày 21/8/2025). Quá trình giải quyết và tại phiên toà, Ông P và
bà D cùng nhất trí thỏa thuận về việc chia cho bà D, ông P mỗi người được hưởng
½ giá trị tài sản này. Đồng thời, bà D, ông P cũng tự nguyện thoả thuận và thống
nhất đề nghị Toà án giao cho ông P được quản lý, sử dụng ngôi nhà và ông P có
nghĩa vụ thanh toán giá trị tài sản tương ứng với phần bà D được hưởng cho bà D.
Xét việc thoả thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy
định tại Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11]. Theo biên bản định giá tài sản ngày 21/8/2025 thì ngôi nhà có giá trị là
1.876.503.996đ. Do vậy, Ông P có nghĩa vụ thanh toán cho bà D ½ giá trị ngôi nhà
là số tiền 938.251.998đ.
[12]. Đối với phần diện tích ngôi nhà của ông P và D xây dựng vượt ranh
giới được cấp giấy chứng nhận QSDĐ của cụ H, theo biên bản thẩm định ngày
21/7/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 4 - Tuyên Quang. Qua xác minh tại
UBND phường H 1 xác định được 1 phần diện tích ngôi nhà của ông P, bà D xây
dựng trên phần diện tích đất có chiều rộng 4,7m, chiều dài 3,6m không nằm trong
quy H phân khu đô thị của phường N (cũ) nay là phường H 1, tỉnh Tuyên Quang,
thuộc loại đất ở đô thị (ODT) có thể tạm giao cho người được sử dụng ngôi nhà
quản lý, sử D.
11
[13]. Xét yêu cầu của bà D về việc đề nghị ông P phải thanh toán giá trị 03
mảnh đất đã bán vào năm 2012 để xây dựng ngôi nhà chung của vợ chồng là
1.000.000.000₫ và bà D đề nghị ông P thanh toán công sức bà D ở chung với gia
đình nhà chồng, chăm sóc ông bà, bố mẹ chồng từ khi kết hôn với ông P cho đến
nay với số tiền 300.000.000₫. Tổng số tiền bà D yêu cầu ông P phải trả cho bà D là
1.300.000.000₫, nhận thấy:
[14]. Xét yêu cầu của bà D về việc đề nghị ông P thanh toán số tiền
1.000.000.000đ: Tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa bà D trình bày, khi chuẩn
bị làm nhà bà có bán hai mảnh đất tại Lê Hoàn vợ chồng ông bà mua năm 2008 số
tiền là 340.000.000đ (ba trăm bốn mươi triệu đồng), đến 2012 bán là 750.000.000đ
và một mảnh đất tại cổng sở Công an mua với giá 450.000.000đ, bán năm 2012
được số tiền 540.000.000đ. Ông P bà D kết hôn từ năm 1999, như vậy, 03 thửa đất
nêu trên đều được bà mua trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời tại phiên tòa ông P,
bà D đều thống nhất xác nhận 03 mảnh đất trên là tài sản mua chung trong thời kỳ
hôn nhân, cùng đứng tên ông P, bà D. Bà D cho rằng nguồn tiền mua đất, bà được
mẹ đẻ của bà cho 200.000.000đ khi bà cHển công tác nhưng bà không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bà D có công sức đống góp nhiều hơn ông
P. Do vậy, ba thửa đất nêu trên được xác định là tài sản chung của vợ chồng, năm
2012 ông, bà đã bán cả 03 mảnh đất để xây dựng ngôi nhà hiện nay, đó là sự định
đoạt đối với tài sản chung và ngôi nhà hiện nay được hình thành từ nguồn tài sản
chung của ông bà. Do đó, việc bà D yêu cầu ông P phải thanh toán giá trị 03 thửa
đất với số tiền 1.000.000.000đ cho bà là không có căn cứ phát luật, không phù hợp
với nguyên tắc chia tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[15]. Xét yêu cầu phản tố của bà D đề nghị ông P thanh toán công sức bà D
ở chung với gia đình nhà chồng, chăm sóc ông bà, bố mẹ chồng từ khi kết hôn với
ông P cho đến nay với số tiền 300.000.000₫: Ngày 15/7/2025, Tòa án ra thông báo
nộp tạm ứng án phí yêu cầu bà D nộp án phí nhưng quá thời hạn quy định bà D
không nộp án phí. Ngày 25/8/2025, tại biên bản xác minh, bà D xác nhận bà đã
nhận được thông báo nhưng chưa nộp án phí. Do bà D không nộp án phí đối với
yêu cầu của mình Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[16]. Tại phiên tòa, bà D yêu cầu ông P thanh toán thêm khoản tiền công sức
lao động hàng tháng, tổn thất tinh thần cho bà trong thời kỳ hôn nhân mỗi tháng là
10.000.000đ/1 tháng, thời gian 26 năm. Bà D cho rằng trong thời kỳ chung sống
với ông P bà phải lao động, chăm sóc con cái phục vụ như một người giúp việc
trong gia đình, tổn thất tinh thần, do vậy bà yêu cầu ông P phải thanh toán số tiền
3.120.000.000đ cho bà. Đối với yêu cầu bổ sung này của bà D tại phiên tòa là vượt
quá yêu cầu phản tố. Do vậy, Hội đồng xét xử không giải quyết.
[17]. Xét yêu cầu của ông P về việc đề nghị đối trừ số tiền 600.000.000₫ ông
P đã phải trả nợ cho bà Hoàng Thu Hền thay bà D vào số tiền 938.251.996đ giá trị
½ của ngôi nhà mà ông P phải trả bà D.
12
[18]. Căn cứ vào Đơn tố giác tội phạm ngày 10/5/2025 của bà Hoàng Thu
Hền, có nội D: Trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến năm 2019 bà Hền đã
cHển khoản cho bà D số tiền 600.000.000đ, do bà D hứa xin việc làm cho con gái
bà Hền. Sau đó bà D không xin việc được cho con gái bà Hền như đã hứa, nên bà
Hền có đơn tố giác bà D đã thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Quá
trình Tòa án giải quyết, bà D cho rằng khi bà làm nhà phải vay lãi cao và bà sử
dụng một phần khoản tiền của bà Hền vào mục đích chi tiêu sinh hoạt chung cho
gia đình, nuôi dạy các con, trong cuộc sống, một phần tiền bà đưa cho người khác
không đòi lại được. Do ông P không đưa tiền cho bà lo sinh hoạt gia đình nên bà
phải đi vay nợ và xin chạy việc kiếm sống. Bà D cho rằng đây là khoản tiền ông P
phải đưa cho bà trong các năm cùng chung sống để trả nợ thay bà. Tuy nhiên, bà D
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh số tiền bà nhận của bà Hền
được sử dụng vào nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tại phiên tòa ông P trình bày khi
bị bà Hền làm đơn tố giác bà D đến cơ quan pháp luật ông P mới biết về khoản nợ
của bà D, vì không muốn ảnh hưởng đến các con và gia đình nên ông đã phải đi
vay tiền để trả nợ thay cho bà D. Việc bà D nhận tiền của bà Hền ông P không biết,
không tham gia ký kết và không biết nội D thỏa thuận giao dịch giữa bà D với bà
Hền. Thời gian bà D nhận tiền của bà Hền, ông P và bà D đã sống ly thân.
[19]. Căn cứ Giấy xác nhận của bà Mã Kim D ngày 30/5/2025 “xác nhận
chồng tôi ông Đặng Quốc P có trả cho tôi số tiền là 600.000.000đ cho chị Hoàng
Thu Hền, sinh năm 1969, trú tại Vĩnh Lập, Chiêm Hóa, Tuyên Quang” và Giấy xác
nhận của bà Hoàng Thu Hền ngày 30/5/2025, bà Hền xác nhận đã nhận đủ số tiền
600.000.000đ của bà Mã Kim D. Như vậy, đủ căn cứ để xác định ngày 30/5/2025
ông P đã thực hiện nghĩa vụ trả thay cho bà D số tiền 600.000.000đ cho bà Hoàng
Thu Hền.
[20]. Tại phiên tòa Bà D thừa nhận số tiền ông P đã trả cho bà Hền là trả nợ
thay cho bà D, do trước đó bà nhận tiền của bà Hền với mục đích xin việc nhưng
do không xin được việc nên bà đã nợ số tiền đó cho đến khi ông P trả nợ thay bà
vào tháng 5/2025.
[21]. Theo giấy vay tiền ngày 28/5/2025 và Hợp đồng vay tiền tại Ngân hàng
Agribank chi nhánh Hện Bắc Quang ngày 26/6/2025 của ông P tại Ngân hàng
chứng minh nguồn gốc khoản tiền ông P dùng để trả nợ thay cho bà D là do ông P
vay của ông Th số tiền 600.000.000đ. Sau đó ông P đã vay Ngân hàng để trả lại
tiền cho ông Th. Hiện nay khoản vay này ông P chưa tất toán với Ngân hàng
Agribank chi nhánh Hện Bắc Quang. Như vậy, khoản tiền ông P dùng để trả nợ
cho bà D không phải sử dụng tiền ông P tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân để trả
thay cho bà D. Nên việc ông P yêu cầu bà D thực hiện nghĩa vụ riêng của bà D là
hoàn toàn có căn cứ.
[22]. Từ nhận định tại [17], [18], [19], [20], [21], xét thấy không có tài liêu,
chứng cứ thể hiện ông P biết việc bà D nhận tiền của bà Hền, đồng thời không có

13
căn cứ để xác định bà D nhận tiền của bà Hền nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu của gia đình theo điều 27, khoản 2 Điều 37 Luật HNGĐ. Theo quy định
khoản 3, khoản 4 Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình “3. Nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình; 4. Nghĩa
vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng” là nghĩa vụ riêng về tài
sản của vợ hoặc chồng. Nên nghĩa vụ trả khoản tiền 600.000.000đ cho bà Hền
được xác định là nghĩa vụ riêng của bà D. Thực tế Ông P đã thực hiện thay nghĩa
vụ của bà D nên ông P yêu cầu đối trừ khoản tiền 600.000.000đ vào ½ giá trị ngôi
nhà mà ông P phải thanh toán cho bà D là có căn cứ. Hồi đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu của ông P.
[23]. Như vậy, ông P có nghĩa vụ thanh toán cho bà D ½ giá trị ngôi nhà sau
khi đối trừ số tiền ông P đã trả nợ thay cho bà D, cụ thể: 938.251.998đ –
600.000.000đ = 338.251.998đ.
[24]. Đối với các khoản nợ chung khác, bà D, ông P không yêu cầu giải
quyết nên Tòa án không xem xét.
[25]. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Ông P, bà D cùng phải chịu chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 3.900.000đ. Do ông P đã nộp
chi phí thẩm định, định giá là 3.900.000đ (đã thi hành xong) nên bà D có trách
nhiệm hoàn trả cho ông P ½ số tiền chi phí thẩm định định giá là 1.950.000đ.
[26]. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 4 - Tuyên
Quang đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có
căn cứ, đúng quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử
nên chấp nhận.
[27]. Về án phí: Ông P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, án phí cấp dưỡng.
Ông P và bà D phải chịu án phí có giá nghạch tương ứng với phần tài sản mỗi
người được hưởng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 8, Điều 14 Luật Hôn nhân gia đình năm 1986; các Điều 29, 33,
45, 51, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 131 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Căn cứ
vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144,
Điều 147, 157, 158, 165, 166 Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Nghị quyết 81/2025/UBTVQH15 ngày 27/6/2025 của UBTVQH; Nghị quyết
01/2025/NQ-HĐTP ngày 27/6/2025 của HĐTP TANDTC; Căn cứ khoản 5 Điều
27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án,
14
1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Quốc P, về việc:
Ly hôn, nuôi con chung, chia tài sản và công nợ khi ly hôn.
2. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ông Đặng Quốc P được ly hôn với bà Mã
Kim D.
3. Về con chung: Giao cho bà Mã Kim D là người trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục cháu Đặng Vũ P, sinh ngày 30/10/2007 cho đến khi cháu P đủ
18 tuổi. Ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi cháu P theo mức 2.000.000đ/1 tháng.
Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 01/7/2025 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Bà D là
người trực tiếp nhận tiền cấp dưỡng. Ông P cùng có quyền, nghĩa vụ chăm sóc con
chung. Cháu Đặng Hà P1, đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết.
Việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là không cố định.
4. Về tài sản chung:
- Giao cho ông Đặng Quốc P được quyền sở hữu tài sản là 01 ngôi nhà xây
04 tầng khung cứng chịu lực tường 110, nền lát gạch (80 x80) cm và (60 x60) cm,
tường sơn màu hệ thống điện chiếu sáng thông thường đi chìm, khu nhà tắm vệ
sinh khép kín tự hoại; cầu thang lát đá, lan can gỗ, kích thước tầng 1,2,3: 4,7m x
21m; tầng 4 phía trước xây dựng như tầng 3, kích thước 4,7m x 9m; phía sau mái
lợp tôn cột bê tông xung quanh bịt khung inox. Chiều rộng ngôi nhà phía Đông
giáp nhà cụ H rộng 4,7m; phía Nam giáp đất nhà ông Th dài 21m. (Trong đó 17,4
m nằm trong giấy chứng nhận QSDĐ nhà ông Đặng Pc H; 3,6m tiếp giáp năm
ngoài giấy chứng nhận QSDĐ nhà ông Đặng Pc H); phía Tây giáp với phần đất
ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T876936 của hộ ông Đặng Pc H có
chiều rộng 4,7m; phía Bắc giáp phần đất chưa xây dựng nhà ông Đại 17,4m. Ngôi
nhà được xây dựng trên diện tích thửa đất số 09; tờ bản đồ số 18 đã được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số T876936 ngày 05/10/2001 mang tên hộ ông
Đặng Pc H. Tạm giao cho ông P quản lý sử dụng phần diện tích nhà xây dựng
ngoài Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 876936 của hộ ông Đặng Pc H có
chiều rộng 4,7m, chiều dài 3,6m. Ngôi nhà có địa chỉ tại: SN 377a, đường N, tổ 10,
phường H 1, tỉnh Tuyên Quang, (Có sơ đồ chi tiết kèm theo).
- Ông P có trách nhiệm thanh toán cho bà Mã Kim D ½ giá trị ngôi nhà là tài
sản chung với số tiền 938.251.998đ. Chấp nhận yêu cầu của ông P về việc đối trừ
số tiền 938.251.998đ vào số tiền 600.000.000đ ông P đã phải trả nợ thay cho bà D.
Như vậy, số tiền còn lại ông P sẽ thanh toán cho bà D là: 938.251.998đ -
600.000.000đ = 338.251.998đ (Ba trăm ba mươi tám triệu hai trăm năm mươi mốt
nghìn chín trăm chín mươi tám đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

15
5. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
6. Về chi phí thẩm đinh tại chỗ, định giá tài sản: Ông P, bà D phải chịu chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 3.900.000đ. Do ông P đã nộp tạm ứng nên bà D
phải thanh toán cho ông P ½ số tiền tạm ứng chi phí thẩm định, định giá tài sản là
1.950.000đ (Một triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).
7. Về án phí:
- Ông Đặng Quốc P phải chịu số tiền 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm; số
tiền 300.000đ án phí cấp dưỡng và 40.147.559 đ án phí có giá ngạch tương ứng với
phần tài sản được hưởng; tổng cộng là 40.747.559đ án phí dân sự sơ thẩm được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 5.300.000đ ông P đã nộp tại Chi cục thi hành
án dân sự thành phố H (Nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực 4 – Tuyên
Quang) theo biên lai thu số 0000676 ngày 10/6/2025 (Do Nguyễn Danh Long nộp
thay). Ông P còn phải nộp số tiền án phí dân sự là 35.447.559đ (Ba mươi lăm triệu
bốn trăm bốn mươi bảy nghìn năm trăm năm mươi chín đồng).
- Bà Mã Kim D phải chịu án phí có giá ngạch tương ứng với phần tài sản
được hưởng là 40.147.559đ (Bốn mươi triệu một trăm bốn mươi bảy nghìn năm
trăm năm chín đồng).
8. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên toà có quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy
định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự , người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30
luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh HG; THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND KV4-TQ;
- Các đương sự;
- THADS T.TQ;
- UBND P.H 2;
- Lưu HS - BP.
Lê Thị Thanh Bình
16
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Hứa Văn Chế + Triệu Minh Tư Lê Thị Thanh Bình
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm