Bản án số 257/2024/HS-PT ngày 11/04/2024 của TAND cấp cao về tội giết người
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
ban-an-257_2024_HS-PT_ HCM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
ban-an-257_2024_HS-PT_ HCM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 257/2024/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 257/2024/HS-PT ngày 11/04/2024 của TAND cấp cao về tội giết người |
|---|---|
| Tội danh: | 123.Tội giết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 257/2024/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 11/04/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 257/2024/HS-PT
Ngày 11 tháng 4 năm 2024
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Văn Công
Các thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Vương Minh Tâm
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Tú Anh – Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Trần Ngọc Đảm – Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử phúc thẩm trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số
94/2024/TLPT-HS ngày 29 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Võ Ngọc L, do có
kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2023/HS-ST ngày
20/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận.
Bị cáo có kháng cáo: Võ Ngọc L (Tên gọi khác: C), sinh năm 1996 tại tỉnh
Bình Thuận; Nơi thường trú: Khu phố Minh Tân 4, thị trấn Phan Rí Cửa, huyện
Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa
(học vấn): Lớp 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc
tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Xin và bà Nguyễn Thị Hạnh; Có vợ tên là
Huỳnh Thị Thu T và 03 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định số
104/QĐ-UB-NC ngày 11/10/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tuy
Phong đưa vào Trường giáo dưỡng đến ngày 13/10/2012 chấp hành xong; Bản
án hình sự sơ thẩm số 83/2013/HSST ngày 04/9/2013 của Tòa án nhân dân
huyện Tuy Phong phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành
hình phạt xong ngày 04/5/2016; Bị bắt tạm giam từ ngày 26/4/2023 đến nay, có
mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Huỳnh Anh Tú, Công ty
Luật Trách nhiệm hữu hạn Ngọc Lâm và Cộng sự thuộc Đoàn luật sư Thành phố
Hồ Chí Minh - Có mặt;
2
Ngoài ra còn có bị cáo Võ Chí T
1
, 01 người đại diện hợp pháp của người
bị hại và 02 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không
liên quan đến kháng cáo;
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Chị Huỳnh Thị Thu T sống chung như vợ chồng với anh Đặng Thanh V
từ năm 2012 cho đến năm 2013 thì mâu thuẫn nên chia tay. Khoảng tháng
9/2016, T và Võ Ngọc L yêu nhau, anh V biết được việc này nên trưa ngày
22/5/2017, V từ Thành phố Hồ Chí Minh về nhà ở Phan Rí Cửa rồi điện thoại
gọi chị T đến để nói chuyện. Trong khi nói chuyện, T và V xảy ra mâu thuẫn thì
V dùng tay, chân đánh chị T và đe dọa sẽ đánh Võ Ngọc L. Thảo bỏ ra về, điện
thoại cho L biết thì L chở Võ Văn Thái (Xéo) đi tìm V, nhưng không gặp.
Khoảng 19 giờ ngày 22/5/2017, V điện thoại hẹn T đến cây xăng Lê Sinh
để nói chuyện thì T điện thoại cho L biết và nói không dám đi một mình vì sợ V
đánh. L nói để L chở T đi và điện thoại cho Võ Chí T
1
hỏi mượn hung khí. L đi
xe máy đến bờ kè cảng biển Phan Rí Cửa, gần nhà cha mẹ nuôi của T
1
là ông
Nguyễn Ngắn và bà Trần Thị Hồng, gặp nhau thì T
1
hỏi: “Đụng chuyện với ai
vậy?”, L nói: “Có thằng đòi đánh, giết tôi bạn à”. T
1
xin theo để giải quyết mâu
thuẫn thì L đồng ý và bảo T
1
đi lấy hung khí. T
1
vào nhà ông Nguyễn Ngắn lấy
01 con dao bằng kim loại dài khoảng 30 cm, lưỡi dài 20 cm, rộng khoảng 03-04
cm cài vào lưng quần bên phải rồi ra sạp ngoài bãi biển lấy 01 cây dao tự tạo
bằng kim loại, dài khoảng 70 cm, lưỡi dài khoảng 55 cm, rộng khoảng 07-08
cm, mũi nhọn để lên yên xe, cả hai ngồi trên con dao tự tạo rồi L chở T
1
đến nhà
chị T thì T nói nãy giờ V điện thoại đòi đánh, đòi giết. Đúng lúc này, V gọi điện
đến nên L kêu T hỏi V đang ở đâu, T mở loa ngoài nên nghe thấy V đang ở cây
xăng Lê Sinh, L lên xe định chở T
1
đi thì T ôm L ngăn lại, giằng co một lúc thì
T nhảy lên xe máy, T
1
điều khiển xe chở L và T đến cây xăng Lê Sinh.
Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi đến trước cửa nhà Tân Hải Hưng bên cạnh
cây xăng Lê Sinh (có đèn đường chiếu sáng), T
1
cầm dao tự chế đặt lên xích đu,
L hỏi T là V tới chưa? Đi xe màu gì? thì T nói “Đi Sirius màu đỏ đen”. L nhìn
sang đường thấy có thanh niên đứng cạnh xe Sirius thì hỏi T “Phải nó không?”
T trả lời: “Ổng đó”. L lấy cây dao tự tạo định chạy sang đường để đánh V
nhưng bị T ngăn lại nên L kêu T
1
: “Bạn qua bắt nó lại cho mình nói chuyện một
chút”, T
1
chạy sang chỗ V và nói: “Bạn ơi, cho bạn mình nói chuyện”, thì lúc
này L thoát khỏi T và chạy qua đường nói: “Mày là V hả, tại sao mày đòi giết
tao”, đồng thời dùng chân đạp vào bụng V nhưng V tránh được; L dùng tay phải
đánh vào mặt V thì V đưa tay lên đỡ và đánh lại L, T
1
thấy vậy liền cầm dao
bằng tay phải đâm một nhát hướng từ trên xuống dưới trúng vào vai trái của V
rồi rút dao ra. Bị đâm, V bỏ chạy vào nhà ông Trần Đức Trường ở gần đó, thì
gục ngã, sau đó được đưa đến Phòng khám đa khoa khu vực Phan Rí Cửa cấp
cứu, nhưng đã tử vong.
3
Thấy V bị đâm và bỏ chạy, nhìn thấy T
1
cầm con dao dính máu thì L hỏi
đã đâm trúng V chỗ nào, T
1
nói đâm vào vai, L không nói gì và chở T
1
về nhà
ông Ngắn, T
1
đem con dao tự tạo để lại chỗ sạp và ném con dao đã sử dụng đâm
V xuống khu vực kè biển rồi về nhà thay quần áo, còn L chạy xe đến phòng
khám để nghe ngóng, biết V đã chết thì báo cho T và T
1
biết và kêu đến khu vực
Gành Son cùng thuê nhà trọ nghỉ. Tại nhà nghỉ, T
1
định ra đầu thú thì L nói ra
nhận luôn cho L, L và T sẽ đi trốn, T
1
không đồng ý mà muốn L cùng ra đầu thú.
Ngày hôm sau (ngày 23/5/2017) L và T đi xe khách vào Thành phố Hồ Chí
Minh để trốn, trên đường đi, L điện thoại kêu T
1
đầu thú nhận một mình thì L sẽ
đưa cho T
1
100.000.000 đồng và hàng tháng sẽ gửi thêm tiền, nhưng T
1
không
đồng ý và đi đầu thú khai nhận toàn bộ sự việc.
Trên xe khách, T khuyên L đầu thú nhưng L chưa nghe. Đến khi người
nhà báo tin T
1
đã đầu thú thì ngày 24/5/2017 L trở về Phòng Cảnh sát hình sự
Công an tỉnh Bình Thuận đầu thú và khai ra toàn bộ sự việc.
Biên bản khám nghiệm hiện trường lập lúc 23 giờ ngày 22/5/2017 thể
hiện sự việc xảy ra ở khu vực lề đường trước các nhà số: 105, 107, 109, 111
Quốc lộ IA thuộc thôn Lâm Lộc 1, xã Hòa Minh, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình
Thuận.
Kết luận giám định pháp y tử thi số 140/2017/KN-TT ngày 13/7/2017 của
Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận đối với Đặng Thanh V thể hiện như sau: Vết
thương vùng ngực trái, đầu ngoài xương đòn trái, cung liên sườn trái có vết
thương mép sắc gọn, kích thước (2,5 x 01) cm, hướng từ trái qua phải, từ trên
xuống dưới, thấu ngực, thủng phổi trái đứt cung động mạch chủ do vật sắc nhọn
tác động theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái qua phải. Sốc không hồi phục do
mất máu cấp, suy tuần hoàn cấp dẫn đến tử vong.
Cơ quan điều tra tổ chức truy tìm con dao Võ Chí T
1
đã sử dụng để gây
án, nhưng không tìm thấy nên không thu giữ được.
Hành vi của Huỳnh Thị Thu T không phạm tội nên không xử lý.
Tại Bản cáo trạng số 22/CT-VKSBT-P2 ngày 05/10/2017 của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Võ Chí T
1
về tội “Giết người”
theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009;
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2017/HS-ST ngày 08/12/2017 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã áp dụng pháp luật và xử phạt Võ Chí T
1
tù
chung thân về tội “Giết người”;
Ngày 15/12/2017, bị cáo Võ Chí T
1
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;
Bản án hình sự phúc thẩm số 169/2020/HS-PT ngày 06/5/2020 của Tòa
án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng pháp luật và quyết
định: Bác kháng cáo của bị cáo Võ Chí T
1
, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định số 05/QĐ-
VKSTC-V7 ngày 31/3/2022 kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên.

4
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 20/2022/HS-GĐT ngày 30/11/2022 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã áp dụng pháp luật và quyết
định: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 169/2020/HS-PT ngày 06/5/2020 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và hủy Bản án hình sự sơ
thẩm số 38/2017/HS-ST ngày 08/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại, với nhận
định hành vi phạm tội của Võ Ngọc L và Võ Chí T
1
có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó L là người khởi xướng, chủ mưu, còn T
1
là người thực hành,
cùng đồng phạm về tội giết người.
Người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bồi thường tổng cộng
là 124.580.000 đồng, gia đình bị cáo Võ Chí T
1
đã bồi thường tổng cộng
36.000.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 6459/CT-VKSTC-V2 ngày 21/8/2023 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã truy tố bị cáo Võ Ngọc L để xét xử về tội “Giết người”
theo điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự và còn truy tố Võ Chí T
1
;
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2023/HS-ST ngày 20/12/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã quyết định:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ
sung năm 2009, nay là điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và điểm s
khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;
Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc L phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Võ Ngọc L 18 (Mười tám) năm tù. Thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 26/4/2023.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh và hình phạt đối với Võ
Chí T
1
; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án
phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án, trách nhiệm do chậm thi hành án và
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/12/2023, bị cáo Võ Ngọc L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt tù.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Bị cáo Võ Ngọc L trình bày bị cáo cũng không biết T
1
mang theo con dao
để gây án, bị hại chết là ngoài ý muốn của bị cáo, bị cáo đã đầu thú, hoàn cảnh
gia đình vô cùng khó khăn, mẹ già nhiều bệnh tật, bị cáo là lao động chính trong
gia đình, con còn nhỏ, bị cáo đã tự nguyên nuôi con của anh V đến nay được 06
năm, sau khi Tòa sơ thẩm xét xử thì cha của bị cáo chết nên gia đình không còn
tiền để bồi thường thêm cho người bị hại, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm
về lo cho gia đình và đi làm kiếm tiền tiếp tục bồi thường cho gia đình người bị
hại.
Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét sau khi điều tra lại thì tình
tiết của vụ án không có gì thay đổi, không có chứng cứ chứng minh bị cáo biết
T
1
mang theo con dao nhỏ để gây án, bị cáo không bàn bạc, xúi giục hay kêu T
1
5
đâm bị hại, hành vi T
1
đâm bị hại là độc lập, nằm ngoài ý thức của bị cáo, nên bị
cáo L không đồng phạm tội Giết người, mà hành vi của L có dấu hiệu của tội
Gây rối trật tự công cộng. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã xem
xét thì tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo khai đã tự nguyện nuôi con của
người bị hại từ năm 2017 đến nay, nên đề nghị xem xét cho bị cáo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có
ý kiến: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy
định của pháp luật tố tụng hình sự; Đơn kháng cáo hợp lệ, đủ điều kiện giải
quyết phúc thẩm; Về nội dung Bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Võ Ngọc L
phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và quyết
định hình phạt đối với bị cáo là tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có
tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Võ Ngọc L đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ
điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Lời khai nhận của bị cáo Võ Ngọc L phù hợp với lời khai nhận của Võ
Chí T
1
, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản thu giữ vật
chứng, Biên bản khám nghiệm tử thi, Kết luận giám định pháp y về tử thi, Biên
bản thực nghiệm điều tra, cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ
căn cứ để xác định: Xuất phát từ mâu thuẫn tình cảm, Võ Ngọc L điện thoại hỏi
mượn “đồ” của Võ Chí T
1
, L nhận dao từ T
1
, để lên yên xe mô tô rồi L và T
1
cùng ngồi lên để đến gặp anh V. Khi thấy V bên kia đường thì L chủ động cầm
dao chạy sang nhưng bị chị T ngăn lại thì L bảo T
1
chạy sang giữ V lại. Khi
thoát khỏi sự can ngăn của T thì L lập tức chạy sang dùng tay đánh V. Do thấy L
và V giằng co, T
1
muốn giúp L nên dùng dao đâm V chết. Quá trình xảy ra sự
việc, L luôn là người chủ động, T
1
và T đều là người thực hiện theo yêu cầu của
L. Mặc dù L không có lời nói chỉ đạo T
1
đâm V, nhưng qua lời nói và các hành
động quyết liệt, liên tục của L muốn đánh V đã tác động trực tiếp đến nhận thức,
ý chí của T
1
, dẫn đến T
1
tiếp nhận ý chí, mong muốn của L và thực hiện bằng
hành vi dùng dao đâm V. Khi nghe T
1
nói đã đâm V thì L cũng không nói gì,
chứng tỏ L chấp nhận hành vi của T
1
đâm V; đồng thời, khi biết V chết thì L bảo
T
1
nhận tội một mình thì L sẽ đưa tiền cho T
1
, còn L và T bỏ trốn. Hành vi phạm
tội của L và T
1
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, Bản án sơ thẩm tuyên
bố bị cáo Võ Ngọc L phạm tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1
Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người,
đúng tội, nên không có căn cứ để chấp nhận lời bào chữa của luật sư cho rằng
không có căn cứ để xác định bị cáo L đồng phạm tội “Giết người”.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm
phạm đến tính mạng của con người, gây tang tóc cho gia đình người bị hại, làm
mất an ninh trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử phạt nghiêm.

6
Bản án sơ thẩm đã xem xét bị cáo L phạm tội với vai trò là người khởi
xướng, chủ mưu và đã cân nhắc đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là:
Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú, người bị hại cũng có một phần lỗi
vì đã đe dọa đánh, giết bị cáo nên đã xử phạt bị cáo 18 năm tù là tương xứng,
không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ gì khác theo
quy định của pháp luật, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo
và lời bào chữa của luật sư, giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị
cáo theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh, là phù hợp.
[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối
với Võ Chí T
1
; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ
thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án, trách nhiệm do chậm thi
hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Ngọc L; Giữ nguyên Bản án
hình sự sơ thẩm số 81/2023/HS-ST ngày 20/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Thuận;
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Các
điều: 17, 38, 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc L (Tên gọi khác: C) phạm tội “Giết người”;
Xử phạt bị cáo Võ Ngọc L (Tên gọi khác: C), 18 (Mười tám) năm tù. Thời
hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/4/2023. Tiếp tục tạm giam bị cáo để
đảm bảo thi hành án.
3. Bị cáo Võ Ngọc L phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng
(Hai trăm ngàn đồng).
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối
với Võ Chí T
1
; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ
thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án, trách nhiệm do chậm thi
hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
7
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại TP.HCM;
- Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận;
- Công an tỉnh Bình Thuận;
- Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận;
- Cục THADS tỉnh Bình Thuận;
- Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Thuận;
(Trại tạm giam Công an tỉnh Bình Thuận
tống đạt cho bị cáo);
- Lưu: HS, VP, NTHN (23b).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Công
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm