Bản án số 248/2025/DS-PT ngày 26/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 248/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 248/2025/DS-PT ngày 26/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bến Tre
Số hiệu: 248/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: LÊ THỊ E TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN VỚI NGUYỄN THỊ G
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 248/2025/DS-PT
Ngày 26-5-2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay, hợp đồng mua
bán tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Huỳnh Ngọc Dũng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Chí Đức
Ông Lê Văn Phận
- Thư ký phiên tòa: Ông Võ Tấn Vũ - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Ông
Phạm Công Có - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2025/TLPT-DS ngày 31/3/2025 về “Tranh chấp
hợp đồng vay, hợp đồng mua bán tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 159A/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Ba Tri bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1409/2025/QĐ-PT ngày
25/4/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị E, sinh năm 1964
Địa chỉ: Số nhà B, ấp N, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn:Nguyễn Thị G, sinh năm 1970
Địa chỉ: Số nhà A, khu phố A, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bến Tre.
3. Người làm chứng:
3.1. Ông Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1986
Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện B, tỉnh Bến Tre.
3.2. Ông Bùi Văn Bóng E1, sinh năm 1973
Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện B, tỉnh Bến Tre.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Lê Thị E, bị đơn bà Nguyễn Thị G.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Lê Thị E trình
bày:
và bà G quen biết nhau G hay mua heo thịt, heo quay của bà. Trong
thời gian quen nhau đó, nói với bà G đang thế chấp sổ đỏ vay Ngân
hàng N chi nhánh M số tiền 60.000.000đ đã đến hạn thanh toán nên G
nói là bà G dẫn người lên nhà bà cho coi nhà và cho bà vay bên ngoài cho nhanh để
lấy tiền chuộc sổ về. Sau đó, G giới thiệu ông Nguyễn Hoàng L cùng bà Nguyên
T lên nhà bà để xem đất và nhà. Ông L đồng ý cho bà vay 200.000.000đ, ông L đưa
bà trước 60.000.000đ để đi chuộc sđỏ về. Khi chuộc sổ đỏ về thì ông L lên
đưa cho bà thêm 140.000.000đ. Sau khi ông L đưa tiền cho bà thì bà đưa tiền cho bà
G vay lại là 140.000.000đ. Khi vay tiền thì ông L giữ sổ đỏ G người đóng
lãi cho ông L, bà G đóng lãi cho ông L được 4 lần, mỗi lần đóng 8.000.000đ, tổng
cộng bà G có đóng lãi cho ông L 32.000.000đ từ đó đến nay thì không đóng lãi cho
ông L.
Khi bà đưa 140.000.000đ cho G ợn thì bà không có kêu G viết giấy tờ
gì, lúc đó T chứng kiến thấy vậy mới kêu cho vay mượn tiền lớn không
làm giấy tờ, nên bà T đưa tờ mẫu giấy cho vay tiền kêu bà đưa bà G viết ký tên vay
tiền, bà nhận mẫu giấy và đưa cho G viết, ký tên. G tự viết và ký tên trên giấy
cho vay tiền ngày 03/02/2023, bà không có xem lại, sau này xem lại thì bà G không
ký tên Nguyễn Thị G mà ký tên “ut” và ghi tên là “nguyễn thị út".
Vài tháng sau, G dẫn đi vay tiền bằng thẻ căn cước sim điện thoại
An Thủy người ta không cho vay nên G dẫn về thị trấn B vay Ngân hàng V.
Lúc này người ta cho bà vay 40.000.000đ, bà G kêu ghi sim bà và con của bà G, bà
hỏi bà G “sao không vay sim của bà vay sim của tôi, G nói sim của bà G
bị nợ xấu không vay được nên G kêu tôi cho bà G mượn sim của bà vay dùm cho
G và số điện thoại của con bà G để vay”. Bà nghe vậy nên bà ký tên vay số tiền
40.000.000đ với Ngân hàng, mỗi tháng trả một lần 2.500.000đ, trả đủ 60.000.000đ
thì thôi. Sau khi xong thủ tục người ta đưa 40.000.000đ đưa cho G mượn
lại hết là 40.000.000đ thì G đưa ngược lại 1.000.000đ để đưa hoa hồng cho
người cho vay. Số tiền này G trả cho Ngân hàng được 02 lần là 5.000.000đ,
còn lại là 55.000.000đ thì không trả nữa.
Đồng thời, trong năm 2022 đến năm 2023 bà G có nhiều lần mượn tiền và mua
thịt heo thiếu của nhiều lần. Sau này, G cộng lại G ghi số tiền ra G
tính tổng cộng còn nợ lại bà là 24.540.000đ. Bà G còn mua bà 01 con heo quay còn
thiếu lại bà 5.560.000đ.
Bà G không đóng lãi và không trả tiền cho bà, bà đã tìm kiếm yêu cầu bà G trả
tiền rất nhiều lần nhưng G không trả. Do đó, khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết như sau:
1. Yêu cầu Nguyễn Thị G phải nghĩa vụ trả cho bà tiền mà G đã vay
mượn nhiều lần mua thịt heo thiếu nhiều lần, cộng lại với số tiền: 24.540.000 đ
và không yêu cầu tính lãi.
2. Yêu cầu bà Nguyễn Thị G phải có nghĩa vụ trả cho bà tiền mua heo quay với
3
số tiền: 5.560.000đ, không yêu cầu tính lãi.
3. Yêu cầu bà Nguyễn Thị G phải có nghĩa vụ trả cho bà tiền vay và lãi với số
tiền: 223.240.000đ, trong đó bao gồm:
+ Tiền gốc: 200.000.000 đ.
+ Tiền lãi tính từ ngày 04/3/2023 đến ngày khởi kiện (20/10/2023) tạm tính
07 tháng với mức lãi suất: 20%/ năm, với số tiền: 1,66%/ tháng x 07 tháng
200.000.000đ = 23.240.000đ tiếp tục phải trả lãi suất theo mức lãi suất 20%/ năm
đến thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm.
4. Yêu cầu Nguyễn Thị G phải có nghĩa vụ thay trả cho Công ty TNHH
MTV V (F) 05 tháng (đã đến kỳhạn trả) 17 tháng (chưa đến kỳ hạn trả), mỗi tháng
trả 2.500.000 đ, tổng cộng số tiền là: 55.000.000đ.
Tổng cộng số tiền bà khởi kiện yêu cầu G trả cho bà là 308.340.000đ.
Ngày 26/7/2024, nguyên đơn bà E thay đổi yêu cầu như sau:
1. Đối với yêu cầu trả khoản tiền vay 200.000.000đ thì nay nguyên đơn xin thay
đổi lại chỉ yêu cầu trả G cho 140.000.000đ tính lãi tngày 04/3/2024 đến
ngày 04/7/2024 lãi suất 10% năm thành tiền là 18.666.000đ. Tổng cộng yêu cầu bà
G trả 158.666.000đ. Tại phiên a yêu cầu tính lãi từ ngày 04/7/2023 đến ngày xét
xử 18/9/2024 với mức lãi suất là 20%/năm tương đương 1,66%/tháng x 13 tháng là
30.212.000đ. Tổng cộng số tiền phải trả là 170.212.000đ.
2. Đối với yêu cầu bà Nguyễn Thị G phải có nghĩa vụ thay bà trả cho Công ty
TNHH MTV V số tiền là: 55.000.000 đ, nay thay đổi là yêu cầu bà G trả cho số
tiền 35.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.
3. Yêu cầu bà Nguyễn Thị G phải có nghĩa vụ trả cho tiền mà bà G đã mượn
mua thịt heo nhiều lần với tổng số tiền: 24.540.000đ không yêu cầu tính lãi,
giữ nguyên yêu cầu này.
4. Yêu cầu bà Nguyễn Thị G phải có nghĩa vụ trả cho bà tiền mua heo quay với
số tiền: 5.560.000 đ, không yêu cầu tính lãi, giữ nguyên yêu cầu này.
Qua thay đổi yêu cầu thì tổng số tiền yêu cầu G trả cho
235.312.000đ.
Trong quá trình tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Thị G trình bày:
Bà có quen biết E do bà hay mua thịt heo của bà E, bà E bán thịt heo ở ch
T1 m gần nhà bà. E than với E đang thế chấp đất vay Ngân hàng
chi nhánh ở xã M đã đến hạn mà không có tiền trả, nên bà có nói với bà E giờ muốn
có tiền liền để trả ngân hàng thì phải vay bên ngoài mới nhanh, bà E đồng ý nên bà
mới nói với ông Nguyễn Hoàng L trường hợp của E. Ông L đồng ý nên ông L lên
nhà E để xem xét đất đai nhà cửa cho E vay tiền để chuộc sổ. Việc vay tiền,
đưa tiền, đưa sổ đỏ giữa ông L E thỏa thuận thế nào thì bà không biết, vay bao
nhiêu lãi suất thế nào bà không biết. Lúc đókhông có mặt. Sau khi vay, vài ngày
thì bà E điện thoại kêu bà lên nhà của bà E để cho bà mượn tiền vì trước đó bà cũng
than khó khăn tiền bạc với E. Nên khi bà E điện nói vậy thì lên nhà
4
E mượn tiền của E, bà E đưa cho bà mượn 80.000.000đ, khi đó bà và E không
có lập giấy tờ gì. Việc bà E cho rằng đưa cho bà vay số tiền 140.000.000đ là không
đúng vì bà E đã đưa tiền đóng lãi cho ông L 02 tháng 16.000.000đ và đưa tiền hoa
hồng chi phí cho ông L 10.000.000đ thì số tiền ông L đưa cho E còn
114.000.000đ nên bà E đưa cho bà vay 140.000.000đ và bà T làm chứng có thấy bà
E đưa cho bà vay là 140.000.000đ là không đúng.
Sau khi E đưa cho vay 80.000.000đ thì bà E kêu đóng lãi cho ông L
mỗi tháng 8.000.000đ bà đồng ý và có đóng lãi cho ông L 04 tháng là 32.000.000đ.
Sau đó than với bạn không có tiền đóng lãi nên bạn bà Bùi Văn B Em cho
mượn 80.000.000đ để trả cho E, để không đóng lãi nửa, nên ngày 17/8/2023
nhận tiền của bạn đem lên nhà của bà E trả cho E 80.000.000đ, do khi E cho
mượn tiền không có viết giấy nợ nên khi trả tiền cho bà E thì cũng không
kêu bà E viết giấy nhận tiền trả. Khi đó đưa cho E rồi xong không còn
nợ nần gì E nửa và bà cũng không có đóng lãi cho ông L. Giấy cho vay tiền ngày
03/02/2023 bà E cung cấp cho Tòa án nói bà viết ký tên là không đúng, không
viết biên nhận nợ nào với E biên nhận đó ghi tên “út” ghi
Nguyễn Thị Ú” là không phải tên họ của bà.
Đối với số tiền vay qua số sim điện thoại 40.000.000đ E trình bày nói vay
cho bà vay lại là sai hoàn toàn, bà E than khó khăn không có tiền nên bà có nói với
E vay qua sim điện thoại của bà E và bà E đồng ý, nên bà cùng E đến bưu điện
B vay tiền qua sim điện thoại của bà E, người ta cho E vay 40.000.000đ và
người vay bắt E phải cho 02 số điện thoại của người thân để người ta ghi hồ
mới cho vay. Vì vậy, bà mới đưa 02 số điện thoại của 02 người con của bà cho bà E
đưa ghi hồ vay. Sau khi vay, bưu điện đưa choE đầy đủ số tiền 40.000.000đ
bà E đưa cho 5.000.000đ nói cho bà mượn nhưng kêu bà mỗi tháng đóng
2.500.000đ, bà đóng hai lần là 5.000.000đ, đóng ở điện máy xanh T là đủ số tiền bà
E đưa cho bà. E cho rằng vay cho bà vay lại hết 40.000.000đ trừ 5.000.000đ
đã trả yêu cầu bà trả tiếp 35.000.000đ cho bà E là bà không đồng ý.
Đối với số tiền 24.540.000đ thì E cho rằng mượn mua thịt heo thiếu
của E nhiều lần, khi hòa giải bà thống nhất bà có mượn tiền bà E nhiều lần. Tại
phiên tòa tcho rằng tiền này của chồng ghi số đề từ E giữ thể diện
cho chồng nên bà nhận đó là tiền vay. Sau khi tổng kết tiền nợ thì bà có trả dần cho
bà E nhiều lần được 18.000.000đ. E nói bà còn nợ E 24.540.000đ là bà không
đồng ý, phải trừ ra 18.000.000đ bà đã trả thì còn lại là 6.540.000đ, bà chỉ đồng ý trả
cho bà E 6.540.000đ. Khi bà mượn thìE tự ghi sổ và khi bà trả lần hồi vài trăm,
khi gặp E chợ H ngoài đường tđưa qua tay, tin tưởng không ghi
lại sổ sách cũng không kêu E đối chiếu nợ không kêu E ghi giấy nhận
tiền trả.
thừa nhận còn nE số tiền mua heo quay 5.560.000 đ, yêu cầu này
của bà E thì bà đồng ý trả.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Ba Tri đã đưa vụ án ra xét
xử.
5
Tại Bản án dân sthẩm số: 159A/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Ba Tri đã áp dụng các Điều 357, 430, 440, 463, 466, 468 Bộ luật
dân sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thị E. Buộc
bị đơn Nguyễn Thị G nghĩa vụ trả tổng cộng số tiền vay và mua thịt heo cho
nguyên đơn Thị E số tiền 127.364.000đ (Một trăm hai mươi bảy triệu ba
trăm sáu mươi bốn ngàn đồng).
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn E về yêu
cầu bị đơn G trả số tiền vay và lãi 107.948.000đ (Một trăm lẻ bảy triệu chín
trăm bốn mươi tám ngàn đồng).
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn E do rút lại yêu cầu
bị đơn G trả với số tiền vốn lãi 73.028.000đ (Bảy mươi ba triệu không trăm
hai mươi tám ngàn đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 30/9/2024, nguyên đơn Thị E kháng cáo một phần bản án thẩm,
đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Ngày 01/10/2024, bị đơn bà Nguyễn Thị G kháng cáo toàn bộ bản án thẩm,
đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn, bị đơn giữ nguyên kháng cáo.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng Dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị E, Nguyễn Thị
G, giữ nguyên Bản án thẩm số: 159A/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Ba Tri.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét
6
kháng cáo của bà Lê Thị E, bà Nguyễn Thị G; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn bà Thị E yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị G trả cho các
khoản gồm: Khoản vay 140.000.000đ tính lãi từ ngày 04/7/2024 đến ngày
18/9/2024 13 tháng lãi suất 20%/năm thành tiền lãi là 30.212.000đ, tổng cộng
170.212.000đ; khoản tiền vay mua thịt heo nhiều lần cộng lại còn nợ 24.540.000đ;
khoản vay 35.000.000đ; tiền mua heo quay 5.560.000 đ. Tổng cộng số tiền E yêu
cầu bà G trả là 235.312.000đ.
[2] Đối với khoản vay 140.000.000 đồng:
Căn cứ cho yêu cầu khởi kiện của khoản vay 140.000.000đ của nguyên đơn bà
E là giấy cho vay tiền ngày 03/02/2023 nhưng nội dung vay mượn tiền không
ràng, tên không đúng tên của bị đơn bà G G cũng không thừa nhận. E không
yêu cầu giám định chữ viết và chữ của G đối với biên nhận nợ trên nên chứng
cứ biên nhận nợ ngày 03/02/2023 không được xem xét chứng cứ chứng minh
G vay của E 140.000.000đ vào ngày 03/02/2024. Đối với chứng cứ lời
xác nhận của T, xác nhận này không phù hợp với trình bày của chính nguyên đơn
về stiền vay suốt trong quá trình tố tụng (khởi kiện yêu cầu số tiền 200.000.000
đồng, sau đó thay đổi thành 140.000.000 đồng) nên không đcăn cứ chứng minh
cho việc E có cho bà G vay số tiền 140.000.000đ. Việc G đóng lãi cho ông L
8.000.000đ/01 tháng thì cũng không chứng minh G vay của bà E
140.000.000đ, số tiền lãi bà G đóng hàng tháng 8.000.000đ cho ông L đóng cho
khoản vay 200.000.000đ của bà E đã vay của ông L với lãi suất 4% tháng. Mặc dù,
E không có chứng cứ chứng minh cho G vay số tiền 140.000.000đ nhưng
G đã thừa nhận vay của E số tiền 80.000.000đ từ khoản tiền E đã vay
của ông L hàng tháng bà G đóng lãi cho ông L 8.000.000đ gồm đóng luôn cho
phần lãi ca bà E phải đóng cho ông L nên có căn cứ là bà G vay của bà E số tiền
là 80.000.000đ.
Bà G cho rằng trả đủ cho bà E số tiền 80.000.000đ vào ngày 17/8/2023 nhưng
E không thừa nhận việc G trả cho bà 80.000.000đ. Nhân chứng ông Bóng
E1 cũng chỉ nói cho G mượn 80.000.000đ, còn nợ ai trả cho ai thì ông
không biết nên cũng không có căn cứ xác định có trả cho E1 80.000.000đ.
Về xác định thời gian tính lãi cho khoản nợ 80.000.000đ và mức lãi suất. Theo
lời khai của ông L tsau khi bà E1 vay của ông 200.000.00với lãi suất 4% tháng
thì bà E1 có đóng lãi cho ông 02 tháng là 16.000.000đ vào ngày vay là 03/02/2023.
Sau đó, thì bà E1 nói bà G sẽ đóng lãi và bà G có đưa cho ông 02 tháng là đóng lãi
tháng thứ 03 tháng thứ 04 đến ngày 04/7/2023, sau ngày 04/7/2023 đến nay không
có đóng lãi nữa. E1 thì cho rằng 04 tháng lãi đó là của G đóng G tcho
rằng đóng cho ông L 04 tháng lãi nhưng ông L chỉ thừa nhận bà G đóng cho ông L
02 tháng, G không có chứng cứ chứng minh đóng cho đóng L 04 tháng nên
việc đóng lãi chỉ đóng đến hết tháng thứ 04 ngày 04/7/2023. Nên E1 yêu cầu
tính i từ ngày 04/3/2023 không căn cứ. Tại phiên tòa thẩm E1 thống
nhất đồng ý tính lãi từ ngày 04/7/2023 đến ngày 18/9/2024 phù hợp nên được chấp
nhận. Về mức lãi suất khi G vay tiền của E1 số tiền 80.000.000đ, G đã đóng
lãi cho ông L với lãi suất 4% tháng với số tiền là 8.000.000đ/tháng là đóng lãi thay
7
cho E1 trong tổng số tiền bà E1 vay của ông L 200.000.000đ nên sở xác
định bà E1 cho G vay là lãi nên mức lãi E1 u cầu tại Tòa 20%/năm
tương đương 1,66 % tháng cho trường hợp vay có lãi hoàn toàn phù hợp. Từ đó,
xác định thời gian tính lãi từ ngày 04/7/2023 đến ngày xét xử là 18/9/2024 là 13
tháng thành tiền là 80.000.000 x 13 tháng x 1,66%/tháng = 17.264.000đ.
Như vậy, cấp thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
với số tiền 97.264.000đ, gồm tiền vốn cho vay là 80.000.000đ và tiền lãi
17.264.000đ là có căn cứ.
[3] Đối với khoản tiền E1 cho G vay lại 40.000.000đ đã trả được
5.000.000đ còn lại 35.000.000đ. Bà E1 cho rằng số tiền cho vay này là bà E1 đã ký
vay tại Ngân hàng V thông qua sim điện thoại của E1 để có tiền cho G vay lại.
Nhưng G không thừa nhận vay của E1 40.000.000đ chthừa nhận
vay của E1 5.000.000đ G đã trả xong, E1 thừa nhận G trả
5.000.000đ. E1 không chứng cứ chứng minh cho G 40.000.000đ nên yêu
cầu của bà E1 yêu cầu G trả cho E1 số tiền 35.000.000đ còn lại không
căn cứ.
[4] Đối với khoản tiền cho vay lần hồi bán thịt heo nhiều lần cộng lại
24.540.000đ E1 yêu cầu G trả thì G thừa nhận nợ nên bà E1 không
phải chứng minh. Việc bà G cho rằng đã trả cho E1 18.000.000đ, còn lại
6.540.000đ nhưng E1 không thừa nhận nhận khoản tiền trả 18.000.000đ của
G G không chứng cứ chứng minh đã trả dần cho E1 lần hồi được
18.000.000đ. Nên yêu cầu G trả cho E1 số tiền 24.540.000đ của E1
căn cứ.
[5] Đối với khoản tiền mua heo quay còn nợ lại 5.560.000 đ mà bà E1 yêu cầu
G trả thì G thừa nhận còn nợ nên E1 không phải chứng minh nên yêu cầu
bà G trả cho bà E1 5.560.000đ của bà E1 được chấp nhận.
Từ những nhận định trên, cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn phù hợp; nguyên đơn, bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp
được tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu của mình nên không được
chấp nhận.
[6] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Lê Th
E, bà Nguyễn Thị G phải chịu án phí theo quy định. Tuy nhiên, là Lê Thị E người
cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Thị E;
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị G;
8
Giữ nguyên Bản án thẩm số: 159A/2024/DS-ST ngày 18/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Áp dụng các Điều 357, 430, 440, 463, 466, 468 Bộ luật dân sự Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị E. Buộc
bị đơn bà Nguyễn Thị G nghĩa vụ trả số tiền vay mua thịt heo cho nguyên đơn
Thị E 127.364.000đ (Một trăm hai mươi bảy triệu ba trăm sáu mươi bốn
nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
[2] Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lê Thị
E vyêu cầu bị đơn Nguyễn Thị G trả số tiền vay lãi 107.948.000đ (Một
trăm lẻ bảy triệu chín trăm bốn mươi tám nghìn đồng).
[3] Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị E do rút
lại yêu cầu bị đơn Nguyễn Thị G trả với số tiền vốn lãi 73.028.000đ (Bảy mươi
ba triệu không trăm hai mươi tám nghìn đồng).
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí sơ thẩm:
Lê Thị E được miễn.
Buộc bà Nguyễn Thị G phải nộp số tiền án phí là 6.368.200đ (Sáu triệu ba
trăm sáu mươi tám nghìn hai trăm đồng).
[4.2] Án phí phúc thm:
Lê Thị E được miễn.
Buộc Nguyễn Thị G phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số
tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
tòa án số 0004705 ngày 16 tháng 10 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
9
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Ba Tri;
- Chi cục THADS huyện Ba Tri;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Ngọc Dũng
Tải về
Bản án số 248/2025/DS-PT Bản án số 248/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 248/2025/DS-PT Bản án số 248/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất