Bản án số 267/2025/HC-PT ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 267/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 267/2025/HC-PT ngày 27/05/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 267/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/05/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Ngày 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý 77/2025/TLPT-HC ngày 13 tháng 01 năm 2025 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính, quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 08/2024/HC-ST ngày 24/10/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum bị kháng cáo.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Võ Thị Ngọc Dung
Các Thẩm phán:
Ông Vũ Thanh Liêm
Bà Phan Thị Vân Hương
- Thư phiên tòa: Ông Phạm Minh Hoàng, Thư ký Tòa án cấp cao tại
Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: Ông Nguyễn Xuân Thanh - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ 77/2025/TLPT-HC
ngày 13 tháng 01 năm 2025 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính, quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 08/2024/HC-ST ngày 24/10/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1329/2025/QĐ-PT ngày 12 tháng
05 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Bùi Văn Q, sinh năm 1944. Địa chỉ: Thôn F, thị
trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Bùi Văn Q:
1. Ông Bùi Duy T, sinh năm 1971; địa chỉ: thôn F, thị trấn P, huyện N, tỉnh
Kon Tum, có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 267/2025/HC-PT
Ngày: 27-5-2025
V/v: “Khiếu kiện nh vi hành
chính, quyết định hành chính trong
lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
2. Nguyễn Thị Phú D; địa chỉ: tổ E phường N, thành phố K, tỉnh Kon
Tum; có mặt.
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân tỉnh K.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Ngọc T1 Chủ tịch UBND tỉnh K,
vắng mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của UBND tỉnh K: ông A B
Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh K, có mặt.
2. Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Kon Tum.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Chí T2 - Chủ tịch UBND
huyện N, vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND huyện N: Ông Nguyễn
Thanh H Phó trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện N; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH MTV C. Địa chỉ:
F P, phường D, thành phố K, tỉnh Kon Tum.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Ngô Văn M, có mặt.
Người kháng cáo Ủy ban nhân dân tỉnh K, Ủy ban nhân dân huyện N,
Công ty TNHH MTV C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo bản án sơ thẩm, người khởi kiện trình bày:
Ngày 29/12/1995, ông Bùi Văn Q được UBND huyện N cấp Giấy chứng
nhận Quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) số phát hành G164946, số vào scấp
GCN: 00059QSDĐ/NH đối với các thửa đất: Thửa đất số 64, tờ bản đồ số 02,
diện tích 5.850m2 đất nông nghiệp thửa đất số 85 tờ bản đồ số 02, diện tích
50.575m2 đất nông nghiệp. Đến năm 2020, thực hiện dự án xây dựng công trình
đường T thị trấn P, huyện N đã làm đường qua hai thửa đất này, tuy nhiên ông Q
không nhận được quyết định thu hồi đất và không bồi thường cho ông Q. Sau khi
làm đơn lên UBND huyện N, ông Q nhận được công văn số 3947/UBND-NC
ngày 18/12/2023 trả lời: Vị trí đất ông Bùi Văn Q kiến nghị đất đã được
UBND tỉnh K thu hồi giao đất cho Công ty TNHH MTV C. Năm 2020 thực
hiện dự án xây dựng công trình đường T thị trấn P, UBND huyện đã thu hồi đất
bồi thường cho Công ty TNHH MTV C”; đồng thời hướng dẫn ông Q khởi
kiện đến Toà án.
3
Do đó, ông Q khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi hành chính của
UBND huyện N về việc thu hồi đất là trái với quy định của pháp luật và yêu cầu
bồi thường đối với diện tích đất của gia đình ông Q.
Sau khi xem xét thẩm định tại chỗ thấy rằng:
- Diện tích đất thu hồi làm đường đi qua thửa số 64 có diện tích 2.152,5m2,
diện tích đất thu hồi làm đường đi qua thửa số 85 có diện tích 5.226,2m2.
- Kết quả còn thể hiện diện tích đất thu hồi làm đường nêu trên và phần đất
còn lại của ông Bùi Văn Q sau khi đã chuyển nhượng (tại thửa 85) nằm toàn bộ
trong diện tích đất được UBND tỉnh cho Công ty C thuê theo GCN QSDĐ số
U226507, số vào sổ cấp GCN 00094QSĐ/T vào ngày 26/9/2002.
Do đó, ông Q khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án hủy một phần giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số U226507, số vào sổ cấp GCN: 00094QSĐ/T vào
ngày 26/9/2002 cho Công ty TNHH MTV C.
Ý kiến của UBND huyện N:
Quá trình triển khai thực hiện ng tác bồi thường, giải phóng mặt bằng để
thực hiện dự án đầu xây dng công trình Đường trung tâm thị trấn P (điểm
đầu giao tại Km 1485+850 đường H, điểm cuối giao tại Km 1489+500 đường H)
được thực hiện theo đúng quy định, quá trình đo đạc, kiểm đếm tài sản gắn liền
với đất bị ảnh hưởng thu hồi, hộ gia đình ông Bùi Văn Q, thường trú tại thôn F,
thị trấn P không cung cấp bất cứ giấy tờ nào liên quan đến việc sử dụng thửa
đất nằm trong phạm vi ảnh hưởng thu hồi khi thực hiện dự án Đường T thị trấn
P. Khi đi thực địa, các quan chức năng của huyện đơn vị vấn đã thuê
Công ty TNHH T4 tiến hành kiểm tra thực địa khu đất tại thôn F, thị trấn P thuộc
phạm vi ranh giới thu hồi đất, giải phóng mặt bằng để thi công xây dựng công
trình. Tại buổi làm việc, Sau khi kiểm tra và soát các nội dung liên quan
xác định: Vị trí đất thu hồi đất để thực hiện đầu xây dựng công trình Đường
trung tâm thị trấn P iểm đầu giao tại Km 1485+850 đường H, điểm cuối giao
tại Km 1489+500 đường H) theo đơn kiến nghị của ông Bùi Văn Q thuộc Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành U226507, số vào sổ cấp GCN:
00094QSĐT được UBND tỉnh K cấp ngày 26/9/2002 (thửa đất số 08T, tờ bản đồ
số 01 với diện tích 267.400 m2, loại đất đang sử dụng: đất trồng cây lâu năm
thửa đất 55T, tờ bản đồ số 01-02 với diện tích 3980.841 m2, loại đất đang s
dụng: đất trồng cây lâu năm) cho Công ty C (Nông trường cao su P). Trong đó:
Thửa đất số 85, tờ bản đồ trích đo địa chính số 02, với diện tích thu hồi 7.603,4
m2; loại đất đang sử dụng: đất trồng cây lâu năm tại thôn F, thị trấn P, huyện N,
tỉnh Kon Tum; thửa đất số 64, tờ bản đồ trích đo địa chính số 02, với diện tích
4
thu hồi 1.015,7m2 loại đất đang sdụng: đất trồng cây lâu năm tại thôn F, thị
trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum.
Giấy chứng nhận QSDĐ số phát hành G164946, số vào số cấp GCN:
00059QSDĐ/NH được UBND huyện N cấp ngày 29/12/1995 cho ông Bùi Văn
Q (thửa đất số 64, 85 tờ bản đồ số 02) đã được UBND huyện N thu hồi GCN
QSDĐ tại Quyết định số 341/QĐ-UBND ngày 27 tháng 11 năm 2003 về việc thu
hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đã cấp những năm trước
đây trên địa bàn thị trấn P, huyện N; UBND huyện không quyết định thu hồi
quyền sử dụng đất chi tiết. Do đó, kể từ ngày 27/11/2003 trở đi GCN QSDĐ số
phát hành G164946 cấp cho ông Bùi Văn Q không còn giá trị pháp theo quy
định của pháp luật. Việc ông Q vẫn thực hiện chuyển nhượng được vào năm
2016 cho ông A B1 và bà Lại Thị T3 là do diện tích đất này UBND tỉnh chưa thu
hồi nên ông Q vẫn quyền sử dụng do đó chuyển nhượng được. Tuy nhiên, lỗi
của Văn phòng đăng đất đai huyện N đây giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã được thu hồi nhưng vẫn thực hiện đăng ký biến động trên giấy này.
Đối với yêu cầu khởi kiện yêu cầu Hủy một phần giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất, Ủy ban nhân dân tỉnh K đã thực hiện đúng quy định, do đó đề nghị
Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn Q.
Ý kiến của UBND tỉnh K:
Về thủ tục cấp đất, cấp GCN QSDĐ cho Công ty C tại thị trấn P, huyện N,
hồ sơ cấp đất đã được Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện N thẩm tra và xác nhận
vào Đơn đăng quyền sử dụng đất cho Công ty C về các nội dung: Về hiện
trạng sử dụng đất; về tình trạng tranh chấp, khiếu nại về đất đai; về quy hoạch sử
dụng đất. Sau khi kiểm tra hồ sơ hợp lệ, xác định đây là trường hợp quy định tại
điểm 3.a Chương 2 của Thông số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30 tháng 11
năm 2001 của Tổng Cục Địa chính. Do đó, không thực hiện các bước c. d, đ,
khoản 3, mục I, chương 3 Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30 tháng 11
năm 2001 của Tổng Cục Địa chính.
Sở Địa chính tỉnh Kon Tum đã phối hợp với Ủy ban nhân dân thị trấn P,
Phòng Địa chính huyện N, Công ty C tiến hành thẩm định hồ sơ, xem xét mức
độ đầy đủ, chính xác của hồ sơ, xác định đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Sở Địa chính tỉnh Kon Tum tham mưu trình Ủy ban nhân dân
tỉnh ký Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Công ty C theo quy định.
Về quá trình sử dụng đất của ông Bùi Văn Q: Ông Bùi Văn Q được Ủy ban
nhân dân huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 29/12/1995,
số vào số 00059 QSDĐ NH tại thừa số 64 tờ bản đồ số 02 diện tích 5.850m2 và
thửa đất số 85 tờ bản đsố 02 diện tích 50.525m2. Tuy nhiên, ông Bùi Văn Q
5
chỉ sử dụng tại thửa đất số 85 tờ bản đồ số 02 diện tích 50.525m2 (hiện thừa đất
này ông Bùi Văn Q đã chuyển nhượng một phần cho các hộ dân đã được
chính biến động đất đai); Đối với thừa số 64 tờ bản đồ số 02 diện tích
5.850m2 sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất ông Bùi Văn Q
không sử dụng đất. Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh K ban hành Quyết định số
80/QĐ-UB ngày 10/12/1998 về thu hồi giao đất trồng cao su năm 1997 cho
Công ty C trên địa bàn huyện N. Từ khi được giao đất, Công ty C sử dụng đất ổn
định. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, không tranh chấp, ông Q
không sử dụng đất, không thực hiện nghĩa vụ tài chính gì đối với diện tích đất và
không ý kiến kiến nghị phản ánh về việc sử dụng đất của Công ty TNHH
MTV C. trong hồ địa chính được đo đạc năm 2002 cũng không thể hiện
hộ gia đình ông Bùi Văn Q có quyền sử dụng đối với phần đất này.
Như vậy, việc Ủy ban nhân dân tỉnh K Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số U 226507 ngày 26 tháng 9 năm 2002 cho Công ty C đúng theo quy
định.
Ý kiến của Công ty TNHH MTV C:
Năm 1996, Công ty phối hợp cùng với chính quyền địa phương người
dân kiểm tra, thống về diện tích đất canh tác, cây cối hoa màu trên đất của
từng hộ dân, tiến hành chi trả tiền khai hoang, đền đất, cây cối hoa màu trên
đất và được người dân đồng thuận, thống nhất. Trên sở đó, UBND tỉnh K thu
hồi đất của người dân giao đất cho Công ty để trồng cây cao su, Công ty sau
đó đã cải tạo và trồng mới cao su. Sau khi trồng cao su ổn định Công ty được Ủy
ban nhân dân tỉnh C1 giấy chứng nhận quyền sdụng đất. Hàng năm, Công ty
nộp nghĩa vụ tài chính về đất đai đầy đủ, đúng quy định.
Đối với diện tích thu hồi để thực hiện dự án Đường trung tâm thị trấn P ảnh
hưởng đến diện tích đất Công ty thuê của Nhà nước, do đó Công ty chỉ nhận tiền
đền về tài sản trên đất là cây cao su, không liên quan đến diện tích đất
không có tranh chấp với ông Bùi Văn Q.
Công ty C hai hình sản xuất cao su đại điền và cao su tiểu điền,
trong đó cao su tiểu điền là hình thức liên kết giữa công ty với các hộ dân, người
dân có đất (đất thuộc QSD của người dân), Công ty Đ khi tiến hành khai thác
giữa hộ dân và Công ty T5 phân chia tỷ lệ sản phẩm; Cao su đại điền là hình
thức toàn bộ đất đai đầu thuộc về Công ty (đất được nhà nước giao hoặc
cho thuê) người dân nhận khoán chăm sóc thu hoạch, công ty hộ nhận
khoán thoả thuận chia tỷ lệ sản phẩm.
Hộ ông Bùi Văn Q tham gia với Công ty C theo trường hợp giao nhận
khoán, công ty đầu toàn bộ tiền trồng chăm sóc cao su trong thời kỳ kiến
6
thiết bản, sau đó giao khoán cho người dân trên địa bàn nhận khoán, chăm
sóc khai thác nhằm tạo công ăn việc làm cho người dân. Hồ bồi thường
cho gia đình ông Q để thu hồi đất đã lâu nên hiện thất lạc, không còn hồ sơ.
Đối với hình thức này tđất thuộc quyền sử dụng của Công ty C, không thuộc
quyền sử dụng của người dân. Công ty C được giao đất (cho thuê đất) theo đúng
quy định pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vđối với nnước, do đó yêu cầu
Tòa án bác yêu cầu khởi kiện.
Tại Bản án hành chính thẩm số 08/2024/HC-ST ngày 24/10/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Văn Q.
- Hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U226507, số vào
sổ cấp GCN: 00094QSĐ/T do Ủy ban nhân dân tỉnh K cấp ngày 26/9/2002 cho
Công ty TNHH MTV C (tại thửa 28 tờ bản đồ số 01, 02 đối với phần diện tích
đất chồng lấn với thửa đất số 64, 85, tờ bản đồ số 02 tại thị trấn P, huyện N, tỉnh
Kon Tum theo giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số G164946, số vào số cấp
GCN: 00059QSDĐ/NH ngày 29/12/1995).
- Buộc UBND huyện N thực hiện lại việc thu hồi đất và xây dng phương
án đền bù đối với diện tích làm đường trên diện tích đất tại các thửa 64, 85 tờ
bản đồ số 02 tại thị trấn P theo GCN QSDĐ số phát hành G164946, số vào sổ
cấp GCN: 00059QSDĐ/NH ngày 29/12/1995 mang tên hộ ông Bùi Văn Q.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
*Sau khi xét xử thẩm, ngày 30/10/2024, Ủy ban nhân dân tỉnh K, Ủy
ban nhân dân huyện N, Công ty TNHH MTV C đơn kháng cáo, để nghị Tòa
án cấp phúc thẩm xem xét hủy bản án thẩm, nhận định của bản án sơ thẩm
không đúng, không thuyết phục.
*Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ý kiến của người bảo vệ quyền lợi của UBND tỉnh, UBND huyện giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo, đây đất nông nghiệp, người sử dụng không sử
dụng 24 tháng, Công ty sử dụng được giao đất nên đnghị chấp nhận kháng
cáo.
Ý kiến của đại diện Công ty: giữ nguyên kháng cáo, Công ty được giao
đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng theo quy định, ông Q hợp
đồng giao khoán vườn cây với Công ty nên thực tế đất này đã được cấp cho
Công ty.
7
Ý kiến của đại diện uỷ quyền người khởi kiện: đề nghị giữ nguyên bản án
thẩm, bởi: đất này ông Q sử dụng khai hoang từ năm 1993, được cấp Giấy
chứng nhận 1995, ông Q trồng sắn trước khi thoả thuận trồng cây Cao su với
Công ty, Công ty đầu vật tư, cây trồng, ông Q góp đất. Diện tích đất của ông
Q giao cho Công ty không quyết định thu hồi, bồi thường cho gia đình
ông Q.
Quan điểm của đại diện Viên kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
- Về việc tuân theo pháp luật từ khi thụ vụ án, quá trình giải quyết vụ
án tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư phiên tòa đã thực
hiện đảm bảo đúng các quy định của Luật tố tụng Hành chính.
- Về nội dung: Đề nghị bác kháng cáo của người bkiện, người quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và tranh
tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục:
[1.1] Phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt các đương stheo quy định tại
Điều 225 Luật tố tụng Hành chính.
[1.2] Tòa án cấp thẩm thụ lý, giải quyết đúng đối tượng, thẩm quyền,
còn thời hiệu quy định tại Điều 30, Điều 32, Điều 116 Luật tố tụng Hành chính.
[2] Về nội dung kháng cáo:
[2.1] Ngày 29/12/1995, ông Bùi Văn Q được UBND huyện N cấp Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất (GCN QSDĐ) số phát hành G164946, số o sổ
cấp GCN: 00059QSDĐ/NH đối với các thửa đất: Thửa đất số 64, tờ bản đồ số
02, diện tích 5.850m2 đất nông nghiệp thửa đất số 85 tờ bản đồ số 02, diện
tích 50.575m2 đất nông nghiệp, nguồn gốc do gia đình ông Q khai hoang. Giấy
chứng nhận này cấp đúng đối tượng, đúng thẩm quyền, chưa bị quan có thẩm
quyền thu hồi. Trong Giấy chứng nhận này, phần diện tích gia đình ông Q
thực hiện chuyển nhượng nhiều lần được Văn phòng Đăng Đất đai chỉnh
lý biến động, lần chỉnh lý sau cùng vào năm 2016.
[2.2] Thực hiện chủ trương chuyển đổi cây trồng phát triển kinh tế, Công ty
TNHH MTV C đã thực hiện trồng cây cao su trên địa bàn thị trấn P, huyện N
vào năm 1997. Tổng diện tích đất Công ty C san ủi và trồng cây Cao su, một
phần đất là của người dân đã được nhà nước cấp Giấy chứng nhận Quyền sử
8
dụng đất, trong đó có diện tích đất của ông Bùi Văn Q. Ngày 10/12/1998, UBND
tỉnh K ban hành Quyết định số 80/QĐ-UB về thu hồi giao đất trồng Cao su
năm 1997 cho Công ty C trên địa bàn huyện N, không quyết định thu hồi chi
tiết đối với tổ chức, nhân bị thu hồi đất, không tài liệu thể hiện diện tích
đất thu hồi của hộ ông Q nhận được Thông báo niêm yết công khai cũng như
bồi thường theo quy định. Trên cơ sở quyết định giao đất, năm 2002 thì Công ty
C làm Đơn để nghị được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng
toàn bộ diện tích đất đã trồng cây Cao su nêu trên.
[2.3] Như mục [2.1] [2.2] nêu, xét, diện tích đất trên của ông Q được cấp
Giấy chứng nhận vào năm 1995, Công ty C trồng cây cao su trên phần diện
tích đất của hộ ông Q năm 1997; Công ty có Quyết định giao đất năm 1998, năm
2002 mới được cấp Giấy CNQSD đất. Điều đó, thể hiện Công ty C san ủi và
trồng cây cao su trên phần diện tích đất của hộ ông Q trước khi Công ty có quyết
định giao đất của cơ quan thẩm quyền; quan có thẩm quyền chưa quyết
định thu hồi đất của ông Q; quy trình cấp Giấy chứng nhận đất cho Công ty C
trong đó diện tích đất của ông Q thực hiện không đúng quy định tại Điều 28
Luật Đất đai năm 1993 Thông 199/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của
T6. Chính vậy, ông Q cho rằng năm 1997, ông hợp đồng với Công ty ông
góp đất với Công ty, Công ty đầu giống, cung cấp vật tư, để cùng chăm sóc,
thu hoạch và chia lợi nhuận; ông không thể biết diện tích đất của gia đình ông đã
được cấp cho Công ty C. Việc khai nại của ông Q phù hợp tài liệu Công ty cung
cấp Hợp đồng kết giữa hai bên, thể hiện thời điểm ký hợp đồng ngày
10/9/1997, thời điểm này Công ty chưa có Quyết định giao đất.
[2.4] Như vậy, sở xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
U226507, số vào sổ cấp GCN: 00094QSĐ/T ngày 26/9/2002, UBND tỉnh K cấp
cho Công ty C liên quan đến diện ch đất của hộ ông i Văn Q không đúng
quy định pháp luật đất đai, cấp chồng lấn. Theo đó, hồ sơ thu hồi, bồi thường
diện tích làm đường trên diện tích đất của ông Q, đã thực hiện đền cho Công
ty không đúng đối tượng. Nên Tòa án cấp thẩm hủy một phần Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất của Công ty C liên quan đến diện tích đất hộ ông Q
buộc UBND huyện N thực hiện lại việc thu hồi đất xây dựng phương án đền
đúng quy định pháp luật đối với diện tích làm đường trên diện tích đất tại các
thửa 64, 85 tờ bản đồ số 02, theo GCN QSDĐ số phát hành G164946, ngày
29/12/1995 mang tên hộ ông Bùi Văn Q căn cứ, phù hợp, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của hộ ông Q.
[3] Từ các phân tích trên, HĐXX phúc thẩm bác kháng cáo của những
người kháng cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
9
[4] Chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao Đà
Nẵng tại phiên tòa.
[5] Về án phí phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận, nên người
kháng cáo phải chịu án phí theo quy định.
[6] Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên:
1. Bác kháng cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh K, Ủy ban nhân dân huyện N,
Công ty TNHH MTV C. Giữ nguyên Quyết định Bản án hành chính thẩm số
08/2024/HC-ST ngày 24 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum
về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân tỉnh K, Ủy ban nhân dân
huyện N, Công ty TNHH MTV C mỗi người kháng cáo phải chịu 300.000 đồng,
nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại các Biên lai thu số
0000151 ngày 15/11/2024, 0000049 ngày 12/11/2024 0000048 ngày
12/11/2024 đều của Cục thi hành án Dân sự tỉnh Kon Tum.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Kon Tum;
- VKSND tỉnh Kon Tum;
- Cục THADS tỉnh Kon Tum;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Võ Thị Ngọc Dung
Tải về
Bản án số 267/2025/HC-PT Bản án số 267/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 267/2025/HC-PT Bản án số 267/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất