Bản án số 286/2024/DS-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 286/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 286/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 286/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 286/2024/DS-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 286/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp công nhận quyền sử dụng đất; Hủy giấy- Bùi Thanh P - Nguyễn Văn S |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH SÓC TRĂNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 286/2024/DS-PT
Ngày: 23/12/2024
V/v Tranh chấp công nhận quyền sử dụng đất;
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất và
Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hồ Văn Phụng.
Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Văn Toàn.
2. Ông Nguyễn Hoàng Thành.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Quốc Thanh– Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Bà Huỳnh Thị Mỹ Liên – Kiểm sát viên.
Ngày 23/12/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 208/2024/TLPT-DS ngày 23/10/2024 về
việc “ Tranh chấp công nhận quyền sử dụng đất; Hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; Hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất và Đ lại tài sản là quyền sử dụng
đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 243/2023/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 261/2024/QĐ-PT ngày
07/11//2024 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 190/2024/QĐ-PT ngày
29/11/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Bùi Thanh P, sinh ngày 01/01/1983. Địa chỉ: số G, ấp
S, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Văn
T, Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh S. Địa chỉ: Số A, đường H, khóm F,
phường F, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1965. Địa chỉ: số B, ấp S, xã K,
huyện K, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ:
ấp A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng. (có đơn xin xét xử vắng mặt)
3.2. Chị Huỳnh Thị Bé B, sinh năm 1983. Địa chỉ: ấp S, xã K, huyện K,
tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
2
3.3. Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1977. Địa chỉ: ấp S, xã K, huyện K, tỉnh
Sóc Trăng. (có mặt)
4. Người kháng cáo: Anh Bùi Thanh P là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, nội dung vụ kiện được tóm tắt như
sau:
* Theo đơn khởi kiện ngày 01/8/2023, các tài liệu, chứng cứ khác
trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên Toà, nguyên đơn là anh Bùi
Thanh P trình bày:
Căn cứ Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số:
44/2020/QĐST-DS ngày 17/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh
Sóc Trăng thì anh Bùi Thanh P phải trả cho ông Nguyễn Văn S số tiền là
200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng, trong thời hạn 12 tháng (kể từ ngày
09/07/2020 đến ngày 09/07/2021). Do dịch bệnh Covid 19 không làm ăn được
nên anh Bùi Thanh P chưa có tiền trả cho ông S theo thỏa thuận.
Căn cứ Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các
đương sự số: 243/2017/QĐST-HNGĐ ngày 30/10/2017 của Tòa án nhân dân
huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, giữa anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị Bé B,
về tài sản chung thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.847,6m
2
, mục đích sử
dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và môi trường
cấp ngày 06/10/2016 là tài sản chung vợ chồng khi ly hôn chưa chia theo quy
định của luật.
Đến ngày 21/12/2021, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách có mời
anh Bùi Thanh P đến trụ sở để ký giấy nợ, anh Bùi Thanh P nghĩ là đến ký giấy
nhận nợ chứ không sang bán nên đến ký, không ngờ ngày 14/09/2022 Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Kế Sách đã làm đề nghị để ông Nguyễn Văn S đi
đăng ký quyền sử dụng thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.847,6m
2
, mục
đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh
Sóc Trăng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho anh Bùi
Thanh P ngày 06/10/2016.
Theo nội dung đơn khởi kiện anh Bùi Thanh P yêu cầu Hủy bỏ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn S đứng tên tại thửa đất
số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.847,6m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng
lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho anh Bùi Thanh P ngày 06/10/2016 và công
nhận quyền sử dụng đất này cho anh Bùi Thanh P để anh Bùi Thanh P và vợ là
chị Huỳnh Thị B1 Ba chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.
Tuy nhiên, do không biết rõ thông tin về diện tích và ngày ông Nguyễn
Văn S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên anh Bùi Thanh P xin
đính chính và trình bày lại như sau:
Nay anh Bùi Thanh P yêu cầu Tòa án giải quyết:
3
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn S
đứng tên tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử
dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn
Văn S ngày 14/3/2023 và công nhận quyền sử dụng đất này cho anh Bùi Thanh
P để anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba chia tài sản chung của vợ chồng
sau khi ly hôn.
Anh Bùi Thanh P không đồng ý theo toàn bộ yêu cầu phản tố của ông
Nguyễn Văn S.
Anh Bùi Thanh P đồng ý theo yêu cầu độc lập của chị Huỳnh Thị Bé B.
Đối với yêu cầu độc lập của chị Nguyễn Thị T1 thì anh không có ý kiến
gì, tùy vào quyết định của Tòa án xem xét phần đất đang tranh chấp là thuộc
quyền sử dụng của ai và phán quyết của Tòa án.
Anh Bùi Thanh P thống nhất theo kết quả đo đạc, định giá, xem xét thẩm
định tại chổ, thẩm định giá theo giá thị trường và kết luận giám định chữ ký,
chữ viết mà Tòa án đã tiến hành thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đề nghị Tòa án
căn cứ vào những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xem xét giải quyết yêu
cầu khởi kiện của anh P.
* Bị đơn là ông Nguyễn Văn S trình bày:
Ông Nguyễn Văn S có yêu cầu phản tố với nội dung như sau:
Yêu cầu Tòa án công nhận thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích
4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K,
huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp
cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
ông Nguyễn Văn S.
Yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng cố đất giữa anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh
Thị Bé B và chị Nguyễn Thị T1 theo “Giấy cam kết” lập ngày 06/5/2017 được
ký kết giữa anh P, chị B1 ba và chị T1 đối với thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8,
diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số
A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023. Lý do: phần đất nêu trên ông
Nguyễn Văn S đang đứng tên quyền sử dụng đất, là tài sản của ông S chứ không
phải là tài sản của anh P và chị Bé B.
Yêu cầu anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B và chị Nguyễn Thị T1
phải giao trả lại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử
dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn
Văn S ngày 14/3/2023 cho ông Nguyễn Văn S.
Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cầm cố thì
việc giải quyết hậu quả của hợp đồng bị hủy bỏ theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ vụ liên quan gồm:
1/ Chị Huỳnh Thị Bé B trình bày:
Chị Huỳnh Thị B1 Ba có yêu cầu độc lập với nội dung như sau:
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn S
đứng tên tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử
4
dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn
Văn S ngày 14/3/2023 và công nhận quyền sử dụng đất này cho anh Bùi Thanh
P để chị Huỳnh Thị Bé B và anh Bùi Thanh P chia tài sản chung của vợ chồng
sau khi ly hôn.
Việc ông Nguyễn Văn S yêu cầu Tòa án hủy bỏ hợp đồng cầm cố đất giữa
anh Bùi Thanh P, chị Nguyễn Thị Bé B2 và chị Nguyễn Thị T1 theo “Giấy cam
kết” lập ngày 06/05/2017 được ký kết giữa anh P, chị Bé B2 và chị T1 đối với
thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.847,6m
2
, mục đích sử dụng: đất
chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho anh Bùi Thanh P ngày
06/10/2016 thì tôi không đồng ý.
Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cầm cố thì
chị Bé B2 và anh Bùi Thanh P đồng ý trả lại cho chị Nguyễn Thị T1 số tiền cầm
cố đất là 250.000.000 đồng, yêu cầu chị T1 giao trả lại phần đất nêu trên cho chị
B1 B2 và anh P để chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.
2/ Chị Nguyễn Thị T1 trình bày:
Chị Nguyễn Thị T1 có yêu cầu độc lập với nội dung như sau:
Buộc anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba phải có trách nhiệm trả
lại cho chị Nguyễn Thị T1 số tiền cố đất là 250.000.000 đồng trong trường hợp
Hợp đồng cố đất giữa chị Nguyễn Thị T1 và anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị
B1 ba bị hủy bỏ, vô hiệu. Sau khi nhận đủ tiền cố đất 250.000.000 đồng từ anh
Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba thì chị Nguyễn Thị T1 đồng ý giao trả lại
phần đất nêu trên cho chủ đất theo phán quyết của Tòa án.
3/ Cơ quan có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Kế Sách vắng mặt.
Theo Công văn số 626/CV-CCTHADS ngày 12/12/20233, Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Kế Sách có ý kiến như sau:
Đối với yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Thanh P, Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Kế Sách đề nghị Tòa án nhân dân huyện Kế Sách bác yêu cầu khởi
kiện của anh Bùi Thanh P vì giữa nguyên đơn và bị đơn đã có thỏa thuận giao
nhận thửa đất số 68 để trừ tiền thi hành án chứ không phải là để ký giấy nợ như
anh Bùi Thanh P trình bày.
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 243/2024/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, đã quyết định: Căn
cứ các khoản 3, 5 và 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 91, Điều 93,
khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 161, khoản 1 Điều 165,
điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 131, Điều 166, Điều 357, Điều 468, Điều 457,
Điều 459, Điều 500, Điều 502, Điều 503 và Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;
Điều 105, Điều 152, Điều 167, Điều 195 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
khoản 2, khoản 3, khoản 9 Điều 26, Điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
5
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Thanh P và
toàn bộ yêu cầu độc lập của chị Huỳnh Thị Bé B, về việc: Hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn S đứng tên tại thửa đất số 68, tờ
bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước,
tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 và công nhận
quyền sử dụng đất này cho anh Bùi Thanh P để anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh
Thị B1 Ba chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.
2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn S:
2.1 Công nhận thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục
đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh
Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và môi
trường cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 là thuộc quyền sử dụng hợp
pháp của ông Nguyễn Văn S.
2.2 Tuyên bố hợp đồng cố đất giữa anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B
và chị Nguyễn Thị T1 theo “Giấy cam kết” lập ngày 06/5/2017 được ký kết giữa
anh P, chị Huỳnh Thị B1 Ba và chị Nguyễn Thị T1 đối với thửa đất số 68, tờ
bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước,
tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 là vô hiệu.
2.3 Buộc anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B và chị Nguyễn Thị T1
phải giao trả lại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử
dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng cho ông Nguyễn Văn S trực tiếp quản lý, canh tác, sử dụng theo quy định
của pháp luật. Phần thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích
sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng có tứ cận như sau:
+ Hướng Bắc giáp thửa 67 có số đo 251,05m.
+ Hướng Nam giáp thửa 70 có số đo 4,59m + 249,63m = 254,22m.
+ Hướng Đông giáp thửa 65 có số đo 6,73m và thửa 77 có số đo 14,42m.
+ Hướng Tây giáp bờ kênh có số đo 17,50m. (có sơ đồ kèm theo).
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của chị Nguyễn Thị T1. Buộc anh
Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba cùng chịu trách nhiệm trả lại cho chị
Nguyễn Thị T1 số tiền 250.000.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí đo đạc thẩm định, định
giá tài sản và thông báo quyền kháng cáo cho các đương sự theo luật định.
6
* Ngày 24/9/2024, anh Bùi Thanh P là nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án dân sự sơ thẩm số 243/2024/DS-ST, ngày 13/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Kế Sách và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm
nêu trên theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông và bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông S.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Bùi Thanh P là nguyên đơn và chị Nguyễn
Thị T1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đều không
rút đơn khởi kiện; chị Huỳnh Thị B1 Bà là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập vắng mặt không có ý kiến đối với việc rút đơn khởi
kiện; anh Bùi Thanh P là nguyên đơn không rút lại đơn kháng cáo; các đương sự
không có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh P cho rằng mặc dù cha
mẹ anh P cho đất riêng anh P, tuy nhiên anh P đồng ý nhập vào tài sản chung
của anh P và chị B1 Ba thể hiện hợp đồng thế chấp bất động sản số LD
1630200013.1 ngày 04/11/2016. Việc anh P đồng ý nhập tài sản cá nhân vào tài
sản chung với chị Bé B, nhưng hai bên không có văn bản thỏa thuận hoặc chứng
cứ khác để chứng minh cho việc nhập tài sản, nên không có căn cứ chấp nhận
việc anh P và chị B1 Ba nhập tài sản riêng của anh P vào tài sản chung của anh
chị. Ngoài ra, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh P cho rằng Thi
hành án dân sư huyện K vi phạm thủ tục chuyển giao tài sản là theo Quyết định
số 03/QĐ-CCTHADS ngày 20/12/2021 về việc giao tài sản cho người được thi
hành án, nhưng Quyết định số 09/QĐ-CCTHADS ngày 20/12/2021 về việc thu
hồi quyết định về thi hành án đối với thửa đất số 67, diện tích 5,457,1 m
2
chứ
không phải thu hồi thửa đất số 68. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử sửa án theo
hướng chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là không có căn cứ chấp
nhận.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về tính có căn cứ và
hợp pháp của kháng cáo, về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng của
những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm; Đồng thời, phát biểu quan
điểm về nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308
Bộ luật tố tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của anh Bùi Thanh P là
nguyên đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét:
Về tố tụng:
[1] Người kháng cáo, nội dung và hình thức đơn kháng cáo, thời hạn
kháng cáo của anh Bùi Thanh P là đúng theo quy định tại Điều 271, Điều 272 và
Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, nên kháng cáo hợp lệ và đúng theo
luật định.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách có đơn xin xét xử vắng mặt và chị
Huỳnh Thị B1 Ba vắng mặt lần thứ hai không có lý do; việc vắng mặt của họ
7
cũng không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3
Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án.
Về nội dung:
[3] Anh P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: 1. Hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn S đứng tên tại thửa đất số 68, tờ
bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước,
tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 và công nhận
quyền sử dụng đất này cho anh Bùi Thanh P để anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh
Thị B1 Ba chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn. 2. Anh Bùi Thanh P
không đồng ý theo toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn S. 3. Anh Bùi
Thanh P đồng ý theo yêu cầu độc lập của chị Huỳnh Thị Bé B. 4. Đối với yêu
cầu độc lập của chị Nguyễn Thị T1 thì anh không có ý kiến gì, tùy vào quyết
định của Tòa án xem xét phần đất đang tranh chấp là thuộc quyền sử dụng của ai
và phán quyết của Tòa án.
[4] Bị đơn anh Nguyễn Văn S có yêu cầu phản tố: 1. Yêu cầu Tòa án công
nhận thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất
chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày
14/3/2023 là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Văn S. 2. Yêu cầu
Tòa án hủy bỏ hợp đồng cố đất giữa anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B và
chị Nguyễn Thị T1 theo “Giấy cam kết” lập ngày 06/5/2017 được ký kết giữa
anh P, chị Bé B và chị T1 đối với thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích
4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K,
huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp
cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023. Lý do: phần đất nêu trên ông Nguyễn
Văn S đang đứng tên quyền sử dụng đất, là tài sản của ông S chứ không phải là
tài sản của anh P và chị Bé B. 3. Yêu cầu anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B
và chị Nguyễn Thị T1 phải giao trả lại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích
4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K,
huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp
cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 cho ông Nguyễn Văn S.
[5] Người có quyền lợi, nghĩa vụ vụ liên quan gồm:
[5.1] Chị Huỳnh Thị B1 Ba có yêu cầu độc lập với nội dung: 1. Hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn S đứng tên tại thửa đất
số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng
lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 và công
nhận quyền sử dụng đất này cho anh Bùi Thanh P để chị Huỳnh Thị Bé B và anh
Bùi Thanh P chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn. 2. Không đồng ý
hủy bỏ hợp đồng cầm cố đất giữa anh Bùi Thanh P, chị Nguyễn Thị Bé B2 và
chị Nguyễn Thị T1 theo “Giấy cam kết” lập ngày 06/05/2017. Trong trường hợp
Tòa án chấp nhận yêu cầu hủy bỏ hợp đồng cầm cố thì chị Bé B2 và anh Bùi
Thanh P đồng ý trả lại cho chị Nguyễn Thị T1 số tiền cầm cố đất là 250.000.000
8
đồng, yêu cầu chị T1 giao trả lại phần đất nêu trên cho chị B1 B2 và anh P để
chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.
[5.2] Chị Nguyễn Thị T1 có yêu cầu độc lập với nội dung:
Buộc anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba phải có trách nhiệm trả
lại cho chị Nguyễn Thị T1 số tiền cố đất là 250.000.000 đồng trong trường hợp
Hợp đồng cố đất giữa chị Nguyễn Thị T1 và anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị
B1 ba bị hủy bỏ, vô hiệu. Sau khi nhận đủ tiền cố đất 250.000.000 đồng từ anh
Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba thì chị Nguyễn Thị T1 đồng ý giao trả lại
phần đất nêu trên cho chủ đất theo phán quyết của Tòa án.
[5.3] Theo Công văn số 626/CV-CCTHADS ngày 12/12/20233, Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Kế Sách có ý kiến: Đối với yêu cầu khởi kiện của anh
Bùi Thanh P, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách đề nghị Tòa án nhân
dân huyện Kế Sách bác yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Thanh P vì giữa nguyên
đơn và bị đơn đã có thỏa thuận giao thửa đất số 68 để trừ tiền thi hành án chứ
không phải là để ký giấy nợ như anh Bùi Thanh P trình bày.
[6] Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 243/2024/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, đã tuyên xử thì chỉ
có anh Bùi Thanh P kháng cáo, các đương sự khác và Viện kiểm sát hai cấp
không kháng nghị, nên Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét kháng cáo của anh P.
[7] Xét kháng cáo của anh Bùi Thanh P là nguyên đơn kháng cáo toàn bộ
bản án dân sự sơ thẩm số 243/2024/DS-ST, ngày 13/9/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Kế Sách và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm
nêu trên theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông và bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông S. Nhận thấy:
[7.1] Xét yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông
Nguyễn Văn S đứng tên tại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
,
mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K,
tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và
môi trường cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023. Tại Điều 34 của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy định: Khi giải quyết các vụ việc dân sự, mà trong vụ việc đó
có quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức người có thẩm quyền trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và nội dung của quyết định đó
liên quan đến vụ việc Tòa án giải quyết thì Tòa án phải hủy quyết định đó để
khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Tại điểm d khoản 2 của Điều 106 của Luật Đất đai năm 2013 (khoản 4,
Điều 152 của Luật Đất đai năm 2024) quy định cơ quan cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không được thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong
trường hợp “...người được cấp giấy chứng nhận đã thực hiện chuyển quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về
đất đai...”. Theo Điều 195 của Luật Đất đai năm 2013 (Điều 223 của Luật Đất
đai năm 2024) thì trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận hoặc xác nhận nội dung
biến động do chuyển quyền sử dụng đất do Chính phủ quy định. Tại Điều 79 của
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định việc
đăng ký biến động, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chuyển quyền
9
dựa trên cơ sở hồ sơ hợp đồng (nay là Điều 37 nay là Nghị định 101/2024/NĐ-
CP ngày 29/7/2024) thì Văn phòng Đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ
sơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định, xác nhận nội dung
biếnđộng vào Giấy chứng nhận đã cấp hoặc lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm
quyềncấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 (nay là Luật đất đai
năm 2024) và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 (nay là Nghị định
101/2024/NĐ-CP ngày 29/7/2024) của Chính phủ thì việc cấp lại Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp
thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất
đai năm 2013 nay là Điều 136 của Luật Đất đai 2024) là thủ tục hành chính
trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt;
Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực. Khi
giải quyết tranh chấp về hợp đồng giao dịch quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó
bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan
có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy
giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng.
[7.2] Theo Công văn số 719/STNMT-VPĐK, ngày 19/3/2024 của Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh T3 có nội dung:
[7.2.1] Sở T3 cấp giấy chứng nhận số CĐ 508527 ngày 06/10/2016 cho
anh Bùi Thanh P là căn cứ vào Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được
UBND xã K chứng thực số 16 ngày 06/9/2016 giữa ông Bùi Minh T2 và bà Võ
Thị A với anh Bùi Thanh P; Việc cấp Giấy chứng nhận nêu trên là đúng theo
trình tự, thủ tục quy định tại Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/05/2014 của Chính phủ. Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận cho anh Bùi
Thanh P không tiến hành đo đạc thực tế. Lý do: anh P nhận tặng cho hết thửa đất
số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích: 4.847,6 m
2
đã được UBND huyện K cấp giấy
chứng nhận số BL 713265 ngày 19/9/2013 cho ông Bùi Minh T2 và bà Võ Thị
A, đồng thời người sử dụng đất cũng không yêu cầu đo đạc lại.
[7.2.2] Sở T3 cấp giấy chứng nhận số DK 875448 ngày 14/3/2023 cho
ông Nguyễn Văn S là căn cứ theo Quyết định số 03/QĐ-CCTHADS ngày
20/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách; Việc cấp Giấy
chứng nhận nêu trên là đúng theo trình tự, thủ tục quy định tại Điều 84 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ. Tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận cho ông Nguyễn Văn S đã tiến hành đo đạc đất thực tế thửa đất theo
Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất do Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai huyện K lập ngày 06/02/2023.
[7.2.3] Sở T3 cấp giấy chứng nhận cho ông Nguyễn Văn S là đúng theo
trình tự, thủ tục quy định tại Điều 84 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/05/2014 của Chính phủ. Do đó, việc ông Bùi Thanh P yêu cầu Tòa án hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích:
4.795,4m
2
, đất tọa lạc tại ấp S, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng đã được Sở T3
10
cấp Giấy chứng nhận số DK 875448 ngày 14/3/2023 cho ông Nguyễn Văn S là
không có cơ sở.
[7.3] Tại Công văn số 626/CV-CCTHADS, ngày 12/12/2023, của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Kế Sách có nội dung:
[7.3.1] Căn cứ Quyết định 44/2020/QĐST-DS ngày 17/7/2020 của Toà án
nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng; Quyết định thi hành án số 1352 QĐ-
CCTHADS ngày 13/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh
Sóc Trăng.
[7.3.2] Căn cứ Quyết định của Tòa án, Quyết định Thi hành án nêu trên
thì anh Bùi Thanh P phải có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn S số tiền
200.000.000 đồng và lãi chậm thi hành án.
[7.3.3] Trong quá trình tổ chức thi hành án, ngày 17/12/2021 giữa anh Bùi
Thanh P và ông Nguyễn Văn S có thỏa thuận thi hành án, cụ thể ông P giao cho
ông S thửa đất 68, tờ bản đồ 08, diện tích: 4.847,6m
2
, mục đích sử dụng: đất
chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp S, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số: CĐ508527/CS02245 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T3 cấp cho
anh Bùi Thanh P ngày 06/10/2016 để khấu trừ số tiền anh P phải trả cho ông S
là 214.940.000 đồng (trong đó gốc là 200.000.000 đồng và tiền lãi chậm thi
hành án là 14.940.000 đồng).
[7.3.4] Ngày 29/12/2021, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách kết
hợp với các ngành chức năng, chính quyền địa phương tiến hành giao tài sản cho
ông Nguyễn Văn S. Tài sản giao cho ông S gồm: Quyền sử dụng đất và các tài
sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 68, từ bản đồ 08, diện tích: 4.847.6m
2
,
mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp S, xã K, huyện K,
tỉnh Sóc Trăng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gần liền với đất số CĐ508527/CS02245 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh T3 cấp cho ông Bùi Thanh P ngày 06/10/2016.
[7.3.5] Ngày 13/6/2022 giữa anh P và ông S có thỏa thuận, cụ thể là anh P
cam kết đến ngày 26/8/2022 sẽ nộp tiền trả cho ông S để chuộc lại thửa đất số
68 anh P giao cho ông S ngày 29/12/2021. Tuy nhiên quá thời hạn cam kết
nhưng anh P không thực hiện được.
[7.3.6] Ngày 14/9/2022 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách có
Công văn số 483/ĐN-CCTHADS đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông Nguyễn Văn S đối với phần đất anh Bùi Thanh P giao cho ông S
theo quy định.
[7.3.7] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Kế Sách đề nghị Tòa án nhân dân huyện Kế Sách xem xét bác yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn vì giữa ông P và ông S đã có thỏa thuận giao nhận
thừa đất số 68 nêu trên để trừ tiền thi hành án chứ không phải là để ký giấy nợ
như ông P trình bày.
[7.4] Tại Kết luận giám định số 104/KLTL-KTHS ngày 15/5/2024 của
Phòng K Công an tỉnh S kết luận C ký, chữ viết mang tên Bùi Thanh P dưới
mục “NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN” trong các tài liệu: Biên bản về việc giao
quyết định, văn bản về thi hành án ngày 13/7/2021, ngày 05/12/2021, ngày
11
20/12/2021; Biên bản về việc thỏa thuận thi hành án ngày 17/12/2021; Biên bản
về việc thỏa thuận thi hành án ngày 13/6/2022; Biên bản về việc giao, nhận tài
sản thi hành án ngày 29/12/2021 và Sơ đồ hiện trạng khu đất ngày 29/12/2021 là
do cùng một người ký và viết ra. Như vậy, theo kết luận trên thì người viết và ký
tên là do chính nguyên đơn Bùi Thanh P viết và ký tên.
[7.5] Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng tại thửa đất 68, tờ
bản đồ 08, diện tích: 4.847,6m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước,
tọa lạc tại ấp S, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CĐ508527/CS02245
do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh T3 cấp cho anh Bùi Thanh P ngày
06/10/2016 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K cung cấp thể hiện
nguồn gốc thửa đất mà anh Bùi Thanh P đứng tên là được nhận tặng cho quyền
sử dụng đất của ông Bùi Minh T2 và bà Võ Thị A (cha mẹ ruột) theo Hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất ngày 06/9/2016, được công chứng chứng thực tại
Ủy ban nhân dân xã K đúng theo quy định của pháp luật. Toàn bộ hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đều thể
hiện tặng cho quyền sử dụng đất cho cá nhân anh Bùi Thanh P, không phải là
tặng cho vợ chồng anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị Bé B, đồng thời, toàn bộ
hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất cũng không có chữ ký và chữ viết của chị Huỳnh Thị Bé B.
[7.6] Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, có chứng thực của Ủy ban
nhân dân xã K ngày 06/9/2016, giữa ông Bùi Minh T2, bà Võ Thị A và anh Bùi
Thanh P, đối với phần tại thửa đất 68, tờ bản đồ 08, diện tích: 4.847,6m
2
, mục
đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại ấp S, xã K, huyện K, tỉnh
Sóc Trăng có hiệu lực pháp luật. Phần đất này thuộc quyền sử dụng hợp pháp
của nguyên đơn Bùi Thanh P, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện cấp
cho cá nhân Bùi Thanh P, cho nên việc anh Bùi Thanh P có toàn quyền quyết
định và ký kết các thỏa thuận về việc thanh toán nợ cho bị đơn Nguyễn Văn S
theo các Biên bản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách là hoàn toàn
phù hợp với ý chí và quyền lợi chính đáng của nguyên đơn Bùi Thanh P. Mặt
khác, tại phiên Tòa, chính anh Bùi Thanh P cũng xác định, bản thân học đến lớp
7/12, biết đọc, biết viết và không có bất cứ bệnh tật ảnh hưởng đến năng lực
hành vi, do đó, việc anh Bùi Thanh P cho rằng bản thân không biết gì khi ký tên
vào các biên bản làm việc tại của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách là
không có căn cứ.
[8] Từ những nhận định tại tiểu mục [7.1] đến [7.6] mục [7] thì giấy
chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích: 4.795,4m
2
được Sở T3 cấp Giấy chứng nhận số DK 875448 ngày 14/3/2023 cho ông
Nguyễn Văn S là đúng với quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử cấp
sơ thẩm bác yêu cầu này của anh Bùi Thanh P và Huỳnh Thị B1 Ba là có căn cứ,
nên kháng cáo của anh P phần không có căn cứ chấp nhận.
[9] Đối với Hợp đồng cầm cố đất giữa anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị
B1 Ba với chị Nguyễn Thị T1 vào ngày 06/5/2017 đến ngày 06/5/2021 hết hạn.
Xét thấy, tính đến thời điểm hiện nay, Hợp đồng cầm cố này đã hết hạn, quyền
sử dụng đất tại thửa số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích: 4.795,4m
2
là thuộc quyền sử
12
dụng hợp pháp của ông Nguyễn Văn S, do đó, tại thời điểm hiện nay, việc anh
Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B và chị Nguyễn Thị T1 tiếp tục thực hiện việc
cầm cố đất là không đúng theo quy định của pháp luật. Bỡi lẽ, việc cầm cố đất
không được pháp luật thừa nhận, tài sản là quyền sử dụng đất không phải là tài
sản của anh Bùi Thanh P và chi Huỳnh Thị Bé B. Do đó, giao dịch dân sự về
cầm cố đất giữa anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B và chị Nguyễn Thị T1
theo Giấy cam kết ngày 06/5/2017 âm lịch tính đến thời điểm hiện nay là không
có giá trị pháp lý, không phù hợp với quy định của pháp luật nên bị vô hiệu. Do
giao dịch dân sự bị vô hiệu nên các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã
nhận. Cụ thể: anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba phải cùng chịu trách
nhiệm hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị T1 số tiền đã nhận là 250.000.000 đồng.
Do thửa số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích: 4.795,4m
2
hiện thuộc quyền sử dụng
hợp pháp của ông Nguyễn Văn S nên chị Nguyễn Thị T1, anh Bùi Thanh P và
chị Huỳnh Thị B1 Ba phải cùng chịu trách nhiệm giao trả lại thửa đất số 68, tờ
bản đồ số 8, diện tích: 4.795,4m
2
, tọa lại tại ấp S, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng
lại cho ông Nguyễn Văn S trực tiếp canh tác, quản lý và sử dụng.
[10] Từ những nhận định tại mục [8] và mục [9] thì Hội đồng xét xử cấp
sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn S và yêu cầu
độc lập của chị Nguyễn Thị T1 là có căn cứ, nên kháng cáo của anh P phần này
không có căn cứ chấp nhận.
[11] Từ phân tích tại các mục [8] đến mục [10] thì Hội đồng xét xử cấp
phúc quyết định căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp
nhận kháng cáo của anh P và lời đề nghị của luật sư bảo vệ quyền lợi cho anh P
và giữ nguyên án sơ thẩm nêu trên.
[12] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, nên Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[13] Về án phí phúc thẩm: Do án sơ thẩm giữ nguyên, nên người kháng
cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự
và khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn anh Bùi Thanh P. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 243/2024/DS-ST ngày 13 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng như sau:
13
Căn cứ các khoản 3, 5 và 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 91,
Điều 93, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 161, khoản 1 Điều
165, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ
luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 131, Điều 166, Điều 357, Điều 468, Điều
457, Điều 459, Điều 500, Điều 502, Điều 503 và Điều 688 Bộ luật dân sự năm
2015; Điều 105, Điều 152, Điều 167, Điều 195 và Điều 203 Luật Đất đai năm
2013; khoản 2, khoản 3, khoản 9 Điều 26, Điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án. Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Thanh P và
toàn bộ yêu cầu độc lập của chị Huỳnh Thị Bé B, về việc: Hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn Văn S đứng tên tại thửa đất số 68, tờ
bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước,
tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 và công nhận
quyền sử dụng đất này cho anh Bùi Thanh P để anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh
Thị B1 Ba chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn.
2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn S:
2.1. Công nhận thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục
đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh
Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và môi
trường cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 là thuộc quyền sử dụng hợp
pháp của ông Nguyễn Văn S.
2.2. Tuyên bố hợp đồng cố đất giữa anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé
B và chị Nguyễn Thị T1 theo “Giấy cam kết” lập ngày 06/5/2017 được ký kết
giữa anh P, chị Huỳnh Thị B1 Ba và chị Nguyễn Thị T1 đối với thửa đất số 68,
tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử dụng: đất chuyên trồng lúa
nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc Trăng, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do Sở T3 cấp cho ông Nguyễn Văn S ngày 14/3/2023 là vô
hiệu.
2.3. Buộc anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B và chị Nguyễn Thị T1
phải giao trả lại thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích sử
dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng cho ông Nguyễn Văn S trực tiếp quản lý, canh tác, sử dụng theo quy định
của pháp luật. Phần thửa đất số 68, tờ bản đồ số 8, diện tích 4.795,4m
2
, mục đích
sử dụng: đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Số A, xã K, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng có tứ cận như sau:
+ Hướng Đông giáp thửa 65 có số đo 6,73m và thửa 77 có số đo 14,42m.
+ Hướng Tây giáp bờ kênh có số đo 17,50m.
+ Hướng Nam giáp thửa 70 có số đo 4,59m + 249,63m = 254,22m.
+ Hướng Bắc giáp thửa 67 có số đo 251,05m.
(có sơ đồ kèm theo)
14
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của chị Nguyễn Thị T1. Buộc anh
Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba cùng chịu trách nhiệm trả lại cho chị
Nguyễn Thị T1 số tiền 250.000.000 đồng.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu của người
được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Thanh P không
được chấp nhận, nên anh Bùi Thanh P phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng, do anh
Bùi Thanh P đã tạm ứng thanh toán trước toàn bộ nên xem như xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
5.1. Anh Bùi Thanh P phải chịu 600.000 đồng tiền án phí DSST đối với
yêu cầu khởi kiện không được HĐXX chấp nhận. Anh Bùi Thanh P đã nộp
600.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001020 ngày 04/12/2023
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kế Sách nên được khấu trừ, xem như
xong.
5.2. Chị Huỳnh Thị B1 Ba phải chịu 600.000 đồng tiền án phí DSST đối
với yêu cầu độc lập được HĐXX chấp nhận. Chị Huỳnh Thị Bé B đã nộp
600.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0005423 ngày 07/6/2024
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kế Sách nên được khấu trừ, xem như
xong
5.3. Anh Bùi Thanh P phải chịu 600.000 đồng tiền án phí DSST đối với
yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn S về việc công nhận quyền sử dụng đất và
tuyên bố hợp đồng cầm cố đất vô hiệu được HĐXX chấp nhận.
5.4. Anh Bùi Thanh P, chị Huỳnh Thị Bé B và chị Nguyễn Thị T1 phải
cùng chịu 300.000 đông tiền án phí DSST đối với yêu cầu đòi lại quyền sử dụng
đất của ông Nguyễn Văn S được HĐXX chấp nhận.
5.5. Anh Bùi Thanh P và chị Huỳnh Thị B1 Ba phải cùng chịu 12.500.000
đồng tiền án phí DSST đối với việc hoàn trả tiền cho chị Nguyễn Thị T1.
5.6. Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Văn S 900.000 đồng tiền tạm ứng án phí
theo biên lai thu số 0003641 ngày 19/3/2024 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Kế Sách.
5.7. Hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị T1 6.250.000 đồng tiền tạm ứng án
phí theo biên lai thu số 0005375 ngày 22/5/2024 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Kế Sách.
6. Về án phí phúc thẩm: Anh Bùi Thanh P phải chịu 300.000 đồng. Được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Anh Bùi Thanh P đã nộp 300.000 đồng tiền
tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007372 ngày 25/9/2024 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Kế Sách, như vậy anh P đã nộp xong.
7. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
15
tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận:THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự ;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND huyện Kế Sách;
- Chi cục THADS huyện Kế Sách;
- Lưu: HSVA – VP.
Hồ Văn Phụng
Tải về
Bản án số 286/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 286/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm