Bản án số 74/2024/HNGĐ-ST ngày 10/12/2024 của TAND huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 74/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 74/2024/HNGĐ-ST ngày 10/12/2024 của TAND huyện Tiên Lãng, TP. Hải Phòng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tiên Lãng (TAND TP. Hải Phòng)
Số hiệu: 74/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/12/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TIÊN LÃNG
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số 74/2024/HNGĐ-ST
Ngày 19-11-2024
V/v ly hôn, tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà: Bà Phạm Thị Huyền Trang;
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Duy Viên;
Ông Nguyễn Hữu Bình.
- Thư ký phiên toà: Bà Đặng Thị Kim Liên - Thư ký Toà án nhân dân huyện
Tiên Lãng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng
tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Dung - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiên Lãng,
thành phố Hải Phòng mở phiên tòa xét xử thẩm công khai vụ án thụ số
79/2024/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2024 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi
con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
70/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2024.
- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị H, sinh năm 19xx; nơi trú: Thôn T, V,
huyện K, tỉnh T, có mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc
T Luật của Công ty Luật TNHH Thuận Phong, thuộc Đoàn Luật tỉnh Thái
Bình, có mặt.
- Bị đơn: Anh Đặng Văn N, sinh năm 19xx, nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện
T, thành phố Hải Phòng, có mặt;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Đặng Văn T, sinh năm 19xx bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 19xx; cùng
nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện T, thành phố Hải Phòng; ông T mặt, bà Y vắng
mặt;
Người đại diện theo uỷ quyền của ông T, Y: Anh Đặng Văn N, sinh năm
19xx, nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện T, thành phố Hải Phòng, có mặt.
2
Người làm chứng:
+ Ông Văn Đ, sinh năm 19xx, nơi trú: Thôn V, V, huyện T, thành
phố Hải Phòng, vắng mặt;
+ Đ Đoàn Hồng Kỳ, sinh năm 19xx; nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện K, tỉnh
T, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện các lời khai tại Tòa án tại phiên toà, nguyên
đơn chị Đoàn Thị H trình bày:
Về quan hệ vợ chồng: Chị Đoàn Thị H và anh Đặng Văn N tự nguyện kết hôn
với nhau, đăng kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (UBND) V huyện K, tỉnh T
vào ngày 30/6/2009. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hoà thuận với nhau được
khoảng 08 năm tại thôn Đ, V, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng thì mâu
thuẫn phát sinh do bất đồng quan điểm sống, một phần do anh N thường xuyên uống
rượu về gây sự, đánh chị H. Do u thuẫn căng thẳng anh chị đã sống ly thân từ
tháng 10 năm 2017 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Nhận thấy tình cảm
vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ, chH yêu cầu được ly hôn anh N.
Về con chung: Anh chị 03 con chung Đặng Tuấn Q, sinh ngày 01/6/2009;
Đặng Tuấn Q1, sinh ngày 27/5/2011 và Đặng Tuấn V, sinh ngày 24/9/2015. Tại đơn
khởi kiện ngày 13/4/2024 Bản tự khai ngày 19/6/2024, chị H đề nghị Toà án giao
con Tuấn V cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giao con Tuấn Q Tuấn Q1 cho anh N
trực tiếp nuôi dưỡng. Tuy nhiên, tại bản tự khai bổ sung ngày 19/6/2024, chị H thay
đổi quan điểm, do các con của anh chị đều nguyện vọng với bố, tôn trọng ý kiến
của các con, chị H đồng ý để anh N trực tiếp nuôi cả 03 con. Việc cấp dưỡng cho
con chị H xin tự thoả thuận với anh N, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về tài sản chung: Quá trình chung sống, anh chị có các tài sản chung:
- Diện tích 100m
2
đất thuộc thửa số 846, tờ bản đồ số 26, địa chỉ: Thôn Chùa
Dưới, xã Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, đã được UBND
huyện Tiên Lãng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) số CE 363549, vào
sổ cấp GCN số CH03349 ngày 27/10/2016 cho chủ sử dụng là ông Đặng Văn N và
Đoàn Thị H (gọi là: Thửa số 846). Trên Thửa đất s846 không công trình, vật
kiến trúc hay tài sản gì. Thửa số 846 là tài sản anh chị nhận chuyển Nợng tông
Văn Đ và bà Đặng Thị Huyện với giá là 360.000.000 đồng trong thời kỳ hôn nhân..
Số tiền 360.000.000 đồng mua đất tiền tiết kiệm của chị anh N tích góp trong
thời gian chung sống. Thời gian đầu sau khi kết hôn, anh N làm nghề đánh bắt
biển, chị H nhà làm nội trợ, chăm con, bán hải sản anh N đánh bắt được làm
thêm công việc đồng áng. Khoảng năm 2014, chị H, anh N tiếp quản hoàn toàn đầm
rươi mà ông T, bà Y (là bố mẹ chồng chị H) thuê thầu trước đó do ông T, bà Y sang
Hàn Quốc thăm con gái làm việc. Thu nhập từ đầm rươi khoảng 200.000.000
đồng đến 300.000.000 đồng/01 năm sau khi đã trừ đi các khoản chi phí. Do anh N
là người gia trưởng nên để vợ chồng hoà thuận, chị H để anh N giữ kinh tế gia đình,
các khoản thu nhập của vợ chồng đều do anh N giữ, chi tiêu; chị H chỉ được anh N
3
đưa tiền chi tiêu, sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy, khi mua đất, anh N người giao tiền
cho ông Đ, bà Huyện. Ông T, bà Y không gửi tiền về cho chị H, còn ông bà có gửi
tiền cho anh N hay không thì chH không biết, anh N và ông T, bà Y không nói cho
chị H biết cũng không đưa cho chị giữ bất cứ khoản tiền nào; cũng không việc
ông T, bà Y uỷ quyển cho chị và anh N đứng tên nhận chuyển Nợng Thửa 846 thay
ông bà.
Do vậy, chị H khẳng định Thửa số 846 tài sản chung của chị H anh N.
Khi ly hôn, chị H đề nghị chia đôi giá trị tài sản chung này. Tuy nhiên, do Thửa số
846 chỉ 01 lối đi duy nhất ra mặt đường 212 chiều ngang thửa đất không đủ
điều kiện để tách thửa nên chH đnghị Toà án giao cho chị toàn bộ quyền sử dụng
Thửa đất số 846, chị H trách nhiệm trả về anh N 1/2 giá trị tài sản theo g
Hội đồng định giá ngày 27/5/2024 đã định giá.
- Đối với khoản tiền tiết kiệm tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam (Agribank), Chi nhánh Vàm Láng - Đ Hải Phòng 500.000.000
đồng do anh N đứng tên: Đây là khoản tiền mà chị H và anh N tiết kiệm trong thời
gian chung sống, chị H không nhớ rõ thời gian gửi khoản tiền tiết kiệm này. Vì chị
không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn nên ngày 19/6/2024, chị H đã rút yêu cầu
chia tài sản chung đối với khoản tiền này.
Ngoài yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng Thửa số 846, chị H không
yêu cầu Toà án chia tài sản chung nào khác của chị H, anh N. Chị anh N không
có nợ chung nên chị H không yêu cầu Toà án giải quyết.
Đối với yêu cầu độc lập của ông T, bà Y: Chị H cho rẳng Thửa đất 846 tài
sản chung của chị và anh N, không phải là tài sản của ông T, bà Y nên chị H không
đồng ý với yêu cầu độc lập, không đồng ý trả Thửa đất 846 cho ông T, bà Y.
Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Chị H nhận chịu c
12.000.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản và đồng
với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 25/7/2024.
Theo các lời khai tại Tòa án tại phiên toà, bị đơn (anh Đặng Văn N)
trình bày: Anh N xác nhận về thời gian, địa điểm kết hôn, mâu thuẫn giữa anh chị
N chị H trình bày đúng. Anh chị chung sống hạnh phúc được mấy tháng đầu t
phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, một
phần do chị H quan hngoại tình, không quan tâm tới gia đình. Mỗi khi vchồng
cãi nhau chị H thường bỏ nhà đi, anh N cũng nhiều lần tìm chị H để hoà giải, vợ
chồng đoàn tụ cùng nuôi con Nng chị H không thay đổi nên trong thời gian chung
sống anh chị nhiều lần sống ly thân nhau, mỗi lần từ 2-3 ngày cho đến 3-6 tháng rồi
lại quay về chung sống. Ttháng 10/2017, anh chị chính thức ly thân, không còn
quan tâm đến nhau. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị H xin ly hôn,
anh N đồng ý ly hôn chị H.
Anh chị 03 con chung N chị H trình bày. Kể từ khi anh chị sống ly thân
đến nay, các con do anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc tốt; ngoài việc tự mình
chăm sóc anh N còn được bố mẹ đẻ hỗ trợ chăm sóc các con từ vật chất, kinh tế tới
chăm lo cuộc sống hàng ngày. Để ổn định tâm lý, sinh hoạt cho các con, anh N đề
4
nghị Toà án tiếp tục giao cả 03 con cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Anh N không
yêu cầu chị H phải cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Anh N thừa nhận Thửa số 846 đứng tên chủ sử dụng là chị
H anh N Nng đây không phải tài sản chung của anh chị H. Vì, trong quá
trình chung sống anh N làm nghề đánh bắt cá biển; chị H làm nội trợ, chăm con, bán
cá; anh chị có kinh doanh đầm rươi Nng chlàm được khoảng 02 năm (từ năm 2014
đến năm 2015), năm 2016 do xảy ra tranh chấp đầm vùng nên không làm nữa. Trong
khoảng thời gian 02 năm làm đầm rươi phải đầu tư, chi phí nhiều tiền; nhà Đ con,
các con lại còn nhỏ; cuộc sống hàng ngày còn phụ thuộc vào bố mẹ đẻ anh nên anh
chị không có tiền để nhận chuyển Nợng Thửa số 846 N chị H khai.
Thửa đất 846 thuộc quyền sử dụng của ông T, Y. Vì, trước khi hợp đồng
chuyển Nợng Thửa số 846 (ngày 04/7/2016), ông T và Y đã thoả thuận với ông
Đ, Huyện nhận chuyển Nợng Thửa 846 này với giá 360.000.000 đồng qua điện
thoại. Chỉ vì, thời điểm nhận chuyển Nợng Thửa số 846, ông T, bà Y đang lao động
tại Hàn Quốc không thể trực tiếp nhận chuyển Nợng Thửa đất nêu trên với ông
Đ, Huyện nên mới tin tưởng uỷ quyền miệng cho anh N, chị H đứng tên người
nhận chuyển Nợng để chị H, anh N đứng tên chủ sdụng Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất; khi nào ông T, bà Y về nước chị H, anh N sẽ phải sang tên lại cho ông
bà. Tuy nhiên, thời điểm ông T, Y về nước chị H, anh N đã hoàn toàn sống ly
thân nhau nên chưa làm được thủ tục sang tên lại Thửa 846 cho ông T, bà Y.
Ông T, Y đã gửi cho anh N tổng số tiền là: 758.997.000 đồng, cụ thể: Ngày
19/5/2015, chuyển 8.000.000 USD tương đương 177.099.000 VNĐ; ngày
20/7/2015, chuyển 7.000.000 USD tương đương 177.099.000 VNĐ; ngày
30/9/2015, chuyển 6.000.000 USD tương đương 151.799.000 VNĐ; 03/12/2015,
chuyển 5.000.000 USD tương đương 126.500.000 VNĐ; ngày 03/12/2016, chuyển
5.000.000 USD tương đương 126.500.000 đổng. Số tiền 360.000.000 đồng anh N
đã trcho ông Đ, bà Huyện được lấy từ nguồn tiền này của ông T, Y gửi về. Mặc
dù, anh N người nhận và quảnsố tiền ông T, Y gửi về Nng mỗi lần ông T,
bà Y gửi tiền vanh đều nói cho chị H biết. Khi giao tiền cho ông Đ, Huyện, anh
N là người giao tiền.
Nay chị H xác định Thửa đất 846 là tài sản chung của anh chị và yêu cầu chia
tài sản chung, anh H không đồng ý với yêu cầu của chị H vì cho rằng Thửa đất 846
là tài sản của ông T, Y đồng ý với yêu cầu độc lập ông T, bà Y trả lại ông T,
bà Y quyền sử dụng Thửa đất 846. Anh N cũng không có ý kiến gì về việc chị H rút
yêu cầu chia tài sản chung đối với khoản tiền tiết kiệm 500.000.000 đồng, anh cho
rằng không có khoản tiền này. Anh và chị H không có nợ chung nên không yêu cầu
Toà án giải quyết.
Anh N đồng ý với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày
27/5/2024 đồng ý để chị H nhận chịu cả chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ
định giá tài sản.
Những người quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập (ông Đặng
Văn T, bà Nguyễn Thị Y) thống nhất trình bày:
5
Thửa đất 846 do ông T, Y nhận chuyển Nợng từ ông Đ, Huyện với
giá 360.000.000 đồng. Tuy nhiên, thời điểm nhận chuyển Nợng, ông T, Y đang
ở nước Hàn Quốc, không thể trực tiếp thực hiện giao dịch chuyển Nợng nên đã gọi
điện uỷ quyền anh N, chH đứng tên nhận chuyển Nợng Thửa 846 từ ông Đ,
Huyện giúp ông T, bà Y. Số tiền 360.000.000 đồng lấy từ nguồn tiền những lần ông
T, Y gửi về cho anh N đúng N nội dung anh N khai. Trước khi anh N, chị H
kết hợp đồng chuyển Nợng, ông T, bà Y đã gọi điện thoả thuận, thống nhất về mức
giá khi nhận chuyển Nợng Thửa 846 với ông Đ, bà Huyện, nội dung thoả thuận này
ông Đ cũng đã xác nhận. Do đó, ông T, bà Y khẳng định Thửa số 846 là tài sản của
ông bà. Trong thời gian anh N, chị H sống chung với nhau chị H không có công ăn
việc làm, chỉ nhà làm nội trợ chăm con; chị H thường xuyên bỏ nhà đi không
chăm lo cho gia đình, con cái; anh N cũng chỉ làm nghề đánh bắt cá biển, thu nhập
theo thời vụ, không ổn định; sau này anh chị làm đầm rươi Nng do phải đầu tư,
cải tạo đất xảy ra tranh chấp nên không lãi; cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày
của anh chị còn phụ thuộc vào phụ cấp của ông T, Y nên không có tiền để nhận
chuyển Nợng Thửa số 846. Ông T, Y nhận chuyển Nợng Thửa 846 nhằm mục
đích tặng cho các con chung của chị H, anh N khi các cháu trưởng thành, vì anh chị
có 03 con trai chung. Tuy nhiên, do chị H vẫn giữ nguyên quan điểm xác định Thửa
846 là tài sản chung của chị và anh N và đề nghị chia đôi giá trị tài sản này nên ông
T, bà Y yêu cầu Tán buộc chị H, anh N phải trả ông T, bà Y quyền sử dụng Thửa
số 846 nêu trên.
Kết quả xác minh thể hiện: Vợ chồng anh N, chị H kết hôn với nhau từ năm
2008 theo quy định. Quá trình chung sống, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn do
bất đồng quan điểm sống và do nghi ngờ nhau ngoại tình. Do mâu thuẫn căng thẳng
anh chị đã sống ly thân nhau từ giữa năm 2017, mỗi người sống một nơi, không ai
quan tâm ai. Anh chị 03 con chung N chị H, anh N khai. Từ khi anh chị sống ly
thân đến nay các con chung của anh chdo anh N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc
tốt.
Về tài sản chung: Trong thời gian anh chị chung sống, chị H, anh N nhận
chuyển Nợng quyền sử dụng 100m
2
đất thuộc thửa số 846, tờ bản đồ số 26, địa chỉ:
Thôn Chùa Dưới, Vinh Quang, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, từ ông
Nguyễn Văn Đ và bà Đặng Thị Huyện. Việc chuyển Nợng lập Hợp đồng chuyển
Nợng ngày 04/7/2016. Theo hợp đồng chuyển Nợng, người chuyển Nợng ông
Văn Đ, bà Đặng Thị Huyện; người nhận chuyển Nợng anh Đặng Văn N, chị Đoàn
Thị H; số tiền chuyển Nợng 220.000.000 đồng. Tại thời điểm hợp đồng chuyển
Nợng, chỉ ông Đ, Huyện, chị H, anh N mặt, tham gia giao kết hợp đồng;
ông T, bà Y không mặt, không tham gia giao kết hợp đồng; các bên tham gia giao
dịch có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc,
đe dọa. Hợp đồng chuyển Nợng đã được UBND Vinh Quang chứng thực vào
ngày 04/7/2016. Ông Đặng Văn N Đoàn Thị H đã được UBND huyện Tiên
Lãng cấp GCN số CE 363549, vào sổ cấp GCN số CH03349 ngày 27/10/2016. Từ
khi được cấp GCN đến trước khi chị H nộp đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân huyện
Tiên Lãng (ngày 04/7/2024). Thửa số 846 không xảy ra tranh chấp giữa chị H, anh
N với vợ chồng ông T, bà Y hay với các hộ liền kề Thửa số 846. Thửa số 846 là đất
6
trống, trên thửa đất này không có công trình, vật kiến trúc hay cây cối, H màu gì và
chỉ 01 lối đi duy nhất ra trục đường 212, kích thước chiều ngang Thửa 846
5,52m.
Trước ngày 04/7/2016 (thời điểm ông Đ, bà Huyện anh N, chị H kết
hợp đồng chuyển Nợng Thửa số 846), ông T, Y, không yêu cầu UBND xã Vinh
Quang chứng thực hợp đồng ủy quyền giữa ông T, Y chị H, anh N vviệc
nhận chuyện Nng quyền sử dụng Thửa số 846.
Trong thời gian chị H, anh N chung sống với nhau, anh N làm nghề đánh bắt
biển, chị H ở nhà chăm con và đi bán cá do anh N đánh bắt; sau này làm đầm
nuôi rươi do ông T, Y trước đó thuê thầu đlại; anh N, chị H làm được khoảng
02 -03 năm (từ khoảng năm 2014 2016) với diện tích là 5ha thì xảy ra tranh chấp
với người thuê thầu trước nên anh chị đã không làm đầm rươi nữa. Thu nhập từ đầm
rươi được tính theo năm, trung bình từ 200-300 triệu đồng/năm. Từ năm 2015 đến
năm 2016, anh N các khoản tiền gửi tiết kiệm tại Ngân hàng Nông nghiệp phát
triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh Vàm Láng – Đ Hải Phòng với 11 giao dich, cụ
thể: Ngày 17/03/2015 gửi 150.000.000 đồng, rút 115.073.047 đồng vào ngày
09/4/2015; Ngày 09/4/2015 gửi 250.000.000 đồng, rút 252.188.732 đồng vào ngày
22/01/2016; Ngày 19/5/2015 gửi 150.000.000 đồng, rút 40.014.000 đồng; Ngày
21/7/2015 gửi 150.000.000 đồng, rút 12.276.500 đồng vào ngày 20/11/2017; Ngày
02/10/2015 gửi 100.000.000 đồng, rút 40.355.700 đồng vào ngày 22/4/2016; Ngày
07/12/2015 gửi 5.000 USD, rút 112.635.000 đồng vào ngày 17/12/2015; Ngày
17/12/2015 gửi 100.000.000 đồng, rút 100.118.611 đồng vào ngày 16/02/2016;
Ngày 11/05/2016, gửi 280.00.000 đồng, rút 30.404.200 đồng vào ngày 16/5/2018;
ngày 06/7/2016, gửi 40.000.000 đồng, rút 7.001.700 đồng vào ngày 05/12/2016;
Ngày 21/12/2016, gửi 10.000 USD, rút 10.000 USD vào ngày 12/4/2018; ngày
22/01/2016, gửi 250.000.000 đồng, rút 252.125.000 đồng vào ngày 22/04/2016.
Quá trình chung sống anh chị thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau, nhiều lần
chị H, anh N sống ly thân (không rõ về thời gian mỗi lần anh chị sống ly thân nhau),
lần cuối là vào khoảng giữa năm 2017. Từ đó đến nay chị H không về, anh chị sống
mỗi người một nơi, không ai quan tâm ai. Anh N 03 con chung của anh chị hiện
đang ở nhờ trên nhà, đất của ông T, bà Y. Chị H đã về quê tại tỉnh Thái Bình chung
sống cùng với bố mẹ.
Tại phiên tòa: Các đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.
Người bảo về quyền lợi ích của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử
(HĐXX) công nhận thuận tình ly hôn sự thothuận của các đương sự về người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn giữa chị H, anh N. Không chấp nhận yêu cầu độc
lập của ông T, bà Y xác định Thửa 846 tài sản chung của chị H, anh N do trong
thời gian chung sống chị H, anh N có thu nhập, nguồn thu nhập chính của chị H, anh
N là từ việc đánh bắt, kinh doanh rươi, xác định anh chị có nguồn thu nhập ổn
định với mức thu nhập trung bình từ 200 đến 300 triệu đồng/01 năm; Thửa số 846,
chị H, anh N nhận chuyển Nợng trong thời gian anh chị chung sống hoà thuận, đã
được cấp GCN cho chủ sử dụng là ông Đặng Văn N và bà Đoàn Thị H; ông T, bà Y
không tham gia giao dịch chuyển Nợng Thửa 846, không chứng minh được việc sử
7
dụng nguồn tiền mình gửi về để nhận chuyển Nợng Thửa số 846 cũng N việc ông
uỷ quyền cho chị H, anh N nhận chuyển Nợng thay Thửa 846 từ ông Đ, Huyện.
Do, hiện tại anh N đang sinh sống ổn định trên ngôi nhà mà anh chị H xây
trên đất của ông T, Y; chị H lại không nơi ổn định phải nhờ bố mẹ đẻ.
Để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho chị H. Người bảo vquyền lợi ích cho
nguyên đơn để nghị HĐXX căn cứ Điều 33, Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình,
chia tài sản chung của chị H, anh N là quyền sử dụng Thửa số 846 theo hướng: Giao
cho chị H sử dụng, quản lý Thửa 846, chị H trách nhiệm trả về anh N ½ giá trị tài
sản theo kết quả định giá tài sản ngày 25/7/2024 bằng 750.000.000 đồng.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:
Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, HĐXX việc chấp hành pháp
luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ vụ án, thu thập chứng cứ, thông
báo về phiên họp, hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm
quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, HĐXX
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự (nguyên đơn, b
đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) bản thực hiện đúng các quyền
nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điều 70, 71, 72, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ các
điều 33, 55, 59, 60, 62, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; căn cứ
các điều 213, 217, 219 của Bộ luật Dân sự năm 2015; căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm
a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271
khoản 1 Điều 273 của B luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vQuốc hội, chấp nhận
một phần yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị H, xử: Công nhận thuận tình ly hôn
giữa chị Đoàn Thị H anh Đặng Văn N; công nhận sự thoả thuận của các đương
sự: Anh N được trực tiếp nuôi cả 03 con; việc cấp dưỡng cho con anh chị tự thoả
thuận, không yêu cầu giải quyết nên không đề nghị xem xét, giải quyết. Về tài sản
chung: Xác định quyền sử dụng Thửa số 846 là tài sản chung của chị H, anh N. Do
từ khi anh chị sống ly thân đến nay anh N người quản Thửa số 846; trực tiếp
nuôi cả 03 con nên cần chia cho anh N hưởng 60% giá trị Thửa 846; chia cho chị H
được hưởng 40% gtrị Thửa 846; giao cho anh N sử dụng, quản Thửa số 846;
anh N trách nhiệm trả chị H 600.000.000 đồng. Vchi phí ttụng: Do chị H nhận
chịu cả chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản, không yêu cầu Toà án
giải quyết nên không đnghị HĐXX xem xét, giải quyết. Chị H, anh N phải chịu án
phí ly hôn và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
- Về tố tụng:
[1] Vquan hệ pháp luật tranh chấp thẩm quyền gii quyết: Chị Đoàn Thị H
khởi kiện xin ly hôn anh Đặng Văn N, yêu cầu giải quyết về người trực tiếp nuôi con
8
chia tài sản khi ly hôn. Anh Đặng Văn N, hiện trú tại: Thôn Đ, V, huyện
Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản
1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, quan hệ tranh chấp
của vụ án “Ly n, tranh chấp v nuôi con, chia tài sản khi ly hôn vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiên Lãng
[2] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Nguyễn Thị Y) vắng mặt tại
phiên toà lần thứ nhất Nng người đại diện theo uỷ quyền (anh Đặng Văn N) tham
gia phiên toà; người làm chứng (ông Vũ Văn Đ) vắng mặt tại phiên toà Nng quá
trình giải quyết vụ án ông Đ đã có lời khai, xét thấy việc vắng mặt của ông Đ không
làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều
228, Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng mặt bà Y, ông Đ.
- Về nội dung:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị H, anh N được xác lập
do hai bên tự nguyện, đăng kết hôn tại UBND Vinh Quang vào ngày
30/6/2009, n nhân hợp pháp. Mâu thuẫn phát sinh do anh ch bất đồng quan
điểm trong cuộc sống hàng ngày, nghi ngờ nhau quan hệ ngoại tình nên nên vợ
chồng cãi nhau; cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Anh chị đã nhiều lần sống ly
thân nhau, lần cuối lần vào tháng 10 năm 2017. Từ tháng 10/2017 đến nay anh chị
sống mỗi người một nơi, không còn tình cảm, không còn quan tâm đến nhau. Nay
chị H xin ly hôn, anh N cũng đồng ý ly hôn chị H. N vậy, thể khẳng định tình
trạng vợ chồng chị H, anh N đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, việc thuận tình ly hôn của anh chị
hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân gia
đình nên được công nhận.
[4] Về con chung: Anh chị 03 con chung Đặng Tuấn Q, sinh ngày
01/6/2009; Đặng Tuấn Q1, sinh ngày 27/5/2011 và Đặng Tuấn V, sinh ngày
24/9/2015. Quá trình giải quyết vụ án, chị H, anh N đã thoả thuận, thống nhất được
với nhau về người trực tiếp nuôi sau khi ly hôn: Anh N được trực tiếp nuôi dưỡng
cả 03 con. Xét thấy, hiện tại anh N nghề nghiệp, thu nhập ổn định; ngoài việc trực
tiếp chăm sóc con chung, anh N còn được gia đình hỗ trợ về vật chất và việc chăm
sóc các cháu Q, QuyềnVinh; mặt khác kể tkhi anh N chị H sống ly thân đến
nay cả 03 con chung đều do anh N nuôi dưỡng, chăm sóc tốt sthoả thuận của
chị H, anh N về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn không vi phạm điều cấm,
không trái đạo đức hội; phù hợp với thực tế nguyện vọng của các con
nguyện vọng được ở với bố. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các con, căn cứ
khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình, HĐXX công nhận sự thoả thuận về
người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của chH, anh N: Anh N được trực tiếp nuôi
dưỡng cả 03 con cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc sự thay đổi khác theo quy
định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng cho con, anh chị xin tự thỏa thuận với nhau,
không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự, xét thấy quyền lợi của con vẫn được đảm bảo nên để anh chị tự giải quyết
với nhau là phù hợp.
9
[5] Về xác định tài sản chung của chị H, anh N yêu cầu độc lập của ông T,
bà Y:
[5.1] Về nguồn gốc Thửa 846: Lời khai của các đương sự phù hợp với nhau;
phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, sự phù hợp đó thể hiện:
Thửa số 846 có nguồn gốc thuộc quyền sử dụng của ông Vũ Văn Đ và bà Đặng Thị
Huyện. Ngày 04/7/2016, ông Đ, bà Huyện đã chuyển Nợng cho anh Đặng Văn N
chị Đoàn Thị H. Việc chuyển Nợng Thửa số 846 được ông Đ, Huyện anh N,
chị H lập thành hợp đồng chuyển Nợng đất vào ngày 04/7/2024 và chỉ có ông Đ,
Huyện, chị H, anh N tham gia giao dịch; ông T, bà Y không mặt, không tham gia
giao dịch hay kết hợp động chuyển Nợng quyền sử dụng Thửa 846. Các bên tham
gia giao kết hợp đồng chuyển Nợng Thửa 846 đều hoàn toàn tự nguyện, không bị ai
ép buộc, đe doạ; đủ năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung giao dịch
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức hội Hợp đồng chuyển
Nợng Thửa số 846 đã được UBND xã Vinh Quang chứng thực vào ngày 04/7/2016
đúng theo quy định tại các điều 116, 117, 117, 118, 500, 501, 503 Bộ luật dân sự
nên hiệu lực và làm phát sinh quyền nghĩa vụ của các bên. Do đó, ngày
27/10/2024, Thửa số 846 được UBND huyện Tiên Lãng cấp GCN số CE 363549,
vào sổ cấp GCN số CH03349 cho chủ sử dụng là ông Đặng Văn N và bà Đoàn Thị
H là đúng trình tự, đúng quy định của pháp luật.
[5.2] Về nguồn gốc số tiền nhận chuyển Nợng Thửa 846: Chị H, khẳng định
số tiền 360.0000.000 đồng này do chị anh N tiết kiệm được trong thời gian
chung sống; anh N, ông T, bà Y không đồng ý với quan điểm của chị H và xác định
nguồn gốc số tiền 360.000.000 đồng trả cho ông Đ, bà Huyện của ông T, Y (do
vợ chồng ông T gửi về), vậy nên chị H không quyền đối với Thửa 846. Mặc
quá trình giải quyết vụ án, các đương sđều không đưa ra được các tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho quan điểm của mình về mức thu nhập bình quân năm
trong thời gian chung sống (chị H khẳng định mức thu nhập từ đầm rươi từ
200.000.000 đồng 300.000.000 đồng/01 năm; anh N khẳng định đã chi phí hết,
không lợi nhuận khi làm đầm rươi). Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của các đương
sự về mức chi phí sinh hoạt hàng ngày của chị H, anh N tại địa phương và kết quả
xác minh về mức sống, mức thu nhập bình quân của người dân tại địa phương thời
điểm từ năm 2009 đến năm 2017, có đủ cơ sở xác định, chị H, anh N nguồn thu
nhập dôi dư và thời điểm nhận chuyển Nợng Thửa số 846, anh chị đang kinh doanh
đầm rươi.
[5.3] Anh N, ông T, Y khẳng định số tiền 360.000.000 đồng trả cho ông Đ,
Huyện được lấy từ nguồn tiền ông T, Y gửi về cho anh N trong khoảng thời
gian từ ngày 19/5/2015 đến ngày 03/12/2016 với tổng số tiền 758.997.000 đồng
Nng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh. Kết quả xác minh về nguồn
tiền gửi của ông T, bà Y cho người thụ hưởng là anh N, phù hợp với lịch sử tiền gửi
tiết kiệm tại Agribank từ năm 2015-2016 Nng thời điểm đóng giao dịch (tất toán) lại
không trùng khớp với thời điểm thực hiện giao dịch chuyển Nợng Thửa 846; c
đương sự đều thừa nhận khoản tiền ông T, bà Y gửi về cho người thụ hưởng là anh
N, không phải chị H và anh N người quản lý số tiền này; chị H không thừa nhận
10
việc anh N thông báo cho chị vviệc ông T, Y gửi tiền về, chị không giữ
số tiền 360.000.000 đồng để trả ông Đ, Huyện khoản tiết kiệm của anh chị
không phải lấy từ nguồn tiền ông T, bà Y gửi về.
[5.4] Quá trình giải quyết vụ án bị đơn (anh N), người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan (ông T, bà Y) cho rằng trước khi nhận chuyển Nợng Thửa 846, ông T, bà
Y có uỷ quyền cho chị H, anh N nhận chuyển Nợng Thửa 846 từ ông Đ, Huyện
Nng chị H không thừa nhận việc uỷ quyền này. Ngoài sự thừa nhận của anh N, ông
T, bà Y, anh N không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh có việc uỷ quyền
này. Ông Đ cũng thừa nhận việc ông T, bà Y trao đổi với vợ chồng ông về việc
chuyển Nợng cho nhau Thửa 846 Nng chỉ bằng lời nói trao đổi qua điện thoại. Thực
tế, người nhận chuyển Nợng Thửa 846 là chị H, anh N; khi ký kết hợp đồng chuyển
Nợng Thửa 846 chỉ vợ chồng chị H, anh N vợ chồng ông Đ, bà Huyện, ông T,
bà Y không có mặt, không tham gia giao dịch chuyển Nợng Thửa 846. Kết quả xác
minh tại địa phương thể hiện, trước ngày 04/7/2016, ông T, Y, không yêu cầu
UBND xã Vinh Quang chứng thực hợp đồng ủy quyền giữa người ủy quyền là ông
T, Y người được ủy quyền chị H, anh N về nội dung chị H, anh N đứng
nhận chuyện Nợng thay ông T, Y quyền sử dụng Thửa số 846. Do đó đủ căn
cứ xác định không có giao dịch uỷ quyền giữa ông T, bà Y với chị H, anh N về việc
chị H, anh N đứng nhận chuyển Nợng thay ông T, bà Y Thửa 846.
[5.5] Từ những phân tích trên đủ n cứ khẳng định Thửa 846 tài sản
chung của chị H, anh N. Căn cứ cứ Điều 116, Điều 117, Điều 118, Điều 119 Bộ luật
Dân sự; Điều 33, Điều 34 Luật Hôn nhân gia đình, xác định Thửa s846 tài
sản chung của chị H, anh N; không có căn cứ chấp nhận yêu cầu độc lập của ông T,
Y về yêu cầu Toà án buộc chị H, anh N trả lại ông quyền sử dụng Thửa số
846.
[6] Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản ngày 25/7/2024,
Thửa số 846 diện tích 100m
2
, vẫn ginguyên trạng so với thời điểm nhận chuyển
Nợng. Thửa số 846 vị trí: Phía Đ Bắc giáp trục đường 212, kích thước: 5,52m;
phía Tây Nam giáp đất canh tác ông Nguyễn Xuân Cường, kích thước: 5,52m; phía
Đ Nam giáp đất ông Nguyễn Ngọc Ký, kích thước: 18,50m; phía Tây Bắc giáp đất
ông Vũ Văn Tin, kích thước:17,80m. Thửa số 846 chỉ có một lối đi duy nhất ra trục
đường 212. Vtrí đất tranh chấp giá 15.000.000 đồng/m
2
. Các đương sự đều
đồng ý lấy kết quả xem xét, thẩm định tại chvà định giá tài sản ngày 25/7/2024
làm căn cứ giải quyết vụ án.
[7] Về phương thức chia tài sản chung của chị H, anh N:
[7.1] N đã phân tích tại mục [5], Thửa số 846 là tài sản chung của chị H, anh
N. Chị H cho rằng anh chị có công sức ngang nhau trong việc tạo lập tài sản chung
nên đề nghị chia đôi giá trị Thửa số 846. Anh N không đồng ý, cho rằng trong
thời gian 07 năm chung sống, chị H không nghề nghiệp lại sinh 03 người con,
thường xuyên bỏ nhà đi làm ảnh hưởng tới kinh tế gia đình nên chị H không có công
sức, không có quyền đối với Thửa số 846. Xét thấy, thời điểm mang thai, sinh con,
nuôi con nhỏ của chị H cũng giống N bao người phụ nữ khác, đây thời điểm người
phụ nữ rất cần được sự quan tâm, chăm sóc, chia sẻ công việc gia đình từ phía người
11
chồng nên việc anh N đảm nhận nghĩa vụ lao động nhiều hơn chị H để nuôi sống gia
đình là cần thiết, phù hợp với đạo đức và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 19
Luật Hôn nhân gia đình: “Vợ chồng nghĩa vụ ... cùng chia sẻ, thực hiện các
công việc trong gia đình”. Do đó, anh N phủ nhận vai tcủa chị H trong việc tạo
lập tài sản chung của vchồng không đúng đạo đức, không đúng quy định của
pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù, chị H, anh N đều xác định anh chị
nhiều lần sống ly thân Nng cả hai đều không thống nhất được về thời gian mỗi lần
sống ly thân là bao lâu; kết quả xác minh tại địa phương và những người làm chứng
khác cũng không xác định được thời gian mỗi lần anh chị sống ly thân kể từ khi anh
chị kết hôn cho tới tháng 10/2017 là bao lâu nên không đủ căn cứ xác định anh N
công sức nhiều hơn trong việc tạo lập Thửa số 846. Mặt khác, các đương sự đều
khẳng định, ngoài việc chăm con, làm nội trợ, chị H còn tham gia bán tôm, cá, cua
cáy, kinh doanh đầm rươi cùng anh N... việc này cũng đã được anh N xác nhận trong
quá trình giải quyết vụ án cũng N tại phiên toà. Do đó có đủ căn cứ khẳng định trong
thời gian chung sống với anh N, chị H cũng đã tích cực tham gia hầu hết các công
việc trong gia đình cũng N trong sản xuất kinh tế gia đình. Thửa đất 846 hình thành
trong thời gian anh chị chung sống hoà thuận. n cứ khoản 2 Điều 59 Luật Hôn
nhân gia đình, chị H, anh N công sức ngang nhau trong việc tạo lập khối tài
sản chung là Thửa số 846.
[7.2] Các đương sự đều nguyện vọng được chia tài sản chung của vợ chồng
bằng hiện vật. Tuy nhiên, xét thấy Thửa số 846 chỉ 01 lối đi duy nhất ra trục
đường 212, cạnh giáp trục đường 212 kích thước 5,52m, nếu chia đôi thửa đất
bằng hiện vật thì không đảm bảo điều kiện cấp GCN, do đó cần chia cho một bên
nhận hiện vật trả 50% giá trị cho bên còn lại phù hợp. Hiện tại chị H, anh N
đều không nhà, đất riêng đều phải sống nhờ trên nhà, đất của bố mẹ đẻ. Nng
cần xét tới việc anh N một mình nuôi dưỡng, chăm sóc 03 con trai chung kể từ khi
anh chị sống ly thân đến nay sau khi ly hôn anh N lại người tiếp tục trực tiếp
nuôi dưỡng các con chung của anh chị cho tới khi các con trưởng thành (nếu N không
có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật). Do đó, cần giao Thửa số 846 cho
anh N trực tiếp quản , sdụng anh N trách nhiệm chia trả cho chị H 50% g
trị Thửa 846 phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình.
[7.3] Căn cứ Điều 33, Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình; Điều 213, Điều
217, Điều 219 Bộ Luật Dân sự, giao cho anh Đặng Văn N quản lý, sử dụng diện tích
100m
2
, thuộc thửa số 846, tờ bản đồ số 26; địa chỉ: Thôn Chùa Dưới, Vinh Quang,
huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng; có vị trí: Đ Bắc giáp trục đường 212, kích
thước: 5,52m; phía Tây Nam giáp đất canh tác ông Nguyễn Xuân Cường, kích thước:
5,52m; phía Đ Nam giáp đất ông Nguyễn Ngọc Ký, kích thước: 18,50m; phía Tây
Bắc giáp đất ông Văn Tin, kích thước:17,80m (có đồ kèm theo). Anh Đặng
Văn N trách nhiệm trả chH 50% giá trị tài sản, bằng 750.000.000 (1.500.000.000
đồng x 50 %) đồng.
[7] Về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn: Chị H có yêu cầu chia tài sản khoản
tiền tiết kiệm 500.000.000 đồng do gửi tại Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển
12
nông thôn Việt Nam, chi nhánh Vàm Láng – Đ Hải Phòng. Tuy nhiên, ngày
19/6/2024, chị H đã rút yêu cầu chia tài sản chung đối với khoản tiền này; anh N
đồng ý với việc rút yêu cầu này của chị H. Xét thấy việc rút yêu cầu nêu trên của chị
H hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, đe doạ. Căn cứ khoản 2 Điều 244 B
luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xđình chỉ yêu cầu chia tài sản chung đối với
khoản tiền tiết kiệm 500.000.000 đồng này.
[8] Về nợ chung: Chị H, anh N xác nhận anh chị không nchung, không
yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[9] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản
là 12.000.000 đồng, đã chi phí hết. Chị H nhận chịu cả chi phí xem xét, thẩm định,
định giá tài sản, chị Thu đã nộp đủ tiền chi phí xem xét, thẩm định định giá tài
sản nên không đặt ra để giải quyết.
[10] Về án phí:
[10.1] Căn cứ khoản 1, 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 24, Điều 26,
khoản 1 Điều 6, điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết s326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, chị
H, anh N mỗi người phải chịu ½ mức án phí ly hôn sơ thẩm 75.000 đồng và chịu
án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản chung được chia là 34.000.000
[20.000.000 + (350.000.000 đồng x 4%)] đồng. N vậy, tổng án phí dân sự thẩm
chị H, anh N, mỗi người phải nộp là 34.075.000 đồng.
[10.2] Do yêu cầu của ông T, Y không được chấp nhận nên ông T, Y
phải chịu án phí dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, ông T, Y đều người cao tuổi đã đơn xin min án phí dân
thẩm. Căn cứ điểm đ Điều 12, Điều 24, Điều 26, khoản 1 Điều 6, khoản 5 Điều 27
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí dân sự thẩm cho ông Đặng Văn
T, bà Nguyễn Thị Y.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 27, Điều 33, Điều 55, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật
Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 4 Điều 147, điểm h khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, khoản 1 Điều 227,
khoản 2 Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 213, Điều 217, Điều 219 Bộ luật Dân sự;
Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm đ khoản
1 Điều 12; khoản 1 Điều 6, điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về án phí, lệ phí Tòa án.
13
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị H:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Đoàn Thị H
và anh Đặng Văn N.
2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của chị H, anh N: Anh N trực tiếp
nuôi dưỡng cả 03 con Đặng Tuấn Q, sinh ngày 01/6/2009; Đặng Tuấn Q1, sinh
ngày 27/5/2011 Đặng Tuấn V, sinh ngày 24/9/2015. Thời hạn nuôi con tính từ
ngày 19/11/2024 cho đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy
định của pháp luật. Việc cấp dưỡng cho con, anh chị xin tự giải quyết với nhau.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung:
Giao cho anh Đặng Văn N được quyền sử dụng diện tích 100m
2
đất thuộc
thửa số 846, tờ bản đồ số 26; địa chỉ: Thôn Chùa Dưới, xã Vinh Quang, huyện Tiên
Lãng, thành phố Hải Phòng; vị trí: Đ Bắc giáp trục đường 212, kích thước: 5,52m;
phía Tây Nam giáp đất canh tác ông Nguyễn Xuân Cường, kích thước: 5,52m; phía
Đ Nam giáp đất ông Nguyễn Ngọc Ký, kích thước: 18,50m; phía Tây Bắc giáp đất
ông Vũ Văn Tin, kích thước:17,80m (có sơ đồ kèm theo).
Anh Đặng Văn N phải chia trả chị H 750.000.000 (Bảy trăm năm mươi triệu)
đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật chị H đơn yêu cầu thi hành án, nếu
anh N không chịu thi hành án thì phải chịu lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản
2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền còn phải thi
hành án.
4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu chia
khoản tiền tiết kiệm 500.000.000 đồng.
5. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Đặng Văn T và bà Nguyễn Thị
Y u cầu Toà án buộc anh N, chị H trả lại quyền sử dụng diện tích 100m
2
đất thuộc
thửa số 846, tờ bản đồ số 26; địa chỉ: Thôn Chùa Dưới, xã Vinh Quang, huyện Tiên
Lãng, thành phố Hải Phòng.
6. Về án phí:
Chị Đoàn Thị H phải nộp án phí dân sthẩm 34.075.000 (Ba mươi tư
triệu không trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng. Chị H đã nộp 14.550.000 đồng tiền tạm
ứng án phí sơ thẩm theo biên lai thu số 0009013 ngày 13/5/2024 biên lai thu số
0009014, ngày 14/5/2024 tại Chi cục dân sự Thi hành án dân sự huyện Tiên Lãng.
N vậy chị H còn phải nộp 19.525.000 (Mười chín triệu năm trăm hai mươi lăm
nghìn) đồng.
Anh Đặng Văn N phải nộp án phí dân sự thẩm 34.075.000 (Ba mươi
chín triệu không trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng.
Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Đặng Văn T và bà Nguyễn Thị Y.
14
7. Về chi phí tố tụng: Không xem xét, do đương sự không yêu cầu.
8. Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Hải Phòng;
- VKSND huyện Tiên Lãng;
- TAND thành phố Hải Phòng;
- Đương sự (để thi hành);
- Chi cục THADS huyện Tiên Lãng
(để thi hành);
- UBNDVũ Lễ, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình (ĐKKH số 25/2009);
- u: Hồ sơ, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Huyền Trang
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nguyễn Hữu Bình Nguyễn Duy Viên
THẨM PHÁN –
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Huyền Trang
15
Tải về
Bản án số 74/2024/HNGĐ-ST Bản án số 74/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 74/2024/HNGĐ-ST Bản án số 74/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất