Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 143/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 143/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 143/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh An Giang |
Số hiệu: | 143/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Công ty TNHH DP - Công Ty THHH PT |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 143/2025/DS-PT
Ngày 24-6-2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán
tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Minh Châu.
Các Thẩm phán: Bà Trịnh Ngọc Thúy và ông Nguyễn Phước Hưng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Bé Thơ - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên tòa:
Ông Phạm Trường San - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17 và ngày 24 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
93/2025/TLPT-DS ngày 21 tháng 5 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 124/2025/QĐ-PT
ngày 26 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1; địa chỉ trụ sở: Số G,
Quốc lộ A, khu phố T, phường T, thành phố T, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:
- Ông Huỳnh Công S, chức vụ: Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn
Đ1, là người đại diện theo pháp luật (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Hoàng B, sinh năm 1972; địa chỉ: Số A Đ, phường T,
thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền (văn bản
ủy quyền số 01/2025-UQ ngày 03/6/2025 của Giám đốc Công ty) (có mặt).
2
2. Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N4; địa chỉ trụ sở:
Ấp B, xã B, huyện P, tỉnh An Giang.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
- Bà Lê Thị Kim N, chức vụ: Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên N4, là người đại diện theo pháp luật (vắng mặt).
- Ông Phạm Xuân T, sinh năm 1987; nơi cư trú: Số B, đường N, phường
A, quận N, Thành phố Cần Thơ, là người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản
ủy quyền ngày 13/02/2023) (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Quách Thanh P
là Luật sư của Văn phòng L, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh A (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Đỗ Hữu N1, sinh năm 1979; nơi cư trú: Ấp B, xã B, huyện P,
tỉnh An Giang (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của ông Đỗ Hữu N1: Ông Phạm Xuân T, sinh
năm 1987; nơi cư trú: Số B, đường N, phường A, quận N, Thành phố Cần Thơ,
là người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền ngày 13/02/2023) (vắng
mặt).
3.2. Ông Lê Văn B1, sinh năm 1986; nơi cư trú: Tổ A, ấp B, xã P, huyện
P, tỉnh An Giang (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1 là nguyên đơn
trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo hồ sơ án sơ thẩm thể hiện:
Theo đơn khởi kiện ngày 08/9/2022, đơn khởi kiện bổ sung ngày
01/6/2023, nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn Đ1 do ông Huỳnh Công S
đại diện trình bày:
Hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 của Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên N4 (sau đây gọi tắt là Công ty N5) bán cho Công
ty trách nhiệm hữu hạn Đ1 (sau đây gọi tắt là Công ty Đ1) gỗ tròn loại cà chít
xuất xứ Campuchia khối lượng 178,364m
3
giá 6.930.000 đồng, thành tiền
1.236.062.520 đồng, thuế GTGT 10% là 123.606.252 đồng.
Hợp đồng kinh tế số 10/2021/NNPT ngày 30/3/2021 của Công ty N5 bán
cho Công ty Đ1 gỗ tròn loại cà chít xuất xứ Campuchia khối lượng 12.724m
3
giá
6.930.000 đồng, thành tiền 88.177.320 đồng, thuế GTGT 10% là 8.817.732
đồng.
Hai bản Hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 và số
10/2021/NNPT ngày 30/3/2021 do Công ty N5 lập sau khi ông mua gỗ và đã
3
thanh toán xong số tiền đã mua được thể hiện tại hai biên bản giữa trại cây
Nghĩa N2 do ông N2 và ông ký kết được thể hiện cụ thể sau đây:
1/ Bảng tính tiền giữa người bán gỗ là ông N2 và người mua là ông ngày
11/3/2021, ông mua 151 lóng gỗ tròn khối lượng 200,178m
3
, giá 18.000.000
đồng/m
3
, thành tiền là 3.603.204.000 đồng, hai bên đồng ý ký tên vào biên bản.
2/ Bảng tính tiền giữa người bán gỗ là ông N2 và người mua là ông ngày
30/3/2021, ông mua 11 lóng gỗ tròn khối lượng 20,625m
3
, giá 18.000.000
đồng/m
3
, thành tiền là 371.250.000 đồng, hai bên đồng ý ký tên vào biên bản.
Hai bản tính tiền giữa người mua và người bán đúng theo khối lượng và
số tiền đã chi trả nhưng Công ty N5 lập hai hợp đồng kinh tế nhằm mục đích hạ
khối lượng gỗ, hạ số tiền để trốn thuế giá trị gia tăng đối với nhà nước. Ông
không ký tên vào hai hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 và số
10/2021/NNPT ngày 30/3/2021. Mặt khác, Công ty của ông không có chức năng
mua bán gỗ. Ông mua gỗ về làm nhà từ đường cho gia tộc của ông. Do đó, khi
lập biên bản giữa người mua và người bán gỗ, khi giao gỗ, ông N2 không cho
ông xem lý lịch gỗ nên giao gỗ cho gia đình ông không đúng chủng loại.
Phía Công ty N5 giao 200,178m
3
gỗ cho ông là ngày 13/3/2021, đến ngày
01/4/2021 tiếp tục giao 20,625m
3
. Ngày 03/4/2021, thợ mộc có tay nghề lâu
năm đến dỡ gỗ xây dựng nhà từ đường mới biết gỗ của Công ty N5 giao không
đúng chủng loại. Ông gọi điện, ông N2 cho 1 nhân viên tên Đ (không rõ họ tên
đầy đủ) xuống tận nhà ông kiểm tra gỗ. Ông Đ cũng xác nhận với ông là ông N2
giao gỗ không đúng chủng loại. Ông điện thoại, ông N2 có hứa từ ngày
17/4/2021 đến ngày 03/5/2021 ông N2 sẽ trả lại ông số tiền mua bán
3.994.256.824 đồng và nhận lại tất cả số gỗ không đúng chủng loại đã giao 2 lần
là 220,443m
3
. Sau đó dịch bệnh bùng phát khu vực phía Nam. Ngày 17/7/2021,
ông có nhờ 02 cán bộ Kiểm lâm tỉnh Long An đến nhà ông xem xét chủng loại
gỗ cùng đi với hai thợ mộc có tay nghề cao xác định gỗ ông mua của Công ty
N5 không phải gỗ cà chít xuất xứ Campuchia.
Nay ông yêu cầu Công ty N5 do bà N làm giám đốc và ông N2 có trách
nhiệm trả cho Công ty Đ1 tiền mua bán gỗ 3.994.256.824 đồng và bồi thường
thiệt hại do chậm trả tiền là 865.604.698 đồng; Công ty N5 do bà N làm giám
đốc và ông N2 nhận lại 220,443m
3
gỗ không đúng chủng loại đã giao cho Công
ty Đ1.
Bản tự khai ngày 13/02/2023, bị đơn Công ty N5 do bà Lê Thị Kim N đại
diện trình bày:
Bà N là giám đốc Công ty N5 với nhiều ngành nghề kinh doanh trong đó
có kinh doanh mua bán gỗ. Bà N kinh doanh mua bán gỗ nhưng bán gỗ số lượng
lớn cho những cơ sở kinh doanh gỗ, để họ kinh doanh lại hoặc sản xuất ra sản
phẩm khác. Còn ông N2 là chồng bà N là chủ trại cây Nghĩa Nhân có đăng ký
kinh doanh, hộ kinh doanh Đỗ Hữu N1 kinh doanh mua bán gỗ và cưa xẻ gỗ,
chủ yếu bán gỗ, cưa xẻ gỗ cho người dân có nhu cầu sử dụng cho gia đình. Công
4
ty N5 và H kinh doanh Đỗ Hữu N1 đều là tài sản chung của vợ chồng, do ông
N1 là người quản lý, cùng địa điểm kinh doanh có tên chung là trại cây Nghĩa
Nhân, nếu mua bán số lượng lớn thì hợp đồng mua bán lấy tên công ty ký kết
hợp đồng, còn mua bán số lượng nhỏ lẽ thì lấy tên H kinh doanh.
Năm 2021, ông S có đến trại cây Nghĩa N2 mua gỗ với số lượng lớn về
cất nhà từ đường cho dòng họ với loại gỗ cần tìm mua là gỗ cà chít (hay còn gọi
là cà chắc), ông N2 và ông S thỏa thuận miệng số lượng mua bán là 200m
3
gỗ cà
chít, giá 18.000.000đồng/m
3
. Ông S trực tiếp đến lựa chọn từng lóng gỗ tại trại
cây N, ông S chịu chi phí vận chuyển. Ông S mua gỗ về Long An nên việc vận
chuyển gỗ số lượng lớn từ tỉnh này qua tỉnh khác bắt buộc phải có hợp đồng
mua bán, hóa đơn giá trị gia tăng trên đường vận chuyển để xuất trình cho cơ
quan có thẩm quyền nên ông N2 phải lập hợp đồng mua bán, hóa đơn giá trị gia
tăng của Công ty N5 cho ông S. Ông S cho rằng ông không phải doanh nghiệp
kinh doanh gỗ nên hợp đồng kinh tế và hóa đơn giá trị gia tăng không được
dùng để khấu trừ thuế doanh nghiệp mà chỉ sử dụng để chứng minh gỗ có nguồn
gốc hợp pháp, có đầy đủ chứng từ doanh nghiệp và ông không cần phải đúng giá,
đúng số lượng mua bán thực tế. Còn Công ty N5 mua bán gỗ với số lượng lớn,
giá mua bán theo cơ sở giá nhập cả lô hàng, vì ông S mua gỗ làm nhà lớn và lựa
chọn từng lóng gỗ đẹp nên giá bán cao hơn giá cả lô hàng của công ty.
Sau khi ông N2 và ông S thỏa thuận mua bán xong thì ngày 01/3/2021
ông S cùng nhiều người đến trại cây ông N2 lựa chọn từng lóng gỗ cà chít, đo
tính số lượng, khối lượng đến ngày 10/3/2021 thì Công ty N5 do bà N đại diện
lập hợp đồng kinh tế số 06 ngày 01/3/2021 và hóa đơn thuế giá trị gia tăng số
0000558 ngày 10/3/2021 cho sà lan vận chuyển gỗ đi.
Ngày 30/3/2021, ông S tiếp tục đến lựa chọn mua thêm gỗ nên bà N lập
thêm hợp đồng kinh tế số 10 ngày 30/3/2021, hóa đơn thuế giá trị gia tăng số
0000562 để ông S vận chuyển gỗ về Long An.
Việc mua bán, vận chuyển, giá cả, phương thức thanh toán, giao nhận gỗ
tại đâu và như thế nào là giữa ông N2, ông S thỏa thuận miệng. Còn hai hợp
đồng kinh tế là do bà N cung cấp để giấy tờ hợp lệ trên đường vận chuyển gỗ về
Long An.
Sau hai lần mua bán thì Công ty N5 đã thực hiện đúng thỏa thuận mua
bán, giao đúng số lượng, chủng loại gỗ là cà chít, ông S đã thanh toán đủ tiền,
không phản ánh gì về chất lượng cũng như chủng loại và giá tiền ghi trên hóa
đơn.
Do đó, Công ty Đ1 do ông S làm chủ khởi kiện cho rằng Công ty N5 giao
cho ông không đúng chủng loại gỗ và yêu cầu Công ty N5 do bà N làm giám
đốc và ông N2 trả lại tiền mua bán gỗ là bà N không đồng ý, việc mua bán đã
giao nhận xong, đã có đầy đủ giấy tờ giao nhận.
Bản tự khai ngày 13/02/2023 và biên bản ghi lời khai ngày 10/12/2024,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hữu N1 trình bày:
5
Ông là chủ trại cây N, có đăng ký kinh doanh Hộ kinh doanh Đỗ Hữu N1
kinh doanh mua bán gỗ và cưa xẻ gỗ, chủ yếu là bán cho người dân có nhu cầu
sử dụng cho gia đình. Còn vợ ông là bà Lê Thị Kim N là Giám đốc Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên N4 có ngành nghề kinh doanh mua bán gỗ.
Công ty và Hộ kinh doanh có cùng địa điểm kinh doanh là trại cây Nghĩa N2 là
tài sản chung vợ chồng, ông là người quản lý chung, bà N chỉ đứng tên kinh
doanh.
Đầu năm 2021, ông Huỳnh Công S có đến trại cây của ông để hỏi mua gỗ
với số lượng lớn về cất nhà từ đường cho dòng họ, với loại gỗ cần tìm mua là gỗ
cà chít (còn gọi là cà chắc). Ông và ông S đã thỏa thuận miệng số lượng mua
bán là khoảng 200m
3
gỗ cà chít, giá 18.000.000 đồng/m
3
, ông S đến lựa chọn và
nhận gỗ trực tiếp tại trại cây của ông, ông S phải chịu chi phí vận chuyển, còn sà
lan vận chuyển gỗ do ông thuê giùm cho ông S nhưng phải đảm bảo nếu sà lan
vận chuyển không đủ số lượng thì ông phải bồi thường. Bên cạnh đó, ông S nhà
ở tỉnh Long An nên việc vận chuyển gỗ số lượng lớn bắt buộc phải có hợp đồng
mua bán, hóa đơn thuế giá trị gia tăng trên đường vận chuyển nên đòi hỏi ông
cung cấp hóa đơn cho ông S. Do số lượng gỗ hơn 200m
3
nên bên phía ông phải
làm hợp đồng kinh tế, xuất hóa đơn thuế giá trị gia tăng, bảng kê lâm sản cho
ông S để khi cơ quan có thẩm quyền kiểm tra thì số gỗ này mới hợp lệ. Còn ông
S cũng muốn việc mua bán gỗ có hóa đơn thuế giá trị gia tăng để ông có thể
được khấu trừ thuế nên ông S ký với tư cách đại diện Công ty Đ1. Vì vậy, Công
ty N5 ký hợp đồng kinh tế, xuất hóa đơn với Công ty Đ1 để ông S trình cơ quan
có thẩm quyền khi có kiểm tra trên đường vận chuyển cũng như trong quá trình
sử dụng. Công ty Đ1 không phải doanh nghiệp kinh doanh gỗ nên hóa đơn thuế
giá trị gia tăng không cần phải đúng giá, đúng số lượng mua bán thực tế. Còn
công ty N5 mua bán gỗ với số lượng lớn, giá mua bán trên hóa đơn thường thấp
hơn giá thực tế, gỗ này nhập khẩu nên khi bán phải ghi khối lượng đúng theo
chứng từ nhập khẩu gốc thường có khối lượng thấp hơn với thực tế. Ông S mua
gỗ lựa chọn từng lóng gỗ nên giá cả cao hơn mua cả lô hàng của công ty, nên giá
ghi trên hóa đơn xuất cho ông S theo giá cả lô hàng.
Sau khi ông và ông S thỏa thuận mua bán xong thì ngày 01/3/2021, Công
ty Đ1 đặt cọc Công ty N5 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) để ký hợp đồng mua
bán gỗ. Ông S cùng nhiều người đến trại cây Nghĩa N2 lựa chọn từng lóng gỗ cà
chít đến ngày 10/3/2021 được 151 lóng gỗ với khối lượng 200,178m
3
x
18.000.000 đồng/m
3
= 3.603.204.000 đồng. Ông và ông S lập bảng tính tiền giữa
trại cây Nghĩa N2 và ông Huỳnh Công S ngày 11/3/2021 có chữ ký của ông S.
Công ty N5 đã lập hợp đồng kinh tế số 06 ngày 01/3/2021, hóa đơn thuế giá trị
gia tăng số 0000558 ngày 10/3/2021 và bảng kê lâm sản cho sà lan để vận
chuyển gỗ cho ông S. Đến ngày 12/3/2021, thì sà lan chở gỗ đến Long An, giao
gỗ cho ông S cùng với hợp đồng kinh tế, hóa đơn giá trị gia tăng và bảng kê lâm
sản, ông S kiểm đếm đúng số lượng hai bên mua bán, ông S ký tên vào bảng
giao nhận gỗ và đóng dấu gửi lại cho Công ty N5. Còn tiền thanh toán, trừ tiền
6
đặt cọc 1.000.000.000 đồng, ông S đưa tiền mặt và chuyển khoản đủ số tiền mua
bán gỗ cho Công ty N5 và cho ông là 3.603.204.000 đồng.
Đến ngày 30/3/2021, Công ty Đ1 mua thêm của Công ty N5 11 lóng gỗ cà
chít, trại cây Nghĩa N2 và ông S lập bảng tính tiền mua bán ngày 30/3/2021 khối
lượng 20,625m
3
x 18.000.000 đồng/m
3
= 371.250.000 đồng. Công ty N5 giao
cho Công ty Đ1 hợp đồng kinh tế số 10 ngày 30/3/2021, hóa đơn thuế giá trị gia
tăng số 0000562 và bảng kê lâm sản để ông S đại diện công ty vận chuyển gỗ về
Long An. Đến ngày 01/4/2021 thì ông S đã trả tiền mặt và chuyển khoản trả đủ
tiền cho ông.
Sau khi mua bán 02 đợt gỗ trên thì giữa Công ty N5 và Công ty Đ1 đã
thực hiện đúng thỏa thuận mua bán, đã giao đúng số lượng và chủng loại gỗ là
cà chít, Công ty Đ1 đã thanh toán đủ tiền cho Công ty N5, không có phản ánh gì
về chủng loại gỗ cũng như về giá tiền ghi trên hóa đơn.
Do đó, Công ty Đ1 do ông S đại diện khởi kiện cho rằng giao không đúng
loại gỗ và yêu cầu Công ty N5 do bà Lê Thị Kim N làm giám đốc và ông Đỗ
Hữu N1 trả lại tiền mua bán gỗ là ông không đồng ý, vì việc mua bán đã được
giao nhận xong, đã có đầy đủ giấy tờ giao nhận.
Biên bản ghi lời khai ngày 16/12/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Lê Văn B1 trình bày: Năm 2021, ông có nhận vận chuyển 01 chuyến
gỗ khoảng 200 lóng tròn bằng sà lan từ trại cây Nghĩa Nhân đến C huyện B, tỉnh
Long An cho ông N1 với số tiền vận chuyển 20.000.000 đồng. Khi nhận gỗ vận
chuyển, ông S lựa chọn từng lóng gỗ tại bãi gỗ của trại cây Nghĩa N2 đưa lên sà
lan, thời gian nhận gỗ là 10 ngày. Sau khi lựa gỗ xong, ông vận chuyển gỗ đến
cảng B giao cho ông S. Quá trình vận chuyển thì ông N2 có giao hợp đồng mua
bán, hóa đơn và bảng kê gỗ, lâu quá ông không nhớ hết. Ông vận chuyển hơn
1,5 ngày mới tới C, ông điện thoại cho ông S báo sà lan tới thì ông S mới xuống
sà lan lấy giấy tờ lên cảng trình giấy tờ, bên phía cảng có nhiều người xuống
kiểm tra rồi mới cho sà lan cặp cảng. Khi bốc gỗ lên thì phía cảng cũng nhiều
người xuống kiểm tra gỗ nhưng ông không biết là họ làm gì, còn ông S thì kiểm
tra số lượng và loại gỗ mua. Sau đó, cảng bốc gỗ bằng cần cẩu lên bờ, còn vận
chuyển thì xe của ông S đến nhận đem về. Trên đường vận chuyển gỗ giao cho
ông S, C có kiểm tra, ông có đưa giấy tờ gỗ hợp lệ thì họ cho đi.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 430,
Điều 431, Điều 432, Điều 435 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
7
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm
hữu hạn Đ1 đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên N4 và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hữu N1 về hợp đồng mua bán tài
sản.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm;
quyền kháng cáo; quyền thi hành án và thời hiệu thi hành án của các bên đương
sự.
Ngày 07/4/2025, nguyên đơn Công ty Đ1 kháng cáo toàn bộ Bản án số:
70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh
An Giang, với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Hoàng B đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo. Các
đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Ông B có ý kiến:
Về tố tụng: Cấp sơ thẩm đã thông báo thụ lý là tranh chấp kinh doanh
thương mại hợp đồng mua bán gỗ nhưng khi xét xử nhận định và xác định quan
hệ tranh chấp là dân sự hợp đồng mua bán tài sản theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật
Tố tụng dân sự là không chính xác, cần xác định là quan hệ tranh chấp kinh
doanh thương mại và áp dụng Luật Thương mại năm 2005 đề giải quyết vụ án,
vì trong giao dịch mua bán gỗ đã đáp ứng đúng về mặt chủ thể tham gia giao kết
hợp đồng; mục đích của giao dịch và hình thức, phương thức thanh toán trong
giao dịch tài chính của doanh nghiệp theo quy định của Luật Thương mại năm
2005. Công ty Đ1 mua gỗ về làm nhà và đây cũng là trụ sở Công ty – biên bản
đối chất thể hiện rõ.
Về nội dung: Nguyên đơn và bị đơn xác định mua gỗ loại cà chít xuất xứ
Campuchia; cấp sơ thẩm không đánh giá đầy đủ kết quả giám định gỗ khi so
sánh với bảng kê lâm sản – đã xác định đây không phải là bảng kê giao nhận
thực tế; không đánh giá chứng từ số lượng loại gỗ đầu vào và ra của Công ty N5
và chưa đánh giá toàn bộ chứng cứ phía Công ty Đ1 khiếu nại và loại gỗ; bên
bán đã vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng theo quy định tại Điều 34 và Điều
312 của Luật Thương mại. Trên thực tế, Công ty Đ1 đã có khiếu nại trong thời
hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật Thương mại, cụ thể qua điện thoại
cho ông N1 và đã gửi email cho ông N1 phản hồi về việc không giao đúng loại
gỗ cà chít hoàn toàn số gỗ đã mua.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Luật sư Quách Thanh P là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị đơn có ý kiến: Không đồng ý yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn; đề nghị giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Vì Công ty N5 đã giao đúng hàng hóa, chất lượng, số
lượng và Công ty Đ1 đã nhận xong gỗ và thanh toán xong tiền mua bán. Công ty
8
Đ1 đã nhận gỗ xong, đem về kho lưu giữ, không có khiếu nại gì trong thời hạn
quy định. Nay Công ty Đ1 cho rằng Công ty N5 giao gỗ không đúng loại gỗ cà
chít như thỏa thuận là không có cơ sở. Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ hồ sơ
thống nhất giao dịch khi mua bán gỗ là cá nhân ông S với ông N1 và mua gỗ
làm từ đường cho dòng họ nên cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp dân sự
theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự là chính xác.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của đương sự hợp lệ; Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án, Thư ký, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử. Các
đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng.
+ Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm; nguyên đơn phải chịu án phí phúc
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Nguyên đơn Công ty Đ1 nộp đơn kháng cáo và nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm trong thời hạn luật định, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử
theo thủ tục phúc thẩm là đúng quy định tại Điều 285 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015.
Bị đơn Công ty N5 do ông Phạm Xuân T đại diện và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hữu N1 do ông Phạm Xuân T đại diện, ông Lê Văn
B1 có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2
Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự có tên nêu trên.
Tại phiên tòa, các đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu
kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về nội dung vụ án.
[1.1] Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp vụ án: Cấp sơ thẩm thụ lý
vụ án kinh doanh thương mại, nhưng khi giải quyết tại bản án xác định là vụ án
dân sự với nhận định: “Nguyên đơn tranh chấp hợp đồng mua bán gỗ với bị đơn,
cả nguyên đơn và bị đơn đều có đăng ký kinh doanh với loại hình doanh nghiệp
là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viêN4 nhưng nguyên đơn giao kết hợp
đồng mua bán gỗ không nhằm mục đích lợi nhuận, do đó quan hệ pháp luật là
tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán tài sản theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật
Tố tụng dân sự”.
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
- Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng: Cả hai Công ty đều là doanh nghiệp
có đăng ký kinh doanh theo loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn và căn cứ
khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại năm 2005 quy định về thương nhân “Thương
9
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”, thì cả
hai được xác định là thương nhân theo quy định pháp luật.
- Mục đích và bản chất giao dịch:
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại quy định:“Hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”
và tại khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại quy định: “Mua bán hàng hóa là hoạt
động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu
hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho
bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Công ty Đ1
mua gỗ của Công ty N5, theo đó Công ty N5 có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho Công ty Đ1; Công ty Đ1 có nghĩa vụ thanh toán cho
Công ty N5, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Xét về nội
dung là mua bán gỗ giữa Công ty Đ1 và Công ty N5 - đây là hoạt động thương
mại. Tại Biên bản đối chất ngày 10/5/2023 (bút lục số 176), ông Huỳnh Công S
đại diện cho Công ty Đ1 có trình bày mục đích Công ty Đ1 mua số lượng gỗ từ
Công ty N5 là xây dựng nhà để ở, vừa để ở vừa là chỗ kinh doanh của Công ty
Đ1 và tại phiên tòa, phía nguyên đơn cũng xác định nơi đặt trụ sở Công ty Đ1
cũng chính là nhà ở của ông S.
Tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HÐTP ngày 03/12/2012
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng dân
sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự quy định: “Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt
động kinh doanh, thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được
lợi nhuận mà không phân biệt có thu hay không thu được lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh, thương mại đó” và tại khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ-
HÐTP ngày 03/12/2012 quy định: “Hoạt động kinh doanh, thương mại không
chỉ là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại mà còn bao gồm
cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, thương mại”.
Mục đích lợi nhuận của Công ty Đ1 trong vụ án này được xác định là
mong muốn của Công ty Đ1 thu được lợi nhuận mà không phân biệt Công ty Đ1
có thu được hay không thu được lợi nhuận trên thực tế từ việc mua gỗ của Công
ty N5. Công ty Đ1 ký hợp đồng mua bán gỗ còn nhằm mục đích cho cơ quan
thuế xem xét khấu trừ thuế giá trị gia tăng cho Công ty Đ1. Mặt khác, cho dù
Công ty Đ1 không có chức năng kinh doanh gỗ theo Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh nhưng trong cả hai hợp đồng kinh tế số 06/2021/NNPT ngày
01/3/2021 và số 10/2021/NNPT ngày 30/3/2021 giữa hai Công ty đều không ghi
nhận mục đích của việc mua bán gỗ; cấp sơ thẩm cho rằng mục đích được xác
định trong giao dịch này là xây nhà ở (từ đường) chỉ là lời khai của ông S, đồng
thời đây cũng chính là nơi kinh doanh của Công ty Đ1.
10
Do đó, việc Công ty Đ1 ký kết hợp đồng mua bán gỗ với Công ty N5 phải
được xác định là hoạt động thương mại và có mục đích lợi nhuận.
- Về hình thức và phương thức thanh toán trong giao dịch tài chính của
doanh nghiệp:
Công ty Đ1 thực hiện thanh toán tiền mua gỗ cho Công ty N5 thông qua
tài khoản Ngân hàng của Công ty Đ1 (03 lần tổng số tiền 1.456.663.824 đồng)
và một phần thông qua tài khoản cá nhân, cụ thể: ông S nhờ em ông S (Huỳnh
Công T1 số tiền 2.263.338.000 đồng) và vợ ông S (bà Trương Mỹ N3 số tiền
274.255.000 đồng) chuyển khoản bằng tài khoản cá nhân cho ông Đỗ Hữu N1
(chủ hộ kinh doanh).
- Mặt khác, người khởi kiện là Công ty Đ1 do người đại diện theo pháp
luật ông Huỳnh Công S – Giám đốc ký đơn và đóng dấu Công ty Đ1 khởi kiện
Công ty N5 do bà Lê Thị Kim N làm Giám đốc đại diện theo pháp luật; và căn
cứ khởi kiện là Hợp đồng số 06/2021/NNPT ngày 01/3/2021 và số
10/2021/NNPT ngày 31/3/2021 đã giao kết giữa hai công ty, nội dung hợp đồng
không thể hiện là Công ty Đ1 mua gỗ nhằm mục đích xây dựng từ đường.
Từ phân tích trên, cho thấy đây là hoạt động của pháp nhân, xác định giao
dịch mua bán gỗ giữa Công ty Đ1 và Công ty N5 là hoạt động thương mại giữa
hai thương nhân có hoạt động thương mại thường xuyên, nhằm mục đích sinh
lợi. Do đó, quan hệ tranh chấp phát sinh từ giao dịch mua bán hàng hóa (gỗ) này
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 và phải được xác định
là tranh chấp kinh doanh thương mại về hợp đồng mua bán hàng hóa, theo
khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc cấp sơ thẩm nhận định mục đích
xây dựng nhà từ đường của ông S – chủ sở hữu Công ty Đ1 và cho rằng không
nhằm mục đích sinh lợi là chưa xem xét đầy đủ bản chất pháp lý của quan hệ
tranh chấp và xác định sai quan hệ pháp luật tranh chấp nên áp dụng sai pháp
luật nội dung.
[1.2] Thiếu người tham gia tố tụng: Thiếu ông Huỳnh Công S tham gia tố
tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Vì:
Ông S có yêu cầu em là ông Huỳnh Công T1 và vợ là bà Trương Mỹ N3
thanh toán tiền mua bán gỗ - chuyển khoản vào tài khoản cá nhân của ông Đỗ
Hữu N1 (như đã phân tích tại mục 1.1 nêu trên) và các giao dịch chứng từ cung
cấp ghi nhận: Ông S trả tiền gỗ và ông N1 đều xác định có nhận được số tiền
thanh toán gỗ đó. Tuy tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn cho rằng số tiền ông S nhờ ông T1 và bà N1 chuyển khoản trả cho
ông N1 là tiền của Công ty Đ1 nhưng không cung cấp chứng cứ chứng minh đã
được quyết toán báo cáo tài chính của Công ty Đ1.
Tại khoản 1 Điều 74 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Công ty
TNHH MTN4 là Doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ (chủ
sở hữu Công ty). Chủ sở hữu Công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của Công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty”;
11
khoản 3 Điều 77 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Phải xác định và
tách biệt tài sản của chủ sở hữu Công ty với tài sản của Công ty. Chủ sở hữu
Công ty là cá nhân phải tách biệt chi tiêu của cá nhân và gia đình mình với chi
tiêu của Chủ tịch Công ty, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc”. Do đó, việc cấp sơ
thẩm không xác định đưa ông Huỳnh Công S vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của ông S.
Ngoài ra, cần có ghi nhận ý kiến lời khai của em ông S là ông Huỳnh
Công T1 và vợ ông S là bà Trương Mỹ N3 về việc đã chuyển khoản trả tiền mua
gỗ cho ông N3, có phải theo yêu cầu của ông S hay không và nếu họ có tranh
chấp thì phải xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Với nhận định tại mục [1.1] và [1.2] trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy, do cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên cần hủy bản
án sơ thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025 của Tòa án nhân dân
huyện P, tỉnh An Giang và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang và người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là
không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Công ty Đ1, Hội đồng xét xử
phúc thẩm xét thấy:
Như đã phân tích trên, do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng, cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp
sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm, nên Hội đồng xét xử không
xem xét về nội dung vụ án, do đó không xem xét yêu cầu kháng cáo của nguyên
đơn.
Tuy nhiên khi giải quyết lại vụ án, cấp sơ thẩm cần lưu ý khi đánh giá
chứng cứ vụ án: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa -
tranh chấp về chủng loại gỗ thỏa thuận giao dịch mua bán: Cả hai thống nhất xác
định thỏa thuận mua bán loại gỗ cà chít (cà chắc) xuất xứ Campuchia.
Nguyên đơn cho rằng trong tổng số gỗ đã mua 162 lóng được giao có một
số lóng gỗ không phải là loại gỗ cà chít như đã thỏa thuận mua bán; bị đơn
không đồng ý cho rằng nguyên đơn đã nhận hàng và ký biên bản giao nhận gỗ
và chứng minh nguồn gốc là Công ty N5 mua gỗ từ Công ty T2 (Gia Lai) năm
2019 và nguồn gốc Công ty T2 nhập gỗ cà chắc từ Campuchia năm 2017. Đồng
thời cho rằng phía nguyên đơn đã lựa gỗ, kiểm tra đúng chất lượng gỗ khi nhận
nên nay cho rằng giao không đúng loại gỗ thì bị đơn không đồng ý.
Theo Bảng giao nhận gỗ giữa Trại cây Nghĩa N2 và chủ sở hữu Công ty
Đ1 là ông Huỳnh Công S lập ngày 11/3/2021 mua 151 lóng gỗ cà chít và bảng
giao nhận gỗ lập ngày 31/3/2021 mua 11 lóng gỗ cà chít: Công ty N5 không nêu
12
cụ thể số hiệu, số đầu lóng của các lóng gỗ (chỉ ghi nhận loại gỗ cà chít, số đo
hoành và dài, khối lượng; bỏ trống cột SDL – số đầu lóng).
Đồng thời, cả nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận Bảng kê lâm sản kèm
theo 02 hợp đồng kinh tế số 06 và số 10 đó là giả, không đúng thực tế về mặt
khối lượng và giá, chỉ ghi nhận để hợp thức hóa khi vận chuyển. Khối lượng gỗ
bên bán xác định cho rằng đã hoàn thành việc mua bán chính là hai Bảng giao
nhận gỗ. Do đó, cần phải làm rõ 162 lóng gỗ theo Biên bản giao nhận gỗ ngày
11/3/2021 và ngày 31/3/2021 được cho rằng là loại gỗ cà chít đã thỏa thuận mua
bán với nhau có nằm trong Bảng kê lâm sản nào mà Công ty N5 đã mua từ Công
ty T2 không? Công ty N5 chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh 162 lóng
gỗ bán cho Công ty Đ1 theo 02 Bảng giao nhận gỗ trên là nằm trong số lóng gỗ
nào đã mua (nhập kho) từ Công ty T2 - chưa làm rõ được loại gỗ Công ty N5
bán cho Công ty Đ1 có đúng là có nguồn gốc loại gỗ cà chít nhập khẩu từ
Campuchia như đã thỏa thuận mua bán không.
Những vấn đề này cấp sơ thẩm chưa làm rõ và ở giai đoạn phúc thẩm, bị
đơn Công ty N5 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông N2 có đơn xin
vắng mặt nên không thể làm rõ được tại phiên tòa.
[3] Về án phí và chi phí tố tụng:
Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Sẽ được xác định lại khi giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên người kháng cáo
không phải chịu án phí phúc thẩm, được nhận lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 148 và khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm
2025 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh An Giang và chuyển hồ sơ vụ án cho
Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
2. Về án phí và chi phí tố tụng:
- Án phí sơ thẩm và chi phí tố tụng: Sẽ được xác định lại khi giải quyết lại
vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm: Công ty TNHH Đ1 không phải chịu án phí phúc
thẩm. Công ty TNHH Đ1 được nhận lại 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng
án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0011993 ngày 10/4/2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện P, tỉnh An Giang.
13
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh An Giang;
- TAND huyện P;
- Chi cục THADS huyện P;
- Đương sự;
- Lưu: Văn phòng, Tòa Dân sự,
Phòng TT,KT&THA, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Minh Châu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 08/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm