Bản án số 303/2025/DS-PT ngày 13/08/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 303/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 303/2025/DS-PT ngày 13/08/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 303/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Phạm Thị D
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 303/2025/DS-PT
Ngày: 13-8-2025.
V/v: Kiện đòi tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Duy Tuấn;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Thuấn;
Bà Đinh Thị Tuyết.
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Thê - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sthụ số: 247/2025/TLPT-DS ngày 25/6/2025,
về việc: Kiện đòi tài sản”, do Bản án dân sự thẩm số 04/2025/DS-ST ngày
24/4/2025 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 292/2025/QĐ-PT, ngày
14/7/2025 Quyết định hoãn phiên tòa số: 279/2025/QĐ-PT ngày 05/8/2025, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Phạm Thị D; địa ch: Tdân phố A, thị trấn P, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk. (Nay là: Tổ dân phố A, xã P, tỉnh Đắk Lắk), có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho D: Ông Nguyễn Huy H; địa
chỉ: Số D H, phường A, thị B, tỉnh Đắk Lắk. (Nay là: Số D H, phường B, tỉnh
Đắk Lắk), có mặt.
2. Bị đơn: Ông Đinh Văn G; địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn P, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk. (Nay là: Tổ dân phố A, xã P, tỉnh Đắk Lắk), có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông G: Ông Nguyễn Tiến T; địa
chỉ: Số C N, phường T, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Huy H1, Ngô Như
N; cùng địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Nay là: Tổ dân
phố A, xã P, tỉnh Đắk Lắk), đều vắng mặt.
2
4. Người làm chứng:
- Ông Nguyễn Văn T1; Địa chỉ: Thôn B, xã E, huyện C (nay là xã E), tỉnh Đắk
Lắk (Có đơn xin vắng mặt).
- Chị Đinh Thị Hương G1; Địa chỉ: Phường T, quận C (nay phường Đ), thành
phố Hà Nội, vắng mặt.
5. Người kháng cáo: Bị đơn ông Đinh Văn G.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà nguyên
đơn bà Phạm Thị D trình bày:
Tôi ông Đinh Văn G đã ly hôn vào m 2014 theo Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn số 09/2014/QĐST-HNGĐ ngày 16/4/2014, của Tòa án nhân dân
huyện Krông Búk; Sau khi ly hôn, ngày 07/5/2014 chúng tôi tự thỏa thuận phân chia
tài sản chung của vợ chồng tại UBND P, huyện K, theo thỏa thuận: Tôi (Phạm
Thị D) được toàn quyền sử dụng, định đoạt tài sản là:
Quyền sử dụng đất diện tích 1.1855 m
2
tại xã P thuộc thửa đất 38, thửa đất 39,
tờ bản đồ số 03, đất được Ủy ban nhân dân huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số R 570561 ngày 25 tháng 04 năm 2001 (Nay đã tách thành Quyền sử
dụng đất tại thửa đất 38, tbản đồ số 3, diện tích 7500,0 m
2
được Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
các tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất) ngày 29/4/2016, số phát hành giấy chứng nhận 202243 mang tên
Phạm Thị D và Quyền sử dụng đất tại thửa đất 39, tờ bản đồ số 3, diện tích 4355,0
m
2
được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 29/4/2016, số phát hành giấy chứng nhận 202244 mang tên
Phạm Thị D.
Trên đất có nhà xưởng, máy móc sản xuất, nhà ở và đồ dùng sinh hoạt ngoài
ra phần diện tích đất còn lại là đất trống. Thời điểm đó tài sản đang thế chấp tại ngân
hàng S1, tôi trách nhiệm trả nợ ngân hàng hơn 500.000.000 đồng số tiền nợ
ngoài là 200.000.000 đồng, tôi đưa cho ông G 100.000.000 đồng.
Ngày 15/5/2014 tôi đã đưa cho ông G số tiền trên. Như vậy, việc phân chia tài
sản của tôi và ông G đã thực hiện xong.
Sau khi ly hôn đến khoảng tháng 6 năm 2014 do chưa chỗ ở nên tôi cho ông
G lại nhà trên phần đất tôi được phân chia, chúng tôi tiếp tục chung sống với
nhau nhưng không đăng ký kết hôn lại. Quá trình chung sống, chúng tôi thường
xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân ông G thường xuyên đánh đập tôi. Từ năm
2022 mâu thuẫn giữa tôi ông G ngày càng trầm trọng tôi không thể cùng chung
sống với ông G nên yêu cầu ông G bàn giao tài sản lại cho tôi là quyền sử dụng đất
3
tại thửa 38, 39 tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại: thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, nhưng
ông G chây ỳ, không bàn giao, ngăn cản không cho tôi được sử dụng, định đoạt đối
với tài sản là quyền sử dụng đất trên.
Ngày 30/8/2023 tôi đã chuyển nhượng cho ông Phạm Huy H1, Lê Ngô Như N
thửa đất số 39, tờ bản đồ số 03, diện tích 4355m
2
, tọa lạc Tổ dân phố A, thị trấn P,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Hiện thửa đất đã đứng tên Phạm Huy H1, Ngô Như
N nhưng tôi chưa bàn giao đất cho vợ chồng ông H1 ông G ngăn cản chiếm
giữ.
Do vậy đđảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của mình, tôi yêu cầu Tòa án
nhân dân huyện Krông Búk giải quyết buộc: Ông Đinh Văn G phải bàn giao tài sản
là Quyền sử dụng đất diện tích 1.1855 m
2
tại xã P thuộc thửa đất 38, thửa đất 39, tờ
bản đồ số 3, đất được y ban nhân dân huyện K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số R 570561 ngày 25 tháng 04 năm 2001 (Nay đã tách thành Quyền sử dụng đất
tại thửa đất 38, tờ bản đồ số 3, diện tích 7500,0 m
2
và được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/4/2016, số phát hành
giấy chứng nhận 202243 mang tên Phạm Thị D Quyền sử dụng đất tại
thửa đất 39, tờ bản đồ số 3, diện tích 4355,0 m
2
được Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 29/4/2016, số phát hành
giấy chứng nhận CĐ 202244 mang tên bà Phạm Thị D.
* Bị đơn ông Đinh Văn G trình bày:
Tôi Phạm Thị D đã ly hôn vào năm 2014 theo quyết định Công nhận
thuận tình ly hôn của Toà án nhân dân huyện Krông Búk và đã thoả thuận phân chia
tài sản chung của hai vợ chồng ngày 07/5/2014, xác nhận của Ủy ban nhân dân
P nay thị trấn P. Nhưng sau khi ly hôn vài ngày thì tôi D quay lại sống
với nhau theo sự đồng thuận của 02 bên mong muốn của con cái; gia đình gồm
tôi, D, 03 con họp lại trao đổi tài sản của tôi D sẽ để lại toàn bộ cho
các con; tuy nhiên không lập thành văn bản. Sau đó tôi với D sống lại với nhau
gần 10 năm. Vchồng tôi vẫn sinh sống và chăn nuôi, trồng trọt, kinh doanh trên
thửa đất diện tích 11855m
2
, tại thị trấn P, thuộc thửa đất số 38, 39, tờ bản đồ số 03.
Khi chia tài sản tôi và bà D thống nhất đất đai sau này đều để lại hết cho các con; vì
vậy tôi mới đồng ý chia cho D. Năm 2022, đột nhiên D bỏ đi viết giấy để
lại cho tôi; khi đi bà D có mang khoảng 100.000.000 đồng và 2.700kg tiêu. Sau một
năm rưỡi thì quay về và đòi bán nhà và một số tài sản trong nhà n03 khối gỗ. Sau
đó bán lén lút chuyển nhượng cho ông Huy H2 một mảnh đất diện tích 4300m
2
,
trên đó 01 căn nhà bố con tôi đang ở, bố con tôi không đồng ý. Bọn mua đất đã
đến đánh tôi các con tôi. Trước khi bỏ đi thì năm 2021 D bán 01 dây chuyền
chế biến hạt điều chưa sử dụng, một nồi hơi, 01 nồi hấp sấy. Phạm Thị D
vẫn chưa thực hiện hết các điều khoản trong văn bản thoả thuận phân chia tài sản,
cụ thể:D phải có trách nhiệm đưa lại cho tôi số tiền 100.000.000 đồng, nhưng bà
4
Phạm Thị D chỉ đưa cho tôi số tiền 50.000.000 đồng. Ngay sau đó, tôi đã chuyển số
tiền 50.000.000 đồng cho con gái Đinh Thị Hương G1 để mua xe máy. Thời gian
sau khi tôi và bà D quay lại với nhau thì con gái Đinh Thị Hương G1 đã gửi về cho
D để trả số tiền trên 50.000.000 đồng, mỗi tháng gửi khoảng 10.000.000 đồng.
Bà D nói đó là trừ vào 50.000.000 đồng đã đưa cho tôi trước đó; cho nên số tiền bà
D nói đưa cho tôi 100.000.000 đồng là không có, không đúng sự thật.
Năm 2018, tôi đã bảo lãnh cho con gái út là Đinh Việt H3 đi du học Nhật Bản
bằng tài sản trên, là thửa đất diện tích 11855m
2
; tất cả nhưng giấy tờ vay ngân hàng
đều chữ ký của tôi. Gần 10 năm qua tôi đã làm thành công các dự án trên mảnh
đất này trại thỏ giống vườn tiêu. Công sức 10 năm qua tôi bỏ ra để dành cho
con cái, vì đây là ngôi nhà duy nhất của các con.
Ngoài ra, khi chia tài sản tôi còn phải trả khoản n30.000 USD tương đương
với số tiền 600.000.000 đồng; đây là tiền của vợ chồng em gái tôi cho vợ chồng tôi
vay để làm vốn buôn bán; đến giờ tôi vẫn chưa trả được.
Vì vậy, việc chia tài sản giữa tôi và D là chưa xong nên tôi hoàn toàn không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà D.
* Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Phạm Huy H1, Ngô Như
N trình bày:
Ngày 30/8/2023 vợ chồng tôi nhận chuyển nhượng của Phạm Thị D 01
thửa đất toạ lạc tại tổ dân phố A, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk thuộc thửa đất số
39, tờ bản đồ số 03, diện tích 4355m
2
, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất s
CĐ 202244, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 29/4/2016, đứng tên
Phạm Thị D. Chúng tôi đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất tại
Văn phòng C1; hai bên thoả thuận giá chuyển nhượng 1.500.000.000 đồng; vợ
chồng tôi đã thanh toán cho bà D 760.000.000đồng; và đã đăng ký xác nhận chuyển
nhượng đứng tên vợ chồng tôi tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, đến
nay bà D vẫn chưa bàn giao thửa đất trên cho vợ chồng tôi vì bị ông Đinh Văn G
chồng cũ củaD ngăn cản. Hiện bà D đã khởi kiện yêu cầu ông G bàn giao tài sản
đã phân chia. vậy, để đảm bảo quyền lợi của vợ chồng tôi, chúng tôi yêu cầu Toà
án giải quyết buộc: Ông Đinh Văn G phải thực hiện việc bàn giao thửa đất số 39, tờ
bản đồ số 03 cho bà Phạm Thị D để D bàn giao thửa đất đã chuyển nhượng cho
vợ chồng tôi sử dụng.
* Người làm chứng, ông Nguyễn Văn T1 trình bày: Tôi có quen biết với ông
G D. Ngày 15/5/2014, do quan hệ chú của cả 2 bên, tôi đến nhà chơi. Tôi
thấy hai vợ chồng đếm tiền giao tiền bên trong bàn. Còn tôi ngoài bàn
uống nước. Sau cầm giấy giao tiền ra nhờ tôi làm chứng; tôi đã thấy 2
người ký rồi, nhờ tôi ký làm chứng. Còn giao số tiền bao nhiêu thì tôi không được
biết và việc gì thì tôi không rõ.
5
* Người làm chứng, chị Đinh Thị Hương G1 trình bày: Khoảng năm 2018-
2019, tôi có chuyển tiền cho bố mẹ vào tài khoản của mẹ tôi là Phạm Thị D, số tiền
mỗi lần chuyển từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, tổng số tiền chuyển khoảng
50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng, sau này tôi có hỏi mẹ tôi thì mẹ tôi nói rằng
số tiền này tiền trả bố đã chuyển cho tôi mua xe máy. Cùng thời gian đó trong
cuộc họp gia đình thì bố mẹ quay lại với nhau, gia đình đã thống nhất tài sản, nhà
cửa đất đai đều là tài sản chung của gia đình không chia riêng cho bất cứ ai.
Tại Bản án dân sự thẩm số 04/2025/DS-ST ngày 24/4/2025 của Toà án nhân
dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 144, Điều 147, Điều 158, Điều 165, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều
228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 163, Điều 164, Điều 165, Điều 166, Điều 169,
Điều 205, Điều 206 Bộ luật Dân sự năm 2015; Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số
326/UBTVQH 12 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ
phí Toà án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phạm Thị D
yêu cầu độc lập của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Huy H1,
Lê Ngô Như N.
1. Buộc bị đơn ông Đinh Văn G phải bàn giao cho bà Phạm Thị D 02 thửa đất
và tài sản gắn liền với 02 thửa đất sau:
- Thửa đất số 38, tờ bản đồ s03, diện ch 7500m
2
, toạ lạc tại thị trấn P, huyện
K; Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 202243 do Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 29/4/2016, đứng tên bà Phạm Thị D; Vị ttcận: Phía
Đông giáp thửa đất số 39 (thửa đang tranh chấp); phía y giáp giáp thửa đất
số 216 số hoá (đất Thu H4); phía Bắc giáp thửa đất số 37 (thửa số 106 số hoá)
(đất bà Lý K); phía Nam giáp thửa đất số 58. Tổng diện tích theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là 7500m
2
, diện tích thực tế 7819m
2
.
Tài sản gắn liền với đất: 01 căn nhà thưng tôn (tạm) diện tích 80m
2
; 01 nhà
xưởng, diện tích 300m
2
; 01 Giếng đào sâu 25m; 01 hồ nước bao bạt; Sân xi măng,
diện tích 500m
2
; 542 trụ tiêu trụ sống (trụ gòn); 27 cây sầu riêng thường; 02 cây
hoa mai trồng năm 2004; 01 cây vú sữa; 01 cây mít; 02 cây na; 02 cây hoa giấy; 01
cây ổi.
- Thửa đất số 39, tờ bản đồ s03, diện ch 4355m
2
, toạ lạc tại thị trấn P, huyện
K; Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 202244 do Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 29/4/2016, đứng tên bà Phạm Thị D; Vị ttcận: Phía
Đông giáp thửa đất số 39a (thửa s119 số hoá (đất ông T2, B); phía Tây giáp
thửa 38 (đang có tranh chấp); phía Bắc giáp đường giáp thửa đất số 106 số hoá;
6
phía Nam lần lượt giáp đất ông Thành T3, ông Hải C, bà D1, ông S. Tổng diện tích
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 4355m
2
, diện tích thực tế 4557,7m
2
.
Tài sản gắn liền với đất: 01 căn nhà (kho); 02 trụ cổng xây; Sân xi măng, diện
tích 500m
2
; 123 trụ tiêu sống (trụ gòn); 13 cây sầu riêng thường trồng từ năm 2004;
02 cây chà là trồng năm 2020.
2. Đối với tài sản gắn liền trên đất gồm cây trồng công trình xây dựng do
ông Đinh Văn G Phạm Thị D tạo dựng từ tháng 5/2014 đến năm 2022; ông
Đinh Văn G quyền khởi kiện yêu cầu xác định phân chia giá trị của các tài
sản trên đất bằng một vụ án khác.
Ngoài ra, Bản ánthẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo
cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xthẩm, ngày 29/4/2025, bđơn ông Đinh Văn G kháng cáo bản
án đề nghị Toà án hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện,
bị đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng: Tòa án cấp
thẩm nhiều vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, nhiều nội dung chưa được
làm rõ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của bị đơn ông Đinh Văn
G nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Đinh Văn G, hủy toàn
bộ Bản án dân sự thẩm số 04/2025/DS-ST ngày 24/4/2025 của Toà án nhân dân
huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk, giao hồ sơ cho cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ
tục chung.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng: Không đồng
ý với ý kiến của bị đơn người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn. Đề
nghị Tòa án giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2025/DS-ST ngày 24/4/2025
của Toà án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa phát biểu ý
kiến: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cũng như tại phiên
tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự; về nội dung: Xét nội dung kháng cáo của bị đơn
ông Đinh Văn G là không có căn cứ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản
1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông
Đinh Văn G, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2025/DS-ST ngày 24/4/2025
của Toà án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết
quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng
7
cứ, lời trình bày của các đương sự ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử
nhận định như sau:
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Đinh Văn G, thấy rằng:
[1.1] Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm, ông Đinh Văn G
Phạm Thị D đều thừa nhận ông G, D đã ly hôn theo Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự số 09/2014/QĐST-HNGĐ ngày
16/4/2014 của Toà án nhân dân huyện Krông Búk. Sau khi ly hôn, ngày 07/5/2014,
ông G bà D lập Văn bản thoả thuận phân chia tài sản, được chứng thực tại Ủy ban
nhân dân P. Theo đó, D được chia Quyền sử dụng diện tích 11.855m
2
đất tại
P thuộc thửa đất số 38 thửa đất số 39, tbản đồ số 3 theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số R 570561 do UBND huyện K cấp ngày 25/4/2001, đồng thời
Phạm Thị D phải có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng và khoản nợ ngoài Ngân hàng
200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) vay thêm 100.000.000 đồng (Một trăm
triệu đồng) để đưa lại cho ông Đinh Văn G. Ngày 15/5/2014 hai bên tiến hành viết
Giấy nhận tiền. Ông G cũng thừa nhận có ký tên vào văn bản thỏa thuận phân chia
tài sản trên giấy nhận tiền, nên đây tình tiết thuộc trường hợp không phải chứng
minh theo điểm a khoản 1 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Sau khi các bên thỏa thuận phân chia tài sản, ngày 29/4/2016, Phạm Thị D
đã làm thủ tục xin tách thành 02 thửa đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Cụ thể:
- Thửa đất số 38, tờ bản đồ số 03, diện tích 7500m
2
, toạ lạc tại thị trấn P, huyện
K; theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà ở các tài sản khác
gắn liền với đất số 202243 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp ngày
29/4/2016 cho bà Phạm Thị D.
- Thửa đất số 39, tờ bản đồ số 03, diện tích 4355m
2
, toạ lạc tại thị trấn P, huyện
K; theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà ở các tài sản khác
gắn liền với đất số 202244 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp ngày
29/4/2016 cho Phạm Thị D. Ngày 30/8/2023, Phạm Thị D lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên cho ông Phạm Huy H1 Ngô Như N, hợp
đồng được công chứng tại Văn phòng C1. Ngày 20/9/2023, Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai huyện K xác nhận chuyển nhượng cho ông Phạm Huy H1 và bà Lê
Ngô Như N.
Như vậy, việc thỏa thuận phân chia tài sản giữa ông G D đã được thực
hiện xong, việc ông G tiếp tục sinh sống cùng D nhưng các bên không lập thỏa
thuận mới, ông G không cung cấp tài liệu chứng minh việc hủy bỏ thỏa thuận, đồng
thời cũng không cung cấp chứng cứ về việc D chưa thanh toán đủ tiền cho ông
như thỏa thuận. Do đó, tòa án cấp sơ thẩm đã phân tích, nhận định tuyên buộc ông
G phải có nghĩa vụ bàn giao 02 tài sản trên cho bà D là có căn cứ.
8
[1.2] Đối với tài sản gắn liền trên đất gồm cây trồng và công trình xây dựng do
ông G D tạo dựng từ tháng 5/2014 đến năm 2022, quá trình giải quyết vụ án
tại phiên toà, ông G không yêu cầu xác định hay phân chia các tài sản này. Do
vậy, Tòa án cấp thẩm dành quyền khởi kiện cho ông G về quyền khởi kiện yêu
cầu xác định và phân chia giá trị của các tài sản trên đất bằng một vụ án khác là phù
hợp.
[2] Từ nhng phân tích, nhận định trên, xét thấy nội dung kháng cáo của bị
đơn ông Đinh Văn G vnội dung trên không căn cứ chấp nhận, cần giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm về nội dung này là phù hợp.
[3] Về án phí:
[3.1] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được
chấp nhận nên bị đơn ông G phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự thẩm. Tuy
nhiên, tại cấp phúc thẩm, ông G có đơn xin miễn án phí nên áp dụng điểm đ khoản
1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH 12 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án, miễn án phí dân sthẩm cho ông G. Do đó,
cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông G, sửa mt phần bản án dân sự sơ thẩm
về án phí là phù hợp.
[3.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm nên
người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị,
nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng
dân sự:
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Đinh Văn G. Sửa một phần Bản
án dân sự thẩm số 04/2025/DS-ST ngày 24/4/2025 của Toà án nhân dân huyện
Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk về án phí.
[2] Áp dụng: Điều 163, Điều 164, Điều 165, Điều 166, Điều 169, Điều 205,
Điều 206 Bộ luật Dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/UBTVQH 12 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ
phí Toà án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị D yêu
cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Phạm Huy H1, bà Lê
Ngô Như N.
9
[2.1] Buộc bị đơn ông Đinh Văn G phải bàn giao cho Phạm Thị D 02 thửa
đất và tài sản gắn liền với 02 thửa đất sau:
- Thửa đất số 38, tờ bản đồ số 03, diện tích 7500m
2
, toạ lạc tại thị trấn P, huyện
K theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác
gắn liền với đất số 202243 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp ngày
29/4/2016, đứng tên Phạm Thị D. Vị trí tcận: Phía Đông giáp thửa đất số 39
(thửa đang tranh chấp); phía Tây giáp giáp thửa đất số 216 shoá (đất Thu
H4); phía Bắc giáp thửa đất số 37 (thửa số 106 số hoá) (đất K); phía Nam giáp
thửa đất số 58. Tổng diện tích theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 7500m
2
,
diện tích thực tế 7819m
2
.
Tài sản gắn liền với đất: 01 căn nhà thưng tôn (tạm) diện tích 80m
2
; 01 nhà
xưởng, diện tích 300m
2
; 01 Giếng đào sâu 25m; 01 hồ nước bao bạt; Sân xi măng,
diện tích 500m
2
; 542 trụ tiêu trụ sống (trụ gòn); 27 cây sầu riêng thường; 02 cây hoa
mai trồng năm 2004; 01 cây vú sữa; 01 cây mít; 02 cây na; 02 cây hoa giấy; 01 cây
ổi.
- Thửa đất số 39, tờ bản đồ số 03, diện tích 4355m
2
, toạ lạc tại thị trấn P, huyện
K; theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà ở các tài sản khác
gắn liền với đất số 202244 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp ngày
29/4/2016, đứng tên Phạm Thị D. Vị trí tứ cận: Phía Đông giáp thửa đất số 39a
(thửa số 119 số hoá (đất ông T2, bà B); phía Tây giáp thửa 38 (đang có tranh chấp);
phía Bắc giáp đường giáp thửa đất số 106 số hoá; phía Nam lần lượt giáp đất ông
Thành T3, ông Hải C, D1, ông S. Tổng diện tích theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là 4355m
2
, diện tích thực tế 4557,7m
2
.
Tài sản gắn liền với đất: 01 căn nhà (kho); 02 trụ cổng xây; Sân xi măng, diện
tích 500m
2
; 123 trụ tiêu sống (trụ gòn); 13 cây sầu riêng thường trồng từ năm 2004;
02 cây chà là trồng năm 2020.
[2.2] Đối với tài sản gắn liền trên đất gồm cây trồng và công trình xây dựng do
ông Đinh Văn G Phạm Thị D tạo dựng từ tháng 5/2014 đến năm 2022; ông
Đinh Văn G quyền khởi kiện yêu cầu xác định và phân chia giá trị của các tài sản
trên đất bằng một vụ án khác.
[3] Về chi phí tố tụng:
Buộc ông Đinh Văn G phải hoàn trả cho nguyên đơn bà Phạm Thị D 1.800.000
đồng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, 3.800.000 đồng chi phí định giá tài sản.
[4] Về án phí:
[4.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Đinh Văn G được miễn án phí dân sự sơ thẩm; hoàn trả cho bà Phạm Thị
D số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp theo Biên lai số
10
AA/2022/0004315 ngày 28/12/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K; hoàn
trả cho ông Phạm Huy H1, bà Lê Ngô Như N số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí
dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số AA/2023/0012318 ngày 11/11/2024 tại Chi
cục thi hành án dân sự huyện K (nay Phòng thi hành án dân sự khu vực T, tỉnh
Đắk Lắk).
[4.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đinh Văn G không phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật
Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa PT TAND tối cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND khu vực 8 – Đắk Lắk;
- Phòng THADS khu vực T;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trần Duy Tuấn
Tải về
Bản án số 303/2025/DS-PT Bản án số 303/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 303/2025/DS-PT Bản án số 303/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất