Bản án số 23/2025/HNGĐ-ST ngày 02/04/2025 của TAND TP. PLeiku, tỉnh Gia Lai về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 23/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 23/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 23/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 23/2025/HNGĐ-ST ngày 02/04/2025 của TAND TP. PLeiku, tỉnh Gia Lai về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. PLeiku (TAND tỉnh Gia Lai) |
Số hiệu: | 23/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Ngà.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lê Thị Toan và ông Nguyễn Bá Lý.
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Lê Thị Nhớ.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Phan Quỳnh Như.
Ngày 02 tháng 4 năm 2025 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh
Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 593/2024/TLST-HNGĐ
ngày 03 tháng 10 năm 2024, về việc “Tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 08/2025/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17 tháng 02 năm 2025 và quyết
định hoãn phiên tòa số: 12/2025/QĐST-HNGĐ ngày 12/3/2025 của Tòa án nhân
dân thành phố Pleiku, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Quốc Nhã T, sinh năm 1992.
Địa chỉ: Thôn A, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai.
- Bị đơn: Bà Phạm Thị N
Địa chỉ: I N, phường C, thành phố P, Gia Lai.
(Chị T có mặt; bà N vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, các tài liệu có tại hồ sơ vụ
án nguyên đơn chị Phạm Quốc Nhã T trình bày:
Tôi với anh Nguyễn Anh T1 có với nhau một con chung là bé Nguyễn Anh
Thu N1, sinh ngày 09/8/2016. Vào ngày 27/12/2017 tôi bị Toà án nhân dân huyện
Chư Păh, tỉnh Gia Lai xử phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tô
̣
i “Ta
̀
ng trư
̃
tra
́
i phe
́
p
chấ t ma tu
́
y”, sau đó tôi đi chấp hành án theo bản án Toà án đã tuyên, thời gian tôi
đi chấp hành án bé N1 do anh T1 chồng tôi trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc; đến
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ PLEIKU
TỈNH GIA LAI
Bản án số: 23/2025/HNGĐ-ST.
Ngày: 02/4/2025.
V/v:“Tranh chấp về nuôi con”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2
ngày 30/4/2019 anh T1 qua đời, cháu N1 được bà nội là Phạm Thị N me
̣
anh T1
nuôi dưỡng chăm sóc. Đến ngày 17/10/2020 tôi chấp hành xong án phạt tù trở về gia
đình ở cùng với bà Phạm Thị N và con gái Nguyễn Anh Thu N1, lúc đó bà N có nói
tôi phải ổn định cuộc sống rồi chờ bé N1 lớn hơn bà N sẽ giao lại cho tôi nuôi
dưỡng chăm sóc; tôi đã nghe lời và cố gắng làm ăn kiếm tiền đồng thời chờ thời
gian xoá án tích. Đến nay điều kiện kinh tế của tôi cũng đã ổn và bản thân tôi cũng
tu dưỡng trở thành người mẹ tốt, tôi có đến gặp bà Phạm Thị N là bà nội cháu N1 để
đón cháu N1 về chăm sóc nuôi dưỡng, nhưng bà N không đồng ý, ngăn cản cấm
không cho tôi đến đón cháu về, thậm chí bà N còn đến trường học dặn cô giáo
không cho tôi đón bé N1. Bản thân tôi nay đã là một công dân tốt và đã được Sơ tư
pháp, tỉnh Gia Lai cấp Phiếu lý lịch tư pháp không có án tích.
Vì vậy tôi đề nghị Toà án giải quyết buộc bà Phạm Thị N (là bà nội cháu N1)
phải giao cháu Nguyễn Anh Thu N1 cho tôi là mẹ ruột người được trực tiếp nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi cháu N1 thành niên và tự lập.
Về án phí: Chị T tự nguyện chịu toàn bộ theo quy định pháp luật.
Đối với bị đơn bà Phạm Thị N, trong quá trình Tòa án thụ lý và giải quyết vụ
án, Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng (Thông báo về việc thụ lý vụ án;
Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ;
Thông báo về phiên hoà giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn
phiên tòa) cho bà N nhưng bà N từ chối nhận các văn bản tố tụng nêu trên; để đảm
bảo quyền và nghĩa vụ cho bà N, Toà án tiến hành niêm yết công khai các văn bản
tố tụng trên theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bà N không có văn bản trình
bày đối với yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Quốc Nhã T.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Tòa án xác định đúng quan hệ
pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn cư trú tại thành phố P nên
Tòa án nhân dân thành phố Pleiku thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền. Việc tuân
thủ pháp luật tố tụng của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng qui định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn, buộc bà Phạm Thị N phải giao cháu Nguyễn Anh Thu N1 là con
gái chị T, giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi thành niên và tự
lập. Về án phí chị T là nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ, đề Hội đồng xét xử ghi
nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm
tra tại phiên tòa, lời trình bày của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Chị Phạm Quốc Nhã T khởi kiện yêu cầu tranh chấp về quyền nuôi con là
Nguyễn Anh Thu N1 với bị đơn bà Phạm Thị N có địa chỉ tại thành phố P, tỉnh Gia
Lai. Đây là vụ án: “Tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
3
án nhân dân thành phố Pleiku theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và
điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Chị Phạm Quốc Nhã T với anh Nguyễn Anh T1 có đăng ký
kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố P, tỉnh Gia Lai (Theo trích lục kết
hôn số 100/TLKH-BS ngày 02/4/2025) cả hai có một con chung tên Nguyễn Anh
Thu N1, sinh ngày 09/8/2016. Ngày 27/12/2017 chị T bị Toà án nhân dân thành phố
Pleiku, tỉnh Gia Lai tuyên phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”,
trong thời gian chị T đi chấp hành án cháu Nguyễn Anh Thu N1 do cha đẻ là anh
Nguyễn Anh T1 người trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục; đến ngày 30/4/2019 anh T1
chết, thời gian này cháu N1 được bà nội là Phạm Thị N (me
̣
ruô
̣
t anh T1) trực tiếp
chăm sóc nuôi dưỡng; đến tháng 10/2020 chị T chấp hành xong hình phạt trở về địa
phương tuy nhiên lúc này chị T chưa có việc làm ổn định nên bà N vẫn tiếp tục trực
tiếp nuôi dưỡng cháu N1. Đến nay chị T đã ổn định công việc và muốn được trực
tiếp nuôi dưỡng con ruột là cháu Nguyễn Anh Thu N1 nhưng bà Phạm Thị N là bà
nội cháu N1 không đồng ý giao cháu N1 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục.
Quá trình Toà án giải quyết vu
̣
a
́
n bà Phạm Thị N không có lời trình bày về nguyện
vọng hoặc lý do về việc bà không đồng ý giao cháu N1 cho chị T.
Bản thân chị T nay là một công dân tốt và đã được Sơ tư pháp, tỉnh Gia Lai
cấp Phiếu lý lịch tư pháp không có án tích, chị T có việc làm, thu nhập và chỗ ở ổn
định, đủ điều kiện để nuôi con, hơn nữa việc giao con cho mẹ ruột người trực tiếp
nuôi dưỡng giáo dục là để con được phát triển tốt cả về thể lực, trí tuệ và cũng là
đảm bảo ổn định cuộc sống sinh hoạt của con, bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm
của trẻ em, vì vậy việc yêu cầu khởi kiện của chị T buộc bà Phạm Thị N (bà nội
cháu N1) phải giao cháu Nguyễn Anh Thu N1 cho chị T (mẹ đẻ cháu N1) trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là đúng hoàn cảnh thực tế.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy
nguyện vọng cu
̉
a chị T được trực tiếp nuôi dưỡng con ruột Nguyễn Anh Thu N1
là chính đáng, đây cũng là thể hiện trách nhiệm của người mẹ đối với con cái,
cần chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Quốc N2 T buộc bà
Phạm Thị N phải giao cháu Nguyễn Anh Thu N1 cho mẹ đẻ là chị Phạm Quốc
N2 T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu N1 thành niên
và tự lập.
Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku tại
phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3]. Về án phí: Xét tự nguyện chịu án phí sơ thẩm của nguyên đơn tại
phiên toà là có căn cứ hợp với quy định của pháp luật, cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 và các
Điều 227, 146, 147, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số:
4
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 (Qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án) và Danh mục án phí, lệ phí Toà án.
- Căn cứ các Điều 68, 69, 70, 72 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Quốc Nhã T.
[2]. Buộc bà Phạm Thị N phải giao cháu Nguyễn Anh Thu N1, sinh ngày 09/8/2016
cho mẹ đẻ là chị Phạm Quốc N2 T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục
cho đến khi cháu N1 thành niên và tự lập.
Nguyên đơn có quyền làm đơn yêu cầu Thi hành án Dân sự sau khi bản án có
hiệu lực pháp luật.
[3]. Về án phí:
Chị Phạm Quốc Nhã T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là: 300.000đ (Ba trăm
nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án đã nộp là:
300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: 000489 ngày 03/10/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai. Chị T đã nộp đủ tiền án phí.
[4]. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay
(02/4/2025) nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Đối với bị đơn bà Phạm Thị N vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo kể từ
ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
[5]. Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân.
Nơi nhận: T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Gia Lai; THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND Tp Pleiku;
- Chi cục THADS Tp Pleiku;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị Ngà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm