Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 143/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh An Giang
Số hiệu: 143/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty TNHH DP - Công Ty THHH PT
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 143/2025/DS-PT
Ngày 24-6-2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán
tài sản
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Phạm Thị Minh Châu.
Các Thẩm phán: Trịnh Ngọc Thúy ông Nguyễn Phước Hưng.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thơ - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa:
Ông Phạm Trường San - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17 ngày 24 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số:
93/2025/TLPT-DS ngày 21 tháng 5 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thẩm số: 124/2025/QĐ-PT
ngày 26 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1; địa chỉ trụ sở: Số G,
Quốc l A, khu phố T, phường T, thành phố T, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
- Ông Huỳnh Công S, chức vụ: Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đ1, người đại diện theo pháp luật (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Hoàng B, sinh năm 1972; địa chỉ: Số A Đ, phường T,
thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, người đại diện theo ủy quyền (văn bản
ủy quyền số 01/2025-UQ ngày 03/6/2025 của Giám đốc Công ty) (có mặt).
2
2. Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N4; địa chỉ trụ sở:
Ấp B, xã B, huyện P, tỉnh An Giang.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
- Thị Kim N, chức vụ: Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên N4, người đại diện theo pháp luật (vắng mặt).
- Ông Phạm Xuân T, sinh năm 1987; nơi trú: Số B, đường N, phường
A, quận N, Thành phố Cần Thơ, người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản
ủy quyền ngày 13/02/2023) (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Quách Thanh P
Luật của Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật tỉnh A (có mặt).
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Đỗ Hữu N1, sinh năm 1979; nơi trú: Ấp B, B, huyện P,
tỉnh An Giang (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của ông Đỗ Hữu N1: Ông Phạm Xuân T, sinh
năm 1987; nơi trú: Số B, đường N, phường A, quận N, Thành phố Cần Thơ,
người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền ngày 13/02/2023) (vắng
mặt).
3.2. Ông Văn B1, sinh năm 1986; nơi trú: Tổ A, ấp B, P, huyện
P, tỉnh An Giang (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1 nguyên đơn
trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo hồ sơ án thẩm thể hiện:
Theo đơn khởi kiện ngày 08/9/2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày
01/6/2023, nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1 do ông Huỳnh Công S
đại diện trình bày:
Hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 của Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên N4 (sau đây gọi tắt Công ty N5) bán cho Công
ty trách nhiệm hữu hạn Đ1 (sau đây gọi tắt Công ty Đ1) gỗ tròn loại chít
xuất xứ Campuchia khối lượng 178,364m
3
giá 6.930.000 đồng, thành tiền
1.236.062.520 đồng, thuế GTGT 10% 123.606.252 đồng.
Hợp đồng kinh tế số 10/2021/NNPT ngày 30/3/2021 của Công ty N5 bán
cho Công ty Đ1 gỗ tròn loại chít xuất xứ Campuchia khối lượng 12.724m
3
giá
6.930.000 đồng, thành tiền 88.177.320 đồng, thuế GTGT 10% là 8.817.732
đồng.
Hai bản Hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 số
10/2021/NNPT ngày 30/3/2021 do ng ty N5 lập sau khi ông mua gỗ đã
3
thanh toán xong số tiền đã mua được thể hiện tại hai biên bản giữa trại cây
Nghĩa N2 do ông N2 và ông kết được thể hiện c thể sau đây:
1/ Bảng tính tiền giữa người bán g là ông N2 người mua ông ngày
11/3/2021, ông mua 151 lóng gỗ tròn khối lượng 200,178m
3
, giá 18.000.000
đồng/m
3
, thành tiền 3.603.204.000 đồng, hai bên đồng ý tên vào biên bản.
2/ Bảng tính tiền giữa người bán g là ông N2 người mua ông ngày
30/3/2021, ông mua 11 lóng gỗ tròn khối lượng 20,625m
3
, giá 18.000.000
đồng/m
3
, thành tiền 371.250.000 đồng, hai bên đồng ý tên vào biên bản.
Hai bản tính tiền giữa người mua người bán đúng theo khối lượng
số tiền đã chi trả nhưng Công ty N5 lập hai hợp đồng kinh tế nhằm mục đích hạ
khối lượng gỗ, hạ số tiền đ trốn thuế giá trị gia tăng đối với n nước. Ông
không tên vào hai hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 số
10/2021/NNPT ngày 30/3/2021. Mặt khác, Công ty của ông không chức năng
mua bán gỗ. Ông mua gỗ về làm nhà từ đường cho gia tộc của ông. Do đó, khi
lập biên bản giữa người mua người bán gỗ, khi giao gỗ, ông N2 không cho
ông xem lịch gỗ nên giao gỗ cho gia đình ông không đúng chủng loại.
Phía ng ty N5 giao 200,178m
3
gỗ cho ông ngày 13/3/2021, đến ngày
01/4/2021 tiếp tục giao 20,625m
3
. Ngày 03/4/2021, thợ mộc tay nghề lâu
năm đến dỡ gỗ xây dựng nhà từ đường mới biết gỗ của Công ty N5 giao không
đúng chủng loại. Ông gọi điện, ông N2 cho 1 nhân viên tên Đ (không họ tên
đầy đủ) xuống tận n ông kiểm tra gỗ. Ông Đ cũng xác nhận với ông ông N2
giao gỗ không đúng chủng loại. Ông điện thoại, ông N2 hứa từ ngày
17/4/2021 đến ngày 03/5/2021 ông N2 sẽ trả lại ông số tiền mua bán
3.994.256.824 đồng nhận lại tất cả số gỗ không đúng chủng loại đã giao 2 lần
220,443m
3
. Sau đó dịch bệnh bùng phát khu vực phía Nam. Ngày 17/7/2021,
ông nhờ 02 cán bộ Kiểm lâm tỉnh Long An đến nhà ông xem xét chủng loại
gỗ cùng đi với hai thợ mộc tay nghề cao xác định gỗ ông mua của Công ty
N5 không phải gỗ chít xuất xứ Campuchia.
Nay ông yêu cầu Công ty N5 do N làm giám đốc ông N2 trách
nhiệm trả cho ng ty Đ1 tiền mua bán gỗ 3.994.256.824 đồng bồi thường
thiệt hại do chậm trả tiền 865.604.698 đồng; Công ty N5 do N làm giám
đốc ông N2 nhận lại 220,443m
3
gỗ không đúng chủng loại đã giao cho Công
ty Đ1.
Bản tự khai ngày 13/02/2023, bị đơn Công ty N5 do Thị Kim N đại
diện trình y:
N giám đốc Công ty N5 với nhiều ngành nghề kinh doanh trong đó
kinh doanh mua bán gỗ. N kinh doanh mua bán gỗ nhưng bán gỗ số lượng
lớn cho những cơ sở kinh doanh gỗ, để họ kinh doanh lại hoặc sản xuất ra sản
phẩm khác. Còn ông N2 chồng N chủ trại cây Nghĩa Nhân đăng
kinh doanh, hộ kinh doanh Đỗ Hữu N1 kinh doanh mua bán gỗ cưa xẻ gỗ,
chủ yếu bán gỗ, cưa xẻ gỗ cho người dân nhu cầu sử dụng cho gia đình. Công
4
ty N5 H kinh doanh Đỗ Hữu N1 đều tài sản chung của vợ chồng, do ông
N1 người quản lý, cùng địa điểm kinh doanh tên chung trại cây Nghĩa
Nhân, nếu mua bán số lượng lớn thì hợp đồng mua bán lấy tên công ty kết
hợp đồng, còn mua bán số lượng nhỏ lẽ thì lấy tên H kinh doanh.
Năm 2021, ông S đến trại cây Nghĩa N2 mua gỗ với số lượng lớn về
cất n từ đường cho dòng h với loại gỗ cần tìm mua gỗ chít (hay còn gọi
chắc), ông N2 ông S thỏa thuận miệng số lượng mua bán 200m
3
gỗ
chít, giá 18.000.000đồng/m
3
. Ông S trực tiếp đến lựa chọn từng lóng gỗ tại trại
cây N, ông S chịu chi phí vận chuyển. Ông S mua gỗ về Long An nên việc vận
chuyển g số lượng lớn t tỉnh này qua tỉnh khác bắt buộc phải có hợp đồng
mua bán, hóa đơn giá trị gia tăng trên đường vận chuyển để xuất trình cho
quan có thẩm quyền nên ông N2 phải lập hợp đồng mua bán, hóa đơn giá trị gia
tăng của Công ty N5 cho ông S. Ông S cho rằng ông không phải doanh nghiệp
kinh doanh gỗ nên hợp đồng kinh tế và hóa đơn g trị gia tăng không được
dùng để khấu trừ thuế doanh nghiệp chỉ sử dụng để chứng minh gỗ nguồn
gốc hợp pháp, đầy đủ chứng từ doanh nghiệp ông không cần phải đúng giá,
đúng số lượng mua bán thực tế. Còn Công ty N5 mua bán g với số lượng lớn,
giá mua bán theo sở giá nhập cả lô hàng, ông S mua gỗ làm nhà lớn lựa
chọn từng lóng gỗ đẹp nên giá bán cao hơn giá c hàng của công ty.
Sau khi ông N2 ông S thỏa thuận mua bán xong t ngày 01/3/2021
ông S cùng nhiều người đến trại cây ông N2 lựa chọn từng lóng gỗ chít, đo
tính số lượng, khối lượng đến ngày 10/3/2021 thì Công ty N5 do N đại diện
lập hợp đồng kinh tế số 06 ngày 01/3/2021 hóa đơn thuế giá trị gia tăng số
0000558 ngày 10/3/2021 cho lan vận chuyển gỗ đi.
Ngày 30/3/2021, ông S tiếp tục đến lựa chọn mua thêm gỗ nên N lập
thêm hợp đồng kinh tế số 10 ngày 30/3/2021, hóa đơn thuế g trị gia tăng số
0000562 đ ông S vận chuyển gỗ về Long An.
Việc mua bán, vận chuyển, giá cả, phương thức thanh toán, giao nhận gỗ
tại đâu n thế nào giữa ông N2, ông S thỏa thuận miệng. Còn hai hợp
đồng kinh tế do N cung cấp để giấy tờ hợp lệ trên đường vận chuyển gỗ về
Long An.
Sau hai lần mua bán thì Công ty N5 đã thực hiện đúng thỏa thuận mua
bán, giao đúng số lượng, chủng loại gỗ chít, ông S đã thanh toán đủ tiền,
không phản ánh về chất lượng cũng như chủng loại giá tiền ghi trên hóa
đơn.
Do đó, Công ty Đ1 do ông S làm chủ khởi kiện cho rằng Công ty N5 giao
cho ông không đúng chủng loại g yêu cầu Công ty N5 do N làm giám
đốc ông N2 trả lại tiền mua bán gỗ N không đồng ý, việc mua bán đã
giao nhận xong, đã đầy đủ giấy tờ giao nhận.
Bản tự khai ngày 13/02/2023 biên bản ghi lời khai ngày 10/12/2024,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hữu N1 trình bày:
5
Ông chủ trại cây N, đăng kinh doanh Hộ kinh doanh Đỗ Hữu N1
kinh doanh mua bán gỗ cưa xẻ gỗ, chủ yếu bán cho người dân nhu cầu
sử dụng cho gia đình. Còn vợ ông Thị Kim N Giám đốc Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên N4 ngành nghề kinh doanh mua bán gỗ.
Công ty Hộ kinh doanh cùng địa điểm kinh doanh trại cây Nghĩa N2
tài sản chung vợ chồng, ông là người quản chung, N chỉ đứng tên kinh
doanh.
Đầu năm 2021, ông Huỳnh Công S có đến trại cây của ông để hỏi mua gỗ
với số lượng lớn về cất n từ đường cho dòng họ, với loại gỗ cần tìm mua là gỗ
chít (còn gọi chắc). Ông ông S đã thỏa thuận miệng số lượng mua
bán là khoảng 200m
3
gỗ chít, giá 18.000.000 đồng/m
3
, ông S đến lựa chọn và
nhận gỗ trực tiếp tại trại cây của ông, ông S phải chịu chi phí vận chuyển, còn
lan vận chuyển gỗ do ông thuê giùm cho ông S nhưng phải đảm bảo nếu lan
vận chuyển không đ số lượng thì ông phải bồi thường. Bên cạnh đó, ông S nhà
tỉnh Long An nên việc vận chuyển gỗ số lượng lớn bắt buộc phải hợp đồng
mua bán, hóa đơn thuế giá trị gia tăng trên đường vận chuyển nên đòi hỏi ông
cung cấp hóa đơn cho ông S. Do số lượng gỗ hơn 200m
3
nên bên phía ông phải
làm hợp đồng kinh tế, xuất hóa đơn thuế giá trị gia tăng, bảng lâm sản cho
ông S để khi quan thẩm quyền kiểm tra thì số gỗ này mới hợp lệ. Còn ông
S cũng muốn việc mua bán gỗ hóa đơn thuế giá trị gia tăng để ông thể
được khấu trừ thuế nên ông S với cách đại diện Công ty Đ1. vậy, Công
ty N5 hợp đồng kinh tế, xuất hóa đơn với Công ty Đ1 để ông S trình quan
thẩm quyền khi kiểm tra trên đường vận chuyển cũng như trong quá trình
sử dụng. Công ty Đ1 không phải doanh nghiệp kinh doanh gỗ nên hóa đơn thuế
giá trị gia tăng không cần phải đúng giá, đúng số lượng mua bán thực tế. Còn
công ty N5 mua bán gỗ với số lượng lớn, giá mua bán trên hóa đơn thường thấp
hơn giá thực tế, gỗ này nhập khẩu nên khi bán phải ghi khối lượng đúng theo
chứng từ nhập khẩu gốc thường khối lượng thấp hơn với thực tế. Ông S mua
gỗ lựa chọn từng lóng gỗ nên giá cả cao hơn mua cả hàng của công ty, nên giá
ghi trên hóa đơn xuất cho ông S theo g cả hàng.
Sau khi ông ông S thỏa thuận mua bán xong thì ngày 01/3/2021, Công
ty Đ1 đặt cọc Công ty N5 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) đ hợp đồng mua
bán gỗ. Ông S cùng nhiều người đến trại cây Nghĩa N2 lựa chọn từng lóng gỗ
chít đến ngày 10/3/2021 được 151 lóng gỗ với khối lượng 200,178m
3
x
18.000.000 đồng/m
3
= 3.603.204.000 đồng. Ông ông S lập bảng tính tiền giữa
trại cây Nghĩa N2 ông Huỳnh Công S ngày 11/3/2021 chữ của ông S.
Công ty N5 đã lập hợp đồng kinh tế số 06 ngày 01/3/2021, hóa đơn thuế giá trị
gia tăng số 0000558 ngày 10/3/2021 bảng lâm sản cho lan đ vận
chuyển g cho ông S. Đến ngày 12/3/2021, thì lan chở gỗ đến Long An, giao
gỗ cho ông S cùng với hợp đồng kinh tế, hóa đơn giá trị gia tăng bảng lâm
sản, ông S kiểm đếm đúng số lượng hai bên mua bán, ông S tên vào bảng
giao nhận gỗ đóng dấu gửi lại cho Công ty N5. Còn tiền thanh toán, trừ tiền
6
đặt cọc 1.000.000.000 đồng, ông S đưa tiền mặt chuyển khoản đủ số tiền mua
bán gỗ cho Công ty N5 cho ông 3.603.204.000 đồng.
Đến ngày 30/3/2021, Công ty Đ1 mua thêm của Công ty N5 11 lóng gỗ
chít, trại cây Nghĩa N2 ông S lập bảng tính tiền mua bán ngày 30/3/2021 khối
lượng 20,625m
3
x 18.000.000 đồng/m
3
= 371.250.000 đồng. Công ty N5 giao
cho Công ty Đ1 hợp đồng kinh tế số 10 ngày 30/3/2021, hóa đơn thuế giá trị gia
tăng số 0000562 bảng lâm sản để ông S đại diện công ty vận chuyển gỗ về
Long An. Đến ngày 01/4/2021 thì ông S đã trả tiền mặt chuyển khoản trả đủ
tiền cho ông.
Sau khi mua bán 02 đợt gỗ trên thì giữa Công ty N5 Công ty Đ1 đã
thực hiện đúng thỏa thuận mua bán, đã giao đúng số lượng chủng loại gỗ là
chít, Công ty Đ1 đã thanh toán đủ tiền cho ng ty N5, không phản ánh
về chủng loại gỗ cũng như về giá tiền ghi trên hóa đơn.
Do đó, Công ty Đ1 do ông S đại diện khởi kiện cho rằng giao không đúng
loại gỗ yêu cầu Công ty N5 do Lê Thị Kim N làm giám đốc ông Đỗ
Hữu N1 trả lại tiền mua bán g ông không đồng ý, việc mua bán đã được
giao nhận xong, đã đầy đủ giấy tờ giao nhận.
Biên bản ghi lời khai ngày 16/12/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Văn B1 trình bày: Năm 2021, ông nhận vận chuyển 01 chuyến
gỗ khoảng 200 lóng tròn bằng lan từ trại cây Nghĩa Nhân đến C huyện B, tỉnh
Long An cho ông N1 với s tiền vận chuyển 20.000.000 đồng. Khi nhận gỗ vận
chuyển, ông S lựa chọn từng lóng gỗ tại bãi gỗ của trại cây Nghĩa N2 đưa lên
lan, thời gian nhận gỗ 10 ngày. Sau khi lựa gỗ xong, ông vận chuyển gỗ đến
cảng B giao cho ông S. Quá trình vận chuyển t ông N2 giao hợp đồng mua
bán, hóa đơn bảng gỗ, lâu q ông không nhớ hết. Ông vận chuyển hơn
1,5 ngày mới tới C, ông điện thoại cho ông S báo lan tới t ông S mới xuống
lan lấy giấy tờ lên cảng trình giấy tờ, bên phía cảng nhiều người xuống
kiểm tra rồi mới cho lan cặp cảng. Khi bốc gỗ lên t phía cảng cũng nhiều
người xuống kiểm tra gỗ nhưng ông không biết họ làm gì, còn ông S thì kiểm
tra số lượng loại gỗ mua. Sau đó, cảng bốc gỗ bằng cần cẩu lên bờ, còn vận
chuyển thì xe của ông S đến nhận đem về. Trên đường vận chuyển gỗ giao cho
ông S, C kiểm tra, ông đưa giấy t gỗ hợp lệ thì họ cho đi.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 430,
Điều 431, Điều 432, Điều 435 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
7
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm
hữu hạn Đ1 đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N4
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hữu N1 về hợp đồng mua bán tài
sản.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án p dân sự thẩm;
quyền kháng cáo; quyền thi hành án thời hiệu thi hành án của các bên đương
sự.
Ngày 07/4/2025, nguyên đơn Công ty Đ1 kháng o toàn bộ Bản án số:
70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh
An Giang, với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Hoàng B đại diện theo y quyền
của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo. Các
đương s không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Ông B ý kiến:
Về tố tụng: Cấp thẩm đã thông o thụ tranh chấp kinh doanh
thương mại hợp đồng mua bán gỗ nhưng khi xét xử nhận định xác định quan
hệ tranh chấp dân sự hợp đồng mua bán tài sản theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật
Tố tụng dân sự không chính xác, cần xác định quan hệ tranh chấp kinh
doanh thương mại áp dụng Luật Thương mại năm 2005 đề giải quyết vụ án,
trong giao dịch mua bán gỗ đã đáp ứng đúng về mặt chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng; mục đích của giao dịch hình thức, phương thức thanh toán trong
giao dịch tài chính của doanh nghiệp theo quy định của Luật Thương mại năm
2005. Công ty Đ1 mua g về làm n đây ng là trụ sở Công ty biên bản
đối chất thể hiện rõ.
Về nội dung: Nguyên đơn bị đơn xác định mua gỗ loại chít xuất xứ
Campuchia; cấp thẩm không đánh giá đầy đủ kết quả giám định gỗ khi so
sánh với bảng lâm sản đã xác định đây không phải bảng kê giao nhận
thực tế; không đánh giá chứng t số lượng loại gỗ đầu vào ra của ng ty N5
chưa đánh giá toàn bộ chứng cứ phía Công ty Đ1 khiếu nại loại gỗ; bên
bán đã vi phạm nghĩa vụ bản của hợp đồng theo quy định tại Điều 34 Điều
312 của Luật Thương mại. Trên thực tế, Công ty Đ1 đã khiếu nại trong thời
hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật Thương mại, cụ thể qua điện thoại
cho ông N1 đã gửi email cho ông N1 phản hồi về việc không giao đúng loại
gỗ chít hoàn toàn số gỗ đã mua.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn, sửa bản án thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Luật Quách Thanh P người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
bị đơn ý kiến: Không đồng ý yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn; đề nghị giữ
nguyên bản án thẩm. Công ty N5 đã giao đúng hàng hóa, chất lượng, số
lượng Công ty Đ1 đã nhận xong g thanh toán xong tiền mua bán. Công ty
8
Đ1 đã nhận gỗ xong, đem về kho lưu giữ, không khiếu nại trong thời hạn
quy định. Nay Công ty Đ1 cho rằng Công ty N5 giao gỗ không đúng loại gỗ
chít như thỏa thuận không sở. Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ hồ
thống nhất giao dịch khi mua bán gỗ nhân ông S với ông N1 và mua gỗ
làm từ đường cho dòng họ nên cấp thẩm xác định quan h tranh chấp dân sự
theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự chính xác.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của đương sự hợp lệ; Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án, Thư ký, Hội đồng xét x đã chấp hành đầy đủ
quy định của Bộ luật Tố tụng dân s từ khi thụ vụ án đến khi xét xử. Các
đương s đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng.
+ Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên bản án thẩm; nguyên đơn phải chịu án phí phúc
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn Công ty Đ1 nộp đơn kháng cáo nộp tạm ứng án p phúc
thẩm trong thời hạn luật định, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử
theo thủ tục phúc thẩm đúng quy định tại Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015.
Bị đơn Công ty N5 do ông Phạm Xuân T đại diện người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hữu N1 do ông Phạm Xuân T đại diện, ông Văn
B1 đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2
Điều 296 Bộ luật Tố tụng n sự xét x vắng mặt các đương sự tên nêu trên.
Tại phiên tòa, các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu
kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về nội dung vụ án.
[1.1] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp vụ án: Cấp thẩm thụ
vụ án kinh doanh thương mại, nhưng khi giải quyết tại bản án xác định vụ án
dân sự với nhận định: Nguyên đơn tranh chấp hợp đồng mua bán gỗ với bị đơn,
cả nguyên đơn bị đơn đều đăng kinh doanh với loại hình doanh nghiệp
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viêN4 nhưng nguyên đơn giao kết hợp
đồng mua bán g không nhằm mục đích lợi nhuận, do đó quan hệ pháp luật
tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán tài sản theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật
Tố tụng dân sự”.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
- Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng: Cả hai Công ty đều doanh nghiệp
đăng kinh doanh theo loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn căn cứ
khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 quy định về thương nhân “Thương
9
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên đăng kinh doanh”, thì cả
hai được xác định thương nhân theo quy định pháp luật.
- Mục đích bản chất giao dịch:
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại quy định:“Hoạt động thương mại
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”
tại khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại quy định: “Mua bán hàng hóa hoạt
động thương mại, theo đó bên bán nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua nhận thanh toán; bên mua nghĩa vụ thanh toán cho
bên bán, nhận hàng quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Công ty Đ1
mua gỗ của Công ty N5, theo đó Công ty N5 nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho Công ty Đ1; Công ty Đ1 nghĩa vụ thanh toán cho
Công ty N5, nhận hàng quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Xét về nội
dung mua bán gỗ giữa Công ty Đ1 Công ty N5 - đây hoạt động thương
mại. Tại Biên bản đối chất ngày 10/5/2023 (bút lục số 176), ông Huỳnh Công S
đại diện cho Công ty Đ1 trình bày mục đích Công ty Đ1 mua số lượng gỗ từ
Công ty N5 xây dựng nhà để ở, vừa để vừa chỗ kinh doanh của Công ty
Đ1 tại phiên tòa, phía nguyên đơn cũng xác định nơi đặt trụ sở Công ty Đ1
cũng chính nhà của ông S.
Tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HÐTP ngày 03/12/2012
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân
sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy định: “Mục đích lợi nhuận của nhân, t chức trong hoạt
động kinh doanh, thương mại mong muốn của nhân, t chức đó thu được
lợi nhuận không phân biệt thu hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh, thương mại đó” tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ-
HÐTP ngày 03/12/2012 quy định: “Hoạt động kinh doanh, thương mại không
chỉ hoạt động trực tiếp theo đăng kinh doanh, thương mại còn bao gồm
cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, thương mại”.
Mục đích lợi nhuận của Công ty Đ1 trong vụ án này được xác định là
mong muốn của Công ty Đ1 thu được lợi nhuận không phân biệt Công ty Đ1
thu được hay không thu được lợi nhuận trên thực tế từ việc mua gỗ của Công
ty N5. Công ty Đ1 hợp đồng mua bán gỗ còn nhằm mục đích cho quan
thuế xem xét khấu trừ thuế g trị gia tăng cho Công ty Đ1. Mặt khác, cho
Công ty Đ1 không chức năng kinh doanh gỗ theo Giấy chứng nhận đăng
kinh doanh nhưng trong cả hai hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày
01/3/2021 số 10/2021/NNPT ngày 30/3/2021 giữa hai Công ty đều không ghi
nhận mục đích của việc mua bán gỗ; cấp thẩm cho rằng mục đích được xác
định trong giao dịch này xây nhà (từ đường) chỉ lời khai của ông S, đồng
thời đây cũng chính nơi kinh doanh của Công ty Đ1.
10
Do đó, việc Công ty Đ1 kết hợp đồng mua bán gỗ với Công ty N5 phải
được xác định hoạt động thương mại mục đích lợi nhuận.
- Về hình thức phương thức thanh toán trong giao dịch tài chính của
doanh nghiệp:
Công ty Đ1 thực hiện thanh toán tiền mua gỗ cho ng ty N5 thông qua
tài khoản Ngân hàng của Công ty Đ1 (03 lần tổng số tiền 1.456.663.824 đồng)
một phần thông qua tài khoản cá nhân, c thể: ông S nhờ em ông S (Huỳnh
Công T1 số tiền 2.263.338.000 đồng) vợ ông S (bà Trương Mỹ N3 số tiền
274.255.000 đồng) chuyển khoản bằng tài khoản nhân cho ông Đỗ Hữu N1
(chủ hộ kinh doanh).
- Mặt khác, người khởi kiện Công ty Đ1 do người đại diện theo pháp
luật ông Huỳnh Công S Giám đốc đơn đóng dấu Công ty Đ1 khởi kiện
Công ty N5 do Thị Kim N làm Giám đốc đại diện theo pháp luật; căn
cứ khởi kiện Hợp đồng số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 số
10/2021/NNPT ngày 31/3/2021 đã giao kết giữa hai công ty, nội dung hợp đồng
không thể hiện Công ty Đ1 mua gỗ nhằm mục đích xây dựng từ đường.
Từ phân tích trên, cho thấy đây hoạt động của pháp nhân, xác định giao
dịch mua bán gỗ giữa Công ty Đ1 Công ty N5 hoạt động thương mại giữa
hai thương nhân hoạt động thương mại thường xuyên, nhằm mục đích sinh
lợi. Do đó, quan hệ tranh chấp phát sinh từ giao dịch mua bán hàng hóa (gỗ) này
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 phải được xác định
tranh chấp kinh doanh thương mại về hợp đồng mua bán hàng hóa, theo
khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc cấp thẩm nhận định mục đích
xây dựng nhà từ đường của ông S chủ sở hữu Công ty Đ1 cho rằng không
nhằm mục đích sinh lợi chưa xem xét đầy đủ bản chất pháp của quan hệ
tranh chấp xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp nên áp dụng sai pháp
luật nội dung.
[1.2] Thiếu người tham gia tố tụng: Thiếu ông Huỳnh Công S tham gia tố
tụng trong vụ án với cách người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Vì:
Ông S yêu cầu em ông Huỳnh Công T1 vợ Trương Mỹ N3
thanh toán tiền mua bán gỗ - chuyển khoản vào tài khoản nhân của ông Đỗ
Hữu N1 (như đã phân tích tại mục 1.1 nêu trên) các giao dịch chứng từ cung
cấp ghi nhận: Ông S trả tiền gỗ ông N1 đều xác định nhận được số tiền
thanh toán gỗ đó. Tuy tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn cho rằng s tiền ông S nhờ ông T1 N1 chuyển khoản trả cho
ông N1 tiền của Công ty Đ1 nhưng không cung cấp chứng cứ chứng minh đã
được quyết toán báo cáo tài chính của Công ty Đ1.
Tại khoản 1 Điều 74 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: Công ty
TNHH MTN4 Doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một nhân làm chủ (chủ
sở hữu Công ty). Chủ sở hữu Công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ
nghĩa vụ tài sản khác của Công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty”;
11
khoản 3 Điều 77 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Phải xác định
tách biệt tài sản của chủ sở hữu Công ty với tài sản của Công ty. Chủ sở hữu
Công ty nhân phải tách biệt chi tiêu của nhân gia đình mình với chi
tiêu của Chủ tịch Công ty, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc”. Do đó, việc cấp
thẩm không xác định đưa ông Huỳnh Công S vào tham gia tố tụng với cách
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án ảnh hưởng đến quyền
lợi ích hợp pháp của ông S.
Ngoài ra, cần ghi nhận ý kiến lời khai của em ông S ông Huỳnh
Công T1 vợ ông S Trương Mỹ N3 về việc đã chuyển khoản trả tiền mua
gỗ cho ông N3, phải theo yêu cầu của ông S hay không và nếu họ tranh
chấp thì phải xác định họ người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Với nhận định tại mục [1.1] [1.2] trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy, do cấp thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên cần hủy bản
án thẩm s 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân
huyện P, tỉnh An Giang chuyển hồ vụ án cho Tòa án cấp thẩm giải
quyết lại v án theo thủ tục thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang người bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị giữ nguyên bản án thẩm là
không cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty Đ1, Hội đồng xét xử
phúc thẩm xét thấy:
Như đã phân tích trên, do Tòa án cấp thẩm vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng, cần hủy bản án thẩm chuyển hồ vụ án cho Tòa án cấp
thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục thẩm, nên Hội đồng xét xử không
xem xét về nội dung vụ án, do đó không xem xét yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn.
Tuy nhiên khi giải quyết lại vụ án, cấp thẩm cần lưu ý khi đánh g
chứng cứ vụ án: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa -
tranh chấp về chủng loại gỗ thỏa thuận giao dịch mua bán: Cả hai thống nhất xác
định thỏa thuận mua bán loại gỗ chít (cà chắc) xuất x Campuchia.
Nguyên đơn cho rằng trong tổng số gỗ đã mua 162 lóng được giao một
số lóng gỗ không phải loại gỗ chít như đã thỏa thuận mua bán; bị đơn
không đồng ý cho rằng nguyên đơn đã nhận hàng ký biên bản giao nhận gỗ
chứng minh nguồn gốc Công ty N5 mua gỗ từ Công ty T2 (Gia Lai) năm
2019 nguồn gốc Công ty T2 nhập gỗ chắc từ Campuchia năm 2017. Đồng
thời cho rằng phía nguyên đơn đã lựa gỗ, kiểm tra đúng chất lượng gỗ khi nhận
nên nay cho rằng giao không đúng loại gỗ t bị đơn không đồng ý.
Theo Bảng giao nhận gỗ giữa Trại cây Nghĩa N2 chủ sở hữu Công ty
Đ1 ông Huỳnh Công S lập ngày 11/3/2021 mua 151 lóng gỗ chít bảng
giao nhận gỗ lập ngày 31/3/2021 mua 11 lóng gỗ chít: Công ty N5 không nêu
12
cụ thể số hiệu, số đầu lóng của các lóng gỗ (chỉ ghi nhận loại gỗ chít, số đo
hoành dài, khối lượng; bỏ trống cột SDL số đầu lóng).
Đồng thời, cả nguyên đơn bị đơn đều thừa nhận Bảng lâm sản kèm
theo 02 hợp đồng kinh tế số 06 s 10 đó giả, không đúng thực tế về mặt
khối lượng giá, chỉ ghi nhận để hợp thức hóa khi vận chuyển. Khối lượng gỗ
bên bán xác định cho rằng đã hoàn thành việc mua bán chính hai Bảng giao
nhận gỗ. Do đó, cần phải làm 162 lóng gỗ theo Biên bản giao nhận gỗ ngày
11/3/2021 ngày 31/3/2021 được cho rằng là loại gỗ chít đã thỏa thuận mua
bán với nhau nằm trong Bảng lâm sản nào Công ty N5 đã mua từ Công
ty T2 không? Công ty N5 chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh 162 lóng
gỗ bán cho Công ty Đ1 theo 02 Bảng giao nhận gỗ trên nằm trong số lóng gỗ
nào đã mua (nhập kho) từ Công ty T2 - chưa làm được loại gỗ Công ty N5
bán cho Công ty Đ1 đúng nguồn gốc loại gỗ chít nhập khẩu từ
Campuchia n đã thỏa thuận mua bán không.
Những vấn đề này cấp thẩm chưa làm giai đoạn phúc thẩm, bị
đơn Công ty N5 người quyền lợi, nghĩa v liên quan ông N2 đơn xin
vắng mặt nên không thể làm được tại phiên tòa.
[3] Về án p chi phí tố tụng:
Án phí dân sự thẩm chi phí tố tụng: Sẽ được xác định lại khi giải
quyết lại v án theo thủ tục thẩm.
Về án p dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án thẩm nên người kháng cáo
không phải chịu án phí phúc thẩm, được nhận lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp.
các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 148 khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản sử dụng án phí, l phí Tòa án.
1. Hủy Bản án dân sự thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm
2025 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang chuyển hồ vụ án cho
Tòa án cấp thẩm giải quyết lại vụ án theo th tục thẩm.
2. Về án phí chi phí tố tụng:
- Án phí thẩm chi phí tố tụng: Sẽ được xác định lại khi giải quyết lại
vụ án theo thủ tục thẩm.
- Án phí phúc thẩm: Công ty TNHH Đ1 không phải chịu án phí phúc
thẩm. Công ty TNHH Đ1 được nhận lại 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng
án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0011993 ngày 10/4/2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện P, tỉnh An Giang.
13
Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh An Giang;
- TAND huyện P;
- Chi cục THADS huyện P;
- Đương sự;
- Lưu: Văn phòng, Tòa Dân sự,
Phòng TT,KT&THA, hồ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Minh Châu
Tải về
Bản án số 143/2025/DS-PT Bản án số 143/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 143/2025/DS-PT Bản án số 143/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất