Bản án số 19/2025/HNGĐ-ST ngày 26/03/2025 của TAND huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 19/2025/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 19/2025/HNGĐ-ST ngày 26/03/2025 của TAND huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình về tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lạc Sơn (TAND tỉnh Hòa Bình)
Số hiệu: 19/2025/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/03/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Bùi Thị T kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chúng sau ly hôn. Chấp nhân yêu cầu khởi kiện.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LẠC SƠN
TỈNH HÒA BÌNH
Bản án số: 19/2025/HNGĐ-ST
Ngày:
26 - 3 - 2025.
V/v tranh chấp về thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau ly hôn.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Phạm Cao Sơn.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Bùi Thị Dung và bà Trịnh Thị Thắng.
- Thư phiên tòa: Bùi Thị Hảo Thư Tòa án nhân dân huyện Lạc
Sơn, tỉnh Hòa Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình tham gia
phiên toà: ông Đinh Thế Tâm - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh
Hòa Bình t xử thẩm công khai
vụ án Hôn nhân gia đình thụ số
11/2025/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2025 về tranh chấp về thay đổi
người trực tiếp nuôi con sau ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
12/2025/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2025 Quyết định hoãn phiên
tòa số 18/2025/QĐST-HNGĐ, ngày 18 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Bùi Thị T, sinh năm 1990. Địa chỉ: xóm K, B, huyện
L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn:
anh Bùi Văn C, sinh năm 1991. Địa chỉ: xóm K, B, huyện L,
tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nguyên đơn là chị Bùi
Thị T trình bày: chị anh Bùi Văn C có quan hệ hôn nhân với nhau từ tháng 11
năm 2010 cho đến tháng 11 năm 2024 thì ly hôn. Quá trình sống chung trong thời
kỳ hôn nhân, chị Bùi Thị T và anh i Văn C có 02 con chung là Bùi Anh K, sinh
ngày 25/7/2011 Bùi Thị Hà L, sinh ngày 23/6/2020. Khi ly hôn, chị Bùi Thị T
và anh Bùi Văn C thoả thuận sau ly hôn, anh Bùi Văn C nhận trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung chưa có yêu cầu chị Bùi Thị
T đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung với anh Bùi Văn C (Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn sự thoả thuận của các đương sự số 122/2024/QĐST-HNGĐ
ngày 09/11/2024 của Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình). Tuy nhiên,
trên thực tế sau khi ly hôn, anh Bùi Văn C nghiện chất ma tuý bỏ con cái
2
không được chăm sóc tử tế, chu đáo; cháu Bùi Anh K đã phần nào tự chăm lo được
cho bản thân còn cháu Bùi Thị Hà L còn quá nhỏ, chưa tự chăm sóc được cho bản
thân. Vì vậy, chị Bùi Thị T khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau
ly hôn từ anh Bùi Văn C sang chBùi Thị T đối với cháu Bùi Thị L. Chị Bùi
Thị T chưa có yêu cầu anh Bùi Văn C đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.
Về phía anh Bùi Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không
mặt không có lý do chính đáng. Tòa án đã xác minh địa chỉ nơi trú của
anh Bùi Văn C thể hiện anh i Văn C có địa chỉ rõ ràng; đăng nhân khẩu
thường trú tại địa chỉ chị Bùi Thị T đã cung cấp cho Tòa án nhưng thường xuyên
vắng mặt tại nơi đăng nhân khẩu thường trú, không ở một địa chỉ ổn định nên
không lấy được ý kiến của anh Bùi Văn C. Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét.
Kết quả Tòa án xác minh, thể hiện: hiện tại hai con chung của chị Bùi Thị T
anh Bùi Văn C vẫn sống cùng gia đình anh Bùi Văn C. Anh Bùi Văn C hiện nay
là người nghiện chất ma tuý, hay bỏ đi thi thoảng mới về nhà, thu nhập không ổn
định; ai thuê làm nấy. Phía chị Bùi Thị T chỗ ở, thu nhập ổn định, phẩm
chất lối sống lành mạnh. Anh Bùi Văn C người nhà anh Bùi Văn C còn ngăn
cản, cản trở việc thăm nom con của chị Bùi Thị T sau khi ly hôn.
Tại phiên tòa, chị Bùi Thị T ginguyên yêu cầu khởi kiện của mình về yêu
cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn; chị Bùi Thị T nhận trực
tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thứ hai là cháu Bùi Thị
Hà L và chưa có yêu cầu anh Bùi Văn C đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.
Phía đại diện Viện kiểm sát nhận định về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký Tòa án
đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết vụ án từ
khi thụ lý đến khi vụ án được đưa ra xét xử. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên a sơ thẩm. Người tham gia tố tụng
là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.
Đối với bị đơn địa chtrú ràng, đã được Tòa án thông báo, tống đạt c
văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vẫn không tham gia ttụng. Do vậy, Tòa án vẫn tiến
hành giải quyết vụ án theo thủ tục quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: thấy
rằng, sau ly hôn, anh Bùi Văn C đã mắc tệ nạn hội nghiện hút chất ma tuý,
làm giảm khả năng nuôi con làm tấm gương xấu cho các con. Mặt khác, anh
Bùi Văn C gia đình còn có hành vi ngăn cản việc thăm nom con của chị Bùi Thị
T vi phạm pháp luật trong việc nuôi dạy con cái. vậy, yêu cầu về thay đổi
người trực tiếp nuôi con sau ly hôn của chị i Thị T là có căn cứ và đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bđơn anh Bùi Văn C
không mặt tại Tòa án không do chính đáng. Tòa án đã xác minh địa
chỉ của anh Bùi Văn C đúng như địa chỉ nguyên đơn đã cung cấp. Tòa án đã
tiến hành cấp, tống đạt, thông o các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều 172; khoản 3, khoản 5 Điều 177 và Điều 179 của Bộ luật Tố tụng
dân sự cho anh Bùi Văn C. Do bị đơn đã được triệu hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
3
vắng mặt không do do nguyên đơn đề nghị Toà án không tiến hành hoà
giải nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1, khoản 4
Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập đến phiên
tòa lần thứ nhất nhưng vắng mặt nên Tòa án hoãn phiên tòa là phù hợp quy định
tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập
đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng
mặt bị đơn theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của chị
Bùi Thị T thấy rằng: hiện nay các con chung của chị i Thị T và anh Bùi Văn C
hiện đang sống cùng anh Bùi Văn C gia đình anh Bùi Văn C. Việc nuôi con tn
thực tế của anh Bùi Văn C không bảo đảm được các quyền và lợi ích hợp pháp mọi
mặt của trẻ em do anh Bùi Văn C mắc tnạn xã hội nghiện hút chất ma tuý. Việc
này không chỉ làm giảm khả năng nuôi con của anh Bùi Văn C còn làm tấm
gương xấu trong việc giáo dục con cái. Mặt khác, trong quá trình nuôi dưỡng các
con chung, anh Bùi Văn C gia đình còn hành vi ngăn cấm việc thăm nom
con của chi Thị T. Việc này vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng con
cái; đã ngăn cản sự vun đắp, phát triển tình mẫu tử giữa chị Bùi Thị T và các con
ruột của mình. Trong khi chị Bùi Thị T có đủ các điều kiện nuôi con tốt hơn anh
Bùi Văn C; chị Bùi Thị T có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, có chỗ ở, thu
nhập ổn định đủ để nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, chị Bùi Thị T chỉ yêu cầu
được trực tiếp nuôi con chung thhai là cháu Bùi Thị Hà L vì cháu L n nhỏ tuổi
(chưa đủ 5 tuổi), còn cháu Bùi Anh K đã gần 14 tuổi, thể tự chăm sóc những
nhu cầu tối thiểu của bản thân. Chị Bùi Thị T chưa yêu cầu anh i Văn C đóng
góp cấp dưỡng nuôi con chung. Xét đây yêu cầu, ý kiến tự nguyện của chị Bùi
Thị T không ảnh hưởng đến việc nuôi con của chị Bùi Thị T, đồng thời giúp
giảm bớt khó khăn cho anh Bùi Văn C trong việc nuôi con. Do vậy, u cầu của
chị Bùi Thị T về việc được trực tiếp nuôi con chung thứ hai là cháu Bùi Thị Hà L
có căn cứ chấp nhận hợp tình, hợp lý. Chị Bùi Thị T vẫn quyền yêu cầu
anh i Văn C cấp dưỡng trong quá trình nuôi dưỡng con chung cho đến khi con
chung đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi quyết định khác có hiệu lực pháp luật ca
Toà án. Chị Bùi Thị Tanh Bùi Văn C đều có quyền thăm nom con chung
mình không trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn theo quy định của pháp luật.
[3] Án phí: Bị đơn phải chịu án phí thẩm do toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn được chấp nhận theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2
Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1, 2 Điều 81, 82, 83 Điều 84 của Luật Hôn nhân Gia
đình 2014;
Căn cứ vào khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng
4
dân sự; khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị T về việc yêu cầu thay đổi
người trực tiếp nuôi con chung sau ly n; giao con chung của chị Bùi Thị T
anh Bùi Văn C Bùi Thị L, sinh ngày 23/6/2020 cho chị Bùi Thị T trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung Bùi Thị L
đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định khác có hiệu lực pháp luật của Toà án. Anh
Bùi Văn C chưa phải nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị Bùi Thị T chưa
yêu cầu. Anh Bùi Văn C vẫn tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con chung là cháu Bùi Anh K theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và
sự thoả thuận của các đương sự số 122/2024/QĐST-HNGĐ ngày 09/11/2024 của
Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình.
Chị Bùi Thị T, anh Bùi Văn C có quyền thăm nom con chung mà mình không
trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn mà không ai được cản trở. Chị Bùi Thị T, anh Bùi
Văn C không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng
xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của nhau.
2. Án phí: Anh Bùi Văn C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia
đình sơ thẩm. Chị Bùi Thị T được nhận lại 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo Biên lai số 0002519 ngày 24/01/2025 của Chi Cục Thi hành án dân sự
huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong hạn 15
ngày kể tngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo
quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hòa Bình;
- VKSND huyện Lạc Sơn;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS huyện Lạc Sơn;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN T
(Đã ký)
Phạm Cao Sơn
Tải về
Bản án số 19/2025/HNGĐ-ST Bản án số 19/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 19/2025/HNGĐ-ST Bản án số 19/2025/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất