Bản án số 241/2024/HNGĐ-ST ngày 23/07/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 241/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 241/2024/HNGĐ-ST ngày 23/07/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 241/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/07/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƢƠNG
Bản án số: 241/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 23/7/2024
V/v Ly hôn, tranh chấp nuôi
con chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do -Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƢƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Vũ Thanh Tuấn.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Phạm Công Định
2. Bà Nguyễn Thị Chính
- Thư ký ghi biên bản phiên toà: Bà Phùng Thị Mai – Thư ký Tòa án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham gia phiên toà:
Ông Nguyễn Văn Tưởng - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở, Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương
mở phiên toà xét xử thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ số
252/2024/TLST-HNGĐ ngày 16/5/2024 về việc “Ly n, tranh chấp nuôi con
chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 255/2024/QĐXXST-HNGĐ,
ngày 07 tháng 6 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 188/2024/QĐST-
HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2024; Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982;
Địa chỉ: Thôn K, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương.
2. Bị đơn: Anh Trần Đình T, sinh năm 1976;
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn K, A, huyện N, tỉnh Hải Dương.
Hiện ở: Đài Loan.
Các đương sự đều vắng mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:
Chị anh Trần Đình T kết hôn trên sở tự do, tự nguyện đăng kết
hôn ngày 21/11/2000 tại UBND V, huyện N, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết
hôn chị anh T chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2018 thì xảy ra mâu
thuẫn, nguyên nhân do không hợp nhau trong cách sống, sinh hoạt phát triển
kinh tế gia đình dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày ng lạnh nhạt, không tìm
được tiếng nói chung một phần do anh T hay uống rượu say xỉn rồi chửi bới
chị cớ. Đến năm 2020, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Từ đó chị
anh T ít thời gian bên cạnh chăm c nhau. Lâu dần vợ chồng phát sinh
2
mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi cọ, bất đồng quan điểm. Sau đó chị đã
đưa hai con về nhà mẹ đẻ ở. Đầu năm 2024, anh T về nước nghỉ phép một thời
gian nhưng vợ chồng chị cũng không liên lạc với nhau. Đến nay chị xác định chị
anh T đã ly thân nhiều năm, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã
nghiêm trọng không thể khắc phục được nữa nên chị yêu cầu Toà án giải quyết
cho chị được ly hôn anh T.
Về con chung: Chị H anh T 02 con chung Trần Thị Huyền L,
sinh năm 2001 Trần Phương L1, sinh ngày 25/01/2009, hiện nay các con
chung đều đang ở với chị H. Đối với cháu Trần Thị Huyền L, sinh năm 2001 đã
trên trưởng thành nên chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị H nguyện
vọng nuôi dưỡng cháu Trần Phương L1 tự nguyện không yêu cầu anh T cấp
dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo biên bản lấy lời khai, đơn đề nghị bị đơn anh Trần Đình T trình bày:
Anh xác nhận lời trình bày của chị H về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn
là đúng. Sau khi kết hôn anh và chị H chung sống với nhau đến năm 2016 thì chị
H đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, đến năm 2019 chị H về nước một thời
gian sau đó lại tiếp tục đi Đài Loan. Năm 2020, anh đi xuất khẩu lao động tại
Đài Loan nhưng anh và chị H mỗi người một nơi, không chung sống với nhau.
Đến năm 2023, chị H về nước. Từ khi chị H về nước thì sống chung với nhà m
đẻ của chị H cùng thôn không về nhà chồng. Anh chị H mâu thuẫn do
bất đồng quan điểm trong quản kinh tế, chị H đi làm nhưng không gửi tiền
cho anh chăm lo cuộc sống gia đình các con. Anh ý kiến với chị H nhưng chị
H không quan tâm, không trách nhiệm vun đắp hạnh phúc gia đình. Anh
gia đình nhiều lần gặp chị H để hòa giải, khuyên nhủ chị H về chung sống
nhưng chị H không đồng ý. Anh mong muốn Tòa án hòa giải để vchồng đoàn
tụ, nhưng nếu chị H kiên quyết ly hôn thì anh nhất trí ly hôn.
Về con chung: Anh chị H 02 con chung Trần Thị Huyền L, sinh
năm 2001 và Trần Phương L1, sinh ngày 25/01/2009, hiện nay con chung đang
với chị H. Cháu L đã trưởng thành nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đề nghị Tòa án xem xét nguyện vọng của cháu Trần Phương L1 để giao cho anh
hoặc chị H nuôi dưỡng. Nếu ai nuôi con thì không đặt vấn đcấp dưỡng với
người còn lại. Trường hợp anh được nuôi dưỡng, chăm sóc con thì anh không
yêu cầu chị H cấp dưỡng.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Con chung của chị H, anh T là cháu Trần Phương L1 xác định bố mẹ cháu
hiện không còn chung sống cùng nhau nữa, bố cháu hiện đang bên Đài Loan.
Cháu đang với mẹ được mẹ cháu chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, cho ăn
học ổn định, trường hợp bố mẹ cháu ly hôn, không với nhau nữa, cháu
nguyện vọng xin được tiếp tục ở với mẹ cháu.
Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị H anh T đăng
kết hôn và sinh sống thể hiện: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại
3
địa phương. Quá trình chung sống, anh chị ấy tổ chức cuộc sống chung hạnh
phúc đến năm 2020 thì mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong
cách sống, sinh hoạt giữa hai vợ chồng. Thời gian này, anh T đã đi xuất khẩu lao
động bên Đài Loan. Quãng thời gian này, hai vợ chồng mỗi người một nơi,
khoảng cách địa xa xôi dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không ai quan
tâm đến ai. Sau đó, chị H đã đưa các con vnhà mẹ đẻ ở. Vợ chồng anh chị ấy
ly thân từ năm 2020 đến nay, mỗi người ở một nơi. Nay chị H có đơn xin ly hôn
anh T, địa phương đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải
quyết. Về con chung: vợ chồng anh chị ấy 02 con chung Trần Thị Huyền
L, sinh ngày 10/11/2001 Trần Phương L1, sinh ngày 25/01/2009. Đối với
cháu L đã trưởng thành nên Tòa án không phải giải quyết. Đối với cháu L1, hiện
cháu đã trên 07 tuổi, đề nghị Tòa án xét nguyện vọng của cháu xin được ở với ai
thì giao cháu cho người đó nuôi dưỡng, đảm bảo điều kiện phát triển tốt nhất
cho cháu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu
quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử các đương sự đã thực hiện
đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội
đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình;
Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định vmức thu án phí, lệ phí
Tòa án: Về quan hệ hôn nhân, xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn anh Trần Đình
T; về con chung: Giao con chung Trần Phương L1, sinh ngày 25/01/2009 cho
chị H tiếp tục chăm c, nuôi dưỡng; chấp nhận sự tự nguyện của chị H không
yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu c tài liệu trong hồ vụ án được tranh tụng tại phiên
toà xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án
nhân dân huyện N, tỉnh Hải Dương giải quyết việc ly hôn, tranh chấp về nuôi
con khi ly hôn giữa chị anh Trần Đình T có nơi cư trú tại thôn K, xã A, huyện N,
tỉnh Hải Dương. Đến ngày 07/3/2024, anh T xuất cảnh đi lao động tại Đài Loan.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1
Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân tỉnh Hải Dương nên Tòa án nhân dân huyện N chuyển hồ đến
Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ giải quyết đúng quy định của pháp
luật.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã yêu
cầu chị H cung cấp địa chỉ của anh T tại Đài Loan nhưng chị H không cung cấp
địa chỉ cụ thể. Tuy nhiên, anh T trong thời gian về Việt Nam đã trình bày quan
điểm về yêu cầu khởi kiện ly hôn giải quyết con chung với Tòa án. Do vậy,
Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
4
Ch H vng mt tại phiên toà đơn đ ngh x vng mt, anh T đã
đưc Tòa án tng đạt hp l Quyết định đưa vụ án ra xét x, Quyết đnh hoãn
phiên tòa, Thông báo thay đi thi gian m phiên tòa nhng vn vng mt
không do nên Hội đồng xét x căn cứ khon 1, khoản 3 Điều 228 B lut T
tng dân s xét x vng mt ch H và anh T.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H anh Trần Đình T kết
hôn trên sở tự do, tự nguyện đăng kết hôn ngày 21/11/2000 tại UBND
xã V, huyện N, tỉnh Hải Dương hôn nhân hợp pháp.
Căn cứ lời trình bày của chị H, anh T sở xác định trong quá trình
chung sống, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan
điểm trong cách sống, sinh hoạt, trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình.
Trước đó, chị H và anh T đều đi lao động tại nước ngoài. Tại nước ngoài, chị H
anh T cũng không sinh sống cùng nhau, sau đó chị H về nước nhà mẹ đẻ
còn anh T vẫn lại từ đó dẫn đến vợ chồng thường xuyên bất đồng. Đầu năm
2024, anh T vnghỉ phép nhưng vợ chồng cũng không liên lạc với nhau
không đoàn tụ lần nào. Nay chị H xác định không còn tình cảm với anh T nữa
nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T. Anh T nguyện vọng
hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ tuy nhiên anh cũng không biện pháp nào
khắc phục mâu thuẫn vợ chồng, ngoài ra anh còn trình bày trường hợp chị H
kiên quyết ly hôn thì anh T cũng đồng ý ly hôn với chị H. Như vậy có đủ căn cứ
xác định mâu thuẫn của chị H và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ quy định tại Điều 51, Điều
56 của Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, xử
cho chị H được ly hôn anh T.
[2.2] Về quan hệ con chung: Chị H và anh T 02 con chung Trần Thị
Huyền L, sinh năm 2001 và Trần Phương L1, sinh ngày 25/01/2009, hiện nay
con chung đang ở với chị H. Đối với cháu Trần Thị Huyền L, sinh năm 2001 đã
trên trưởng thành nên Tòa án không giải quyết. Chị H có nguyện vọng được tiếp
tục nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Trần Phương L1 đến khi cháu trưởng thành và tự
nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, hiện nay
cháu L1 đang ổn định cùng chị H, được chị H nuôi dưỡng, chăm sóc, cho ăn
học ổn định, đồng thời cháu nguyện vọng được với mẹ nên chấp nhận đề
nghị của chị H. Giao cho chị H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung
Trần Phương L1 cho đến khi trưởng thành chấp nhận sự tự nguyện của chị H
không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Trần Đình T được quyền,
nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại
Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không
xem xét giải quyết.
[3] Về án phí: Chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy
định của pháp luật.
5
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; các Điều
28, 37, 39, 147, 271, 474, 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a
khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chNguyễn
Thị H, xử cho chị Nguyễn Thị H ly hôn anh Trần Đình T.
2. Về con chung: Giao con chung Trần Phương L1, sinh ngày
25/01/2009 cho chị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho
đến khi con chung đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu
anh T cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Trần Đình T quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai
được cản trở.
3. Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm,
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện
N, tỉnh Hải Dương hiệu BLTU/23 số 0003516 ngày 26 tháng 02 năm 2024
(Chị H đã nộp đủ)
4. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Đình T được quyền kháng cáo bản án
trong thời hạn 30 ngày; chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày ktừ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- Chi cục THADS huyện N;
- Đương sự;
- UBND xã An Đức, huyện N;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà
Vũ Thanh Tuấn
Tải về
Bản án số 241/2024/HNGĐ-ST Bản án số 241/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 241/2024/HNGĐ-ST Bản án số 241/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất