Bản án số 129/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 129/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 129/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 129/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Nguyễn Thị T khởi kiện bà Phạm Thị M về việc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

A ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 129/2025/DS-PT
Ngày 24 - 6 - 2025
V/v “Tranh chấp đòi lại tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thẩm phán: Bà Đào Thị Huệ
Ông Trịnh Hoàng Anh
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Vân Thủy Tký Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa Vũng Tàu: Hoàng
Thị Hương Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 17 và 24 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự th lý số
62/2025/TLPT-DS ngày 18/3/2025 về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 142/2024/DS-ST ngày 24/12/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2025/-PT ngày 19/5/2025,
Quyết định hoãn phiên tòa số 133/2025/QĐ-PT ngày 10/6/2025, giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị T, sinh năm 1970; Địa chỉ: Số H đường số
B, Phường F, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện ủy quyền: Nguyễn Ngọc Minh G, sinh năm 1990; Địa
chỉ liên hệ: Số I Hậu Giang, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (có
mặt).
- Bị đơn: Phạm Thị M, sinh năm 1967; Địa chỉ: Tổ A, ấp H, P, huyện
X, tỉnh Bà Rịa - ng Tàu (vắng mặt).
Người đại diện ủy quyền: Ông Trần Đức P, sinh năm 1975; Địa chỉ: Số D
L, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Trần Thị C, sinh năm 1978; Địa chỉ: Số A T, phường T, Quận A,
Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
2. Nguyễn Thị Minh T1, sinh năm 1962; Địa ch liên lạc: Số D T,
Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Phạm Thị M, là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện quá trình tố tụng tại Toà án, nguyên đơn
Nguyễn Thị T và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Năm 2007, Nguyễn Thị T Phạm Thị M cùng hợp tác làm ăn chung,
hai bên cùng mua đất để lập nhiều dự án, tất cả dán đều do M người đại
diện đứng ra giao dịch đứng tên, còn cthể dán nào thì M không cung cấp
cho T. M T tiếp tục cùng đầu chứng khoán, M cũng người
đại diện đứng ra giao dịch và đứng tên, M không cung cấp cho T biết đầu
loại chứng khoán gì, của công ty nào. Ngoài ra, ông Lương T2 mua nhà của
ông H còn nợ tiền M T 150.000.000 đồng. Trong quá trình làm ăn
chung, bà M và bà T phát sinh nhiều mâu thuẫn và xung đột không thể giải quyết
được. Đến khoảng cuối năm 2012, do không thể tiếp tục hợp tác làm ăn chung
nên bà M T đã thuê bà Trần Thị C là kế toán tự do để tính toán lại toàn bộ
tài sản chung còn lại công ncủa hai bên. T cho rằng M không
quen biết C từ trước, chỉ thông qua người giới thiệu mới biết C làm kế toán
nên mới thuê. Dựa trên bảng “Tổng cộng phần vốn đọng” của C lập, T
bà M đã lập Bản thoả thuận ngày 21/01/2013 để phân chia công nợ và các tài sản
chung (phần tài sản được hình thành bởi việc cộng gộp vốn lợi nhuận từ đầu
tư) đang còn tồn đọng để chấm dứt việc hợp tác làm ăn này. Nội dung Bản thoả
thuận được hai bên thống nhất, cụ thể như sau (chỉ tính các khoản tồn đọng và nợ
theo yêu cầu của nguyên đơn trong vụ án này):
- Đất dự án bà M đứng tên quy ra tiền còn dư lại là 300.000.000 đồng;
- Chứng khoán quy ra tiền còn dư lại là 100.000.000 đồng;
- Tiền ông Lương T2 mua nhà ông H còn nợ 150.000.000 đồng.
Bà M đã nhận đủ và đang quản lý số tiền trên.
Về nội dung diện tích đất thực hiện dự án mà bị đơnPhạm Thị M đứng
tên trong Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013, T không biết cụ thể tất cả việc
đứng tên pháp đều do M phụ trách, mọi sự việc số liệu đều do M thông
báo và bà T ghi nhận.
Về nội dung số tiền ông Lương T2 còn nợ, toàn bộ việc mua bán đều do
M đứng tên và thông báo lại cho T, bà T không biết cụ thể. Bà T xác nhận, khi
làm Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013, M đã nhận đtiền đang làm thtục
sang tên lại cho ông T2 chứ không phải ông T2 đang còn ntiền. Tuy nhiên hai
vẫn ghi nhận lại thông tin tiền nợ của ông T2để biết số tiền trong vốn
đọng M phải chia cho T. T cho rằng M trách nhiệm giao
3
dịch với khách và bà M cũng là người đứng tên pháp lý tất cả giấy tờ chứ không
phải bà T nên bà T không có thông tin của ông T2, ông H.
Tổng số công nđến hết tháng 12/2012 của cả hai bên tạm nh còn lại
5.366.150.000 đồng. Bà T và M thống nhất chia đôi tất cả tài sản tồn đọng và
công nợ theo thống của C. Như vậy, T M mỗi bên phải đưa ra số
tiền tạm tính là 2.683.075.000 đồng và bà M phải sang tên cho bà T một phần tài
sản bất động sản đang đứng tên M kết thúc các hợp đồng uỷ quyền bất
động sản có đứng tên bà T sao cho cân đối giá trị như đã thống nhất chia đôi nêu
trên. Trong số đó có thửa đất số 161, tờ bản đồ số 23 tại phường T, quận A, thành
phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 771907 do Ủy
ban nhân dân Quận A1, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 31/03/2009.
Thực hiện theo thỏa thuận, T đã trả cho M 50% số tiền chênh lệch
của tổng chi phí vốn đọng 5.366.149.527 đồng/2 = 2.683.075.000 đồng, bà M
đã nhận đủ tiền. Chữ tạm” tổng kết giữa M T trong Bản thỏa thuận
ngày 21/01/2013 chỉ cách ghi của hai bên. Ngoài số tiền tổng kết trong Bản
thỏa thuận ngày 21/01/2013 thì giữa M T không còn tài sản chung, nợ
chung nào khác. Nếu còn tài sản chung nào khác thì M phải cung cấp chứng
cứ chứng minh. Sau khi lập Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013, T M đã
chấm dứt hoàn toàn việc hợp tác làm ăn với nhau, không bất kthỏa thuận hay
sự phân chia nào khác.
Ngày 12/01/2023, nguyên đơn Nguyễn Thị T Đơn sửa đổi, bổ sung
một số nội dung khởi kiện, theo đó, bà T khởi kiện yêu cầu:
- Đối với phần vốn đọng: Yêu cầu M trả lại cho T 50% gtrị thật
(bằng tiền mặt) của các khoản vốn theo thời giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm, căn
cứ vào Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013, cụ thể như sau:
+ Đất dự án bà M đứng tên: 300.000.000 đồng;
+ Chứng khoán: 100.000.000 đồng;
+ Tiền ông T2 còn nợ: 150.000.000 đồng.
Tổng cộng là (300.000.000 đồng + 100.000.000 đồng + 150.000.000
đồng)/2 = 275.000.000 đồng.
- Yêu cầu bà M trả lại cho T khoản lãi suất từ khoản tiền mặt chậm trả
nêu trên với mức lãi suất là 10%/năm.
Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác
nhận và nộp đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu bà M trả lại
cho T 50% của số tiền 150.000.000 đồng ông T2 còn nợ” theo Bản thỏa thuận
ngày 21/01/2013 và lãi suất của số tiền đó.
2. Quá trình tố tụng tại Toà án, bị đơn Phạm Thị M người đại diện
hợp pháp của bị đơn trình bày:
4
Phạm Thị M và bà Nguyễn Thị T đã hợp tác làm ăn chung với nhau t
năm 2007 – 2012 để đầu tư mua bán đất, nhà ở… nhưng bà M là người bỏ 100%
tiền mặt, bà T không bỏ tiền hợp tác kinh doanh với bà M.
Bà M khẳng định Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 được lập dựa trên bảng
thống tính toán của bà Trần Thị C, tuy nhiên số liệu này chưa chốt được số tiền
thu chi với bà T cuối cùng mà chỉ là tạm tính, còn nhiều phần bà T chưa giao tiền
cho M nhưng chưa được tính trong Bản thỏa thuận nói trên. Tính đến ngày
21/01/2013, M đã nhận đủ ½ số tiền tính tạm do T trả 2.683.075.000 đồng
để đi trả các khoản nợ chung do bà M đứng tên.
Ngoài ra, bà M cho rằng còn phải tính toán các khoản tiền khác, cụ thể:
- Đối với số tiền đất dự án 300.000.000 đồng theo Giấy nộp tiền tại Ngân
hàng C3 ngày 21/6/2010 và Giấy nộp tiền tại A2 Phòng G1 (Cộng hòa) ngày
17/4/2010: Đây là tiền của cá nhân M sử dụng để đầu tư dự án cao su. Trong
số đó, M đã chuyển cho ông Thái Hữu C1 200.000.000 đồng (ông C1 hiện nay
đang chấp hành án phạt tù, chấp hành đâu tM không biết M cũng
không biết địa chỉ trước đây của ông C1 để cung cấp cho Tòa án) đã chuyển
cho Nguyễn Thị Minh T1 100.000.000 đồng (bà T1 chị gái của T). Do
vậy, số tiền 300.000.000 đồng nói trên, hiện nay bà M cũng không còn quản lý.
- Đối với số tiền chứng khoán 100.000.000 đồng: Đây là tiền của nhân
M nộp vào Ngân hàng để mua chứng khoán theo Biên nhận ngày 19/3/2007
của Ngân hàng N Chi nhánh L1, nhưng sau đó M không mua chứng khoán
nữa. Số tiền này không liên quan đến T, sở nêu trong Bản thỏa thuận ngày
21/01/2013 nhằm mục đích ghi nhận đây là tiền riêng của bà M, không liên
quan đến bà T;
- Đối với số tiền ghi “ông T2 mua nhà H còn nợ: 150.000.000 đồng” thì s
tiền này hiện nay ông T2 vẫn n nợ, M cũng không biết chưa nhận được
tiền của ông T2. M cũng không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ của ông T2
thời gian mua bán đã lâu.
Đối với Cam kết” ngày 26/4/2013 T cung cấp cho Tòa án, M
khẳng định cam kết trên với nội dung từ dòng “Hôm nay ngày 26/4/2013 …” cho
đến dòng “…Mỗi người giữ 1 bản” là do bà T tự viết, tự ký tên. Bà M hoàn toàn
không biết gì về nội dung trên, bà M chỉ ghi vào mặt sau của giấy Cam kết đó nội
dung “Hôm nay ngày 26.4.2013 M đã nhận đủ tiền 2.683.000.000… còn lại khi
kết sổ sẽ chốt cụ thể sau.” tên Phạm Thị M, mặt này T không tên.
Như vậy theo nội dung cam kết trên đã khẳng định giữa bà M và bà T còn nhiều
khoản tiền chung với nhau vẫn chưa tổng kết được.
Do vậy, đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bà M không đồng
ý. M đồng ý với Kết luận giám định số 11/KL-KTHS-TL ngày 22/01/2024 của
Công an tỉnh B. Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông P cho
rằng quan hệ pháp luật của vụ án này tranh chấp chia tài sản chung” nên cần
xác định tài sản là gì và định giá tài sản, còn việc M nhận tiền của T để
trả các khoản nợ được ghi M đứng ra vay” trong Bản thỏa thuận ngày
5
21/01/2013. Đồng thời, ông P đề nghị bà Trần Thị C phải cung cấp các bảng tính
liên quan đến các khoản tiền hợp tác đầu tư chung của M và bà T; đề nghị Tòa
án áp dụng thời hiệu và đình chỉ giải quyết vụ án vì hết thời hiệu khởi kiện và vì
không xác định được tài sản, trả lại đơn khởi kiện theo điểm a khoản 1 Điều 192,
186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
3. Quá trình tố tụng tại Toà án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Trần Thị C trình bày:
Vào khoảng tháng 7/2012, bà C được bà Phạm Thị M và bà Nguyễn Thị T
thuê làm hồ sơ tổng kết sổ sách hợp tác kinh doanh của hai bên. Trong quá trình
làm hsơ, M và T cung cấp hồ cho bà C rất nhiều lần hồ sơ rất k
làm vì nó không cùng mt thời gian, không ghi chép lần lượt và tài liệu có những
ghi chép không khớp. C đề nghị cùng gặp T bà M để hỏi về nội dung các
tài liệu. Sau đó T bà M cùng đến nhà C để làm việc thống nhất số liệu.
Khoảng cuối năm 2012, bà C tổng kết tài liệu rồi in ra, gửi cho M và T xem
và thống nhất con số cuối cùng. Bà M và Bà T đã thống nhất với số liệu C làm
và ký thỏa thuận với nhau nhưng bà C không có mặt khi hai bên ký cam kết giao
tiền.
C khẳng định ngoài bảng Tổng cộng phần vốn đọng mới các bản thỏa
thuận T đã nộp cho Tòa án thì C không còn lưu giữ bất kỳ bảng nh toán
nào của T bà M. Sau khi bà C tính toán cho bà T và bà M xong thì hai bà
sử dụng số liệu này để tính toán với nhau hay không tC không biết nên C
không liên quan đến Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 giữa hai bên.
4. Quá trình tố tụng tại Toà án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị Minh T1 trình bày:
T1 không có bất kỳ liên quan đến các vấn đề tranh chấp của bà Phạm
Thị M và Nguyễn Thị T trong vụ án trên cũng không liên quan đến
việc tranh chấp đầu đất cao su của Phạm Thị M, Nguyễn Thị T ông
Thái Hữu C1.
Về số tiền 100.000.000 đồng Phạm Thị M chuyển cho bà T1 vào
ngày 17/4/2010, đây số tiền mà Phạm Thị M đã đưa cho T1 để đặt cọc
mua đất đường đi liền kề thửa đất số 631, tờ bản đồ số 66 tại phường T, quận A,
thành phố Hồ Chí Minh của gia đình T1 (nay đất thuộc quyền sử dụng của
bà Bùi Mai T3, sinh năm 1992 - cháu ruột bà Phạm Thị M).
5. Tại Bản án dân sự thẩm số 142/2024/DS-ST ngày 24/12/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
T đối với bị đơn bà Phạm Thị M, về việc Tranh chấp Đòi lại tài sản”.
Buộc Phạm Thị M phải trả cho Nguyễn Thị T số tiền 200.000.000
đồng.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị T đối với bị đơn bà Phạm Thị M về việc tính lãi suất.
6
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T
đối với bị đơn bà Phạm Thị M về ½ số tiền 150.000.000 đồng nội dung ông
T2 mua nhà H còn nợ”.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, lãi suất do chậm thi
hành án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
6. Nội dung kháng cáo:
Ngày 09/01/2025, Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận được đơn
kháng cáo của bị đơn Phạm Thị M gửi qua đường bưu điện từ ngày 07/01/2025,
đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa Bản án thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và bị đơn bà Phạm Thị M không
phải chịu chi phí giám định.
7. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn ginguyên yêu cầu
kháng cáo và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ
án.
8. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1
Điều 308 B lut T tng dân sự, tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của bà
Phạm Thị M; Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 142/2024/DS-ST ngày
24/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu c tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên; Hội
đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bị đơn bà Phạm Thị M đảm bảo đúng thủ tục, nội
dung nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật T
tụng dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem xét lại bản án
sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Xét sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Các đương sự vắng mặt
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa, nhưng vắng mặt tại phiên tòa
lần thứ hai không sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan, một số đương
sự vắng mặt đã có người đại diện hợp pháp tham gia phiên tòa và đây là phiên tòa
lần thứ hai nên căn cứ vào Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành
xét xử vụ án.
7
[2] Xét nội dung đơn kháng cáo của bà Phạm Thị M thì thấy:
[2.1] Xét yêu cầu kháng cáo của M về việc yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
T về việc đòi lại tài sản là giá trị “Đất dự án bà M đứng tên” và “Chứng khoán
M đứng tên” tại Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 thì thấy:
[2.1.1] Nội dung của Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013:
Ngày 21/01/2013, T, M cùng lập Bản thỏa thuận tạm tổng kết tiền
vốn làm ăn chung của M + Thơm” thể hiện nội dung:
“+ Nợ chung đến hết tháng 12/2012 còn là; 5.366.150.000 đồng;
+ Vốn còn trong nhà + đất:
1. Đất C2: còn 03 sổ (01 sổ Thơm đứng tên khoảng: 544m
2
, 01 sổ Thơm
+ Hiệp đứng tên: 300m
2
, 01 sổ M đứng tên: 544m
2
.
2. Đất Sỹ: 01 sổ M đứng tên: 533m
2
.
3. Đất cao su: M + Thơm = 12,5ha.
4. Nhà gò sao: Phần đất còn lại cạnh lối đi (T3 đứng tên).
5. Đất dự án: M đứng tên: 300.000.000đ.
6. Chứng khoán: M đứng tên: 100.000.000đ.
7. Ông T2 mua nhà H n nợ: 150.000.000đ.
Hai bên cùng thỏa thuận:
1. Tất cả tài sản thuộc về vốn tồn đọng đều chia hai.
2. Nợ chung (M đứng ra vay): Chia hai (Khi T giao sẽ nhận chia theo
số liệu tạm tính của C đưa: 5.366.150.000đ : 2 = 2.683.075.000 đ…”.
[2.1.2] Xét tính có hiệu lực của Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 thì thấy:
Thứ nhất, M T cùng xác nhận tên trong Bản thỏa thuận ngày
21/01/2013.
Thứ hai, theo lời thừa nhận của hai bên, thì giữa bà M và bà T mi quan
hệ góp vốn làm ăn chung từ năm 2007 2012 để mua bán đất, nhà ở. Bản thỏa
thuận ngày 21/01/2013 được lập dựa trên stự nguyện thỏa thuận, thống nhất
giữa hai bên, đã thể hiện việc phân chia các khoản tiền vốn còn tồn đọng, công nợ
tạm tính từ năm 2007 đến hết năm 2012. Do đó, bà M cho rằng bà M là người bỏ
100% tiền mặt để đầu tư, T không bỏ tiền hợp tác kinh doanh với M là
không có căn cứ.
Thứ ba, quá trình làm việc tại Tòa án, bà M cho rằng Bản thỏa thuận ngày
21/01/2013 giữa hai bên được lập dựa trên bảng thống tính toán của Trần
Thị C, các số liệu này chỉ là “tạm tính” và số tính liệu đó cũng chưa chốt được số
tiền thu chi thực tế với T cuối cùng là bao nhiêu vì còn nhiều phần bà T chưa
giao tiền cho M chưa được tính trong Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013,
T và bà M còn phải tính toán thêm các số tiền còn lại để thống nhất. Hội đồng xét
8
xử xét thấy: Mặc dù Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 thể hiện nội dung tạm tính,
nhưng nghĩa vụ trong khoản nợ chung tại Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 đã
được T thực hiện đối với M, cụ thể M cũng xác nhận tính đến ngày
26/4/2013 đã nhận của bà T số tiền 2.683.000.000 đồng (tương đương 50% nghĩa
vụ chịu nợ chung bà T bà M đã thống nhất tại Bản thỏa thuận ngày
21/01/2013).
Mặc M cho rằng số liệu trong Bản thỏa thuận nói trên chỉ tạm
tính” nhưng từ ngày 21/01/2013, M không tính toán lại, cũng không yêu cầu
T tính toán lại để tổng kết lại khoản tiền thu, chi cho chính xác với thực tế.
Ngày 26/4/2013, M T lập giấy “Cam kết” ghi nhận thỏa thuận mới
nội dung thay thế thỏa thuận đối tài sản đã được liệt mục 1 (phần đất do
T H1 đứng tên) mục 3 (12,5ha vườn) phần Vốn còn trong nhà + đất” tại
Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013. Trong khi đó, M T không bất cứ văn
bản thỏa thuận nào thay thế đối với mục 5 (Đất dự án M đứng tên: 300.000.000
đồng) mục 6 (Chứng khoán M đứng tên: 100.000.000 đồng) phần “Vốn còn
trong nhà + đất” tại Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013.
Như vậy, mặc dù Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 thể hiện tạm tổng kết
tiền”, nhưng đây là cơ sở đcác bên thực hiện các nghĩa vtài chính với nhau sau
khi lập Bản thỏa thuận nói trên.
Thứ tư, quá trình giải quyết vụ án đến nay, M không cung cấp được
chứng cứ chứng minh số tiền vốn tại mục 5 (Đất dự án M đứng tên:
300.000.000 đồng) mục 6 (Chứng khoán M đứng tên: 100.000.000 đồng)
phần Vốn còn trong nhà + đất” của Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 100%
tiền của bà M như bà đã trình bày.
Từ những phân tích trên, có căn cứ để Hội đồng xét xử xác định Bản thỏa
thuận ngày 21/01/2013 giá trị về mặt pháp lý, làm phát sinh quyền nghĩa v
của bà T và bà M.
[2.1.3] Xét yêu cầu bà T về việc buộc bà M phải trả lại số tiền 200.000.000
đồng tương ứng 50% nghĩa vụ đã thỏa thuận tại mục 5 (Đất dự án bà M đứng tên:
300.000.000 đồng) mục 6 (Chứng khoán M đứng tên: 100.000.000 đồng)
phần “Vốn còn trong nhà + đất” của Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 thì thấy:
Tại Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013, giữa M T đều thống nhất
thỏa thuận “Tất cả tài sản thuộc về vốn đọng đều chia hai”. Tuy nhiên, theo xác
nhận của cả hai bên thì đến nayM chưa chia vốn đọng tại mục 5 (Đất dự án bà
M đứng tên: 300.000.000 đồng) và mục 6 (Chứng khoán bà M đứng tên:
100.000.000 đồng) phần Vốn còn trong nhà + đất” cho T xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của bà T.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn yêu cầu nguyên đơn phải chứng
minh về dự án, chứng khoán nào, ở đâu, ai quản lý, ai đã mua lại, lời lỗ như thế
nào, yêu cầu Tòa án định giá tài sản tranh chấp... Hội đồng xét xử nhận thấy, trong
Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 hai bên không nêu các dán, chứng khoán cụ
thể thống nhất chung là tiền đầu tư dự án, chứng khoán của hai bên còn lại
9
tổng cộng 400.000.000 đồng, đây các thỏa thuận về số tiền còn lại của hai
bên trước khi chấm dứt làm ăn chung và đã được thống nhất quy ra bằng tiền mặt.
Do vậy, việc chứng minh về các dự án, chứng khoán nào, ở đâu, ai quản lý, ai đã
mua lại, lời lỗ như thế nào thuộc trách nhiệm của bà M, không thuộc trách nhiệm
của bà T.
Đồng thời, việc bị đơn cho rằng đã giao tiền cho ông C1, bà T1 tổng cộng
300.000.000 đồng nhưng trong Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 không đề cập đến
ông C1, T1 không nói rõ số tiền dự án nào của ông C1, T1 các giấy
giao tiền M cung cấp cho Tòa án cũng không chứng minh được bà M và ông
C1, T1 hợp tác làm ăn chung với nhau như thế nào. M không cung cấp được
thông tin của ông C1 cho Tòa án làm việc, còn T1 trình bày số tiền 100.000.000
đồng mà bà Thu nhận từ M không liên quan đến nội dung tranh chấp giữa
T M trong vụ án này. M không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào
chứng minh cho lời trình bày của mình.
Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án cấp thẩm, M cho rằng số tiền
“Chứng khoán: M đứng tên: 100.000.000 đồng” là không thật chưa đầu
chứng khoán, cũng cho rằng đây tài sản riêng của mình nhưng không
chứng minh được ngược lại còn tự nguyện ghi vào Bản thỏa thuận ngày
21/01/2013, khẳng định tài sản nói trên vốn góp chung để hợp tác làm ăn với
bà T. Tại cấp phúc thẩm, người đại diện theo y quyền của M cho rằng, số tiền
100.000.000 đồng nói trên tiền riêng của M, thực chất bà M đã dùng để mua
“chứng chỉ tiền gửi” cũng được xem là một loại chứng khoán nhưng bà M đã rút
số tiền đó để đưa vào làm vốn làm ăn chung trong quá trình hợp tác với bà T, tuy
nhiên cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh.
Do đó, nay T yêu cầu M giao cho bà T số tiền 200.000.000 đồng
tương ứng ½ khoản tiền được nêu tại mục 5 (Đất dự án bà M đứng tên:
300.000.000 đồng) mục 6 (Chứng khoán M đứng tên: 100.000.000 đồng)
phần “Vốn còn trong nhà + đất” của Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 căn
cứ. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận nội dung này của bà T là phù hợp. Vì vậy, Hội
đồng xét xử phúc thẩm không sđể chấp nhận kháng cáo của bị đơn, sửa
Bản án sơ thẩm về phần nội dung này.
[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo của Phạm Thị M vviệc yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm sửa Bản án thẩm theo hướng M không phải chịu chi phí giám
định chữ viết, chữ ký là 7.490.000 đồng thì thấy:
Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Phạm Thị M đều xác định chữ ký, chữ
viết tại tài liệu được giám định (Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013) là của bà M;
M không yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết. Tại biên bản hòa giải ngày
29/11/2023, người đại diện theo ủy quyền của bà M trình bày “Chữ ký của bà M
trong Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013 giữa M và bà T đang nộp Tòa án bản
phô tô nên tôi không xác định được đây có phải là chữ ký của bà M hay không”.
Như vậy ý kiến của người đại diện cho bà M đúng quy định của pháp luật và phù
hợp với chứng cứ trong hồ vụ án Biên bản giao nhận” ngày 26/12/2023,
10
theo đó, đến ngày 26/12/2023, nguyên đơn mới cung cấp bản chính “Bản thỏa
thuận ngày 21/01/2013” cho Tòa án.
Ngày 01/12/2013, T căn cứ vào Biên bản hòa giải ngày 29/11/2023 để
làm đơn đề nghị giám định chữ ký, chữ viết của bà M. Sau khi tiếp cận bản chính
“Bản thỏa thuận ngày 21/01/2013”, bà M thừa nhận chữ của mình trong tài
liệu đó. Như vậy, không cần thiết phải tiến hành giám định chữ ký, chữ viết của
M. Do đó, M không phải nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng (chi phí giám
định), mà người phải chịu chi phí giám định nói trên là bà T. Tòa án cấp sơ thẩm
buộc M phải chịu chi phí giám định tương ứng số tiền 7.490.000 đồng là không
phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận nội dung kháng cáo này
của M, sửa Bản án thẩm theo hướng M không phải chịu chi phí giám
định.
[3] Các nội dung khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
nên hiệu lực pháp luật; Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm sửa Bản án
thẩm nên người kháng cáo là M không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ lut T tng dân s;
Chấp nhận một phần kháng của của bà Phạm Thị M;
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 142/2024/DS-ST ngày 24/12/2024
của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cụ thể:
Áp dụng: Điều 161, khoản 2 Điều 244, Điều 296 của Bộ luật Ttụng dân
sự; Điều 166 của Bộ luật Dân sự; Điều 26, 27, 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về
mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
T đối với bị đơn bà Phạm Thị M, về việc “Tranh chấp đòi lại tài sản”.
Buộc Phạm Thị M phải trả cho Nguyễn Thị T số tiền 200.000.000đ
(Hai trăm triệu đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật, người được thi hành án nộp đơn
yêu cầu thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, người phải thi hành án còn phải
chịu mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương
ứng với số tiền còn phải thi hành án và thời gian chậm thi hành án.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Thị T đối với bị đơn Phạm Thị M về việc tính lãi suất đối với số tiền
200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) mà Phạm Thị M phải trả cho Nguyễn
Thị T.
11
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T
đối với bị đơn Phạm Thị M v½ số tiền 150.000.000đ (Một trăm năm mươi
triệu đồng) có nội dung “ông T2 mua nhà H còn nợ”.
4. Về chi phí tố tụng: Nguyễn Thị T phải chịu số tiền giám định
7.490.000đ (Bảy triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng); Bà T đã nộp xong.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào
số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 35.959.95(Ba mươi lăm triệu, chín trăm năm
mươi chín nghìn, chín trăm năm mươi bảy đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng
án phí, lệ phí số 0040927 ngày 19/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận
10, Thành phố Hồ Chí Minh, nên bà T được hoàn trả lại số tiền 35.659.657đ (Ba
mươi lăm triệu, sáu trăm năm mươi chín nghìn, sáu trăm năm mươi bảy đồng).
Phạm Thị M phải chịu là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
6. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Phạm Thị M không phải chịu.
Hoàn trả lại cho Phạm Thị M số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đ
(Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ng án phí, lệ phí s
0002482 ngày 21/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc.
7. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể t ngày tuyên án (ngày
24/6/2025).
8. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh BR-VT;
- TAND huyện Xuyên Mộc;
- VKSND huyện Xuyên Mộc;
- Chi cục THADS huyện Xuyên Mộc;
- Chi cc THADS Qun 10, TP. HCM;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa DS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
13
Tải về
Bản án số 129/2025/DS-PT Bản án số 129/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 129/2025/DS-PT Bản án số 129/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất