Bản án số 227/2024/DS-PT ngày 09/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng dịch vụ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 227/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 227/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 227/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 227/2024/DS-PT ngày 09/09/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng dịch vụ |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 227/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hữu Anh T. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 123/2023/DS-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An. Căn cứ Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Các điều 147, 266, 267, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 513, 514, 515, 516, 517, 518, 520 Bộ luật dân sự năm 2015. Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨAVIỆT NAM
TỈNH LONG AN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 227/2024/DS-PT
Ngày: 09-5-/2024
V/v Tranh chấp dân sự
hợp đồng dịch vụ
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lưu Văn Uẩn
Các Thẩm phán 1. Ông Trần Văn Quán
2. Bà Lê Thị Bích Tuyền
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Trần Yến Nhi – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Ông Bà
Đặng Thị Cẩm Chi - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An tiến hành
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 40/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 01
năm 2024 về việc “tranh chấp dân sự hợp đồng dịch vụ”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 123/2023/DS-ST ngày 10/10/2023 của Toà án
nhân dân thành phố Tân An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 105/2024/QĐ-PT ngày
25/02/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu Anh T. Sinh năm 1981.
Địa chỉ: Số C ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Long An.
2. Bị đơn:
2.1. Công ty cổ phần T3.
Địa chỉ: Số F đường H, phường B, quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Hợp tác xã H1.
Địa chỉ: Số F đường H, phường B, quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của bị đơn Công ty cổ phần T3 và
Hợp tác xã H1 là ông Nguyễn Tuấn K, sinh năm 1994, địa chỉ số: 64 đường H,
phường B, quận A, thành phố Hồ Chí Minh. Theo Văn bản ủy quyền ngày 01
tháng 11 năm 2022.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Công ty cổ phần T3 là
ông Hà Đăng L - Luật sư Công ty L2 thuộc Đoàn luật sư thành phố H.
3. Người kháng cáo: Nguyên đơn, ông Nguyễn Hữu Anh T.
(Ông Nguyễn Hữu Anh T1 và ông Nguyễn Tuấn K có mặt)
NHẬN THẤY:
* Nguyên đơn, ông Nguyễn Hữu Anh T1 và bà Nguyễn Thị Thu H là người
đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu A T1 là trình
bày:
Năm 2019, ông là lái xe của Công ty cổ phần T3, trong quá trình thực hiện
hợp đồng, T3 đã thu của ông 5%VAT trên doanh thu của lái xe năm 2019 không
đúng quy định của pháp luật số tiền là 8.610.000 đồng. Do đó, ông khởi kiện: Yêu
cầu Công ty cổ phần T3 tại Long An hoàn trả số tiền mà Chi nhánh Công ty cổ
phần T3 tại Long An đã thu của ông Nguyễn Hữu Anh T 5%VAT trên doanh thu
của lái xe năm 2019 không đúng quy định của pháp luật số tiền là 8.610.000 đồng.
Ngày 13/01/2020, ông Nguyễn Hữu Anh T và Chi nhánh Hợp tác xã H1 tại
Long An có ký hợp đồng cung ứng, sử dụng sản phẩm dịch vụ vận tải tại hợp đồng
số 01-01/2020/HĐ-HBX-LA thời hạn là 05 năm, kể từ ngày 13/01/2020 đến hết
ngày 21/11/2025. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, ông T chịu sự điều hành
và trực tiếp thu tiền của Công ty cổ phần T3. Theo đó, ông Nguyễn Hữu A T phải
trả cho Công ty cổ phần T3 các khoản thu sau:
- Phí quản lý: 9,5% doanh thu;
- Nhãn hiệu: 12.000.000 đồng/năm (1.000.000/tháng);
- Phí sử dụng các thiết bị của T3: 250.000 đồng/tháng;
- Điểm tiếp thị: 15.000 đồng/ca;
- Phí hỗ trợ giải quyết tai nạn: 5.000 đồng/ca;
- Các loại thuế gồm thuế VAT: 3%/tháng; thu nhập cá nhân: 1,5%/tháng;
- Thuế môn bài: 1.000.000 đồng/năm;
- Phí giám sát: 99.000 đồng/tháng;
- Rửa xe: 15.000/ca.
Trong quá trình thực hiện công việc, ông Nguyễn Hữu Anh T đã thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đối với Công ty như đã cam kết và luôn chấp hành tốt các quy
định của Công ty cổ phần T3, chưa chậm trễ hay để lại bất kỳ một sai sót nào. Tuy
nhiên trong thời gian đang thực hiện hợp đồng, ông Nguyễn Hữu Anh T và các lái
xe khác có những thắc mắc đối với Công ty về các loại phí, thuế phải đóng, bên
phía Công ty chưa có giải thích rõ ràng hay trả lời thỏa đáng thì đến tháng 06/2021
Công ty cổ phần T3 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với ông Nguyễn Hữu
Anh T mà không có lý do chính đáng nên ông Nguyễn Hữu Anh T đã không đồng
3
ý ký biên bản. Việc chấm dứt hợp đồng của Công ty cổ phần T3 đã làm cho xe
không hoạt động được, ảnh hưởng đến đời sống và thiệt hại về kinh tế của ông
Nguyễn Hữu Anh T.
Nay ông Nguyễn Hữu Anh T yêu cầu giải quyết những vấn đề như sau:
- Yêu cầu Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 phải liên đới bồi thường thiệt
hại vì đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với ông Nguyễn Hữu Anh T, khoản tiền
mất thu nhập trong 06 tháng từ tháng 07/2021 mỗi tháng 10.000.000 đồng là
60.000.000 đồng, khôi phục lại hợp đồng đã ký. Đồng thời phải trả các chi phí sửa
xe sau khi xe ông Nguyễn Hữu Anh T bị thanh lý hợp đồng phải sửa lại theo
nguyên hiện trạng ban đầu của xe là 34.672.320 đồng (theo bảng báo giá dịch vụ
của đại lý honda ô tô L3).
- Yêu cầu Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 hoàn trả số tiền thuế chênh
lệch là 4,5% (gồm thuế VAT là 3% và thuế thu nhập cá nhân là 1,5%) của ông
Nguyễn Hữu Anh T nhờ Chi nhánh Công ty cổ phần T3 tại Long An và Chi nhánh
Hợp tác xã H1 tại Long An thu hộ, chi hộ nộp cơ quan thuế khu vực thành phố T -
T là 1.234.585 đồng.
Lý do: Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 139/2016/NĐ-CP ngày
04/10/2016 thì ông Nguyễn Hữu Anh T1 thuộc đối tượng được miễn lệ phí môn
bài. Tuy nhiên Công ty cổ phần T3 đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của ông Nguyễn
Hữu Anh T mà thu thuế này hàng năm để lấy tiền. Chi Cục thuế khu vực T - T đã
có công văn số 245/CCT-TTTBTK ngày 15/6/2021 trả lời về vấn đề này nhưng
phía Công ty vẫn không chịu trả và kéo dài thời gian. Khi ông Nguyễn Hữu Anh T
có ý kiến yêu cầu Công ty giải đáp thắc mắc và trả lời một cách thỏa đáng thì phía
Công ty lại tiến hành thanh lý hợp đồng gây khó khăn đến công việc và thu nhập
kinh tế của gia đình, nên ông Nguyễn Hữu Anh T phải yêu cầu Tòa án giải quyết
để đảm bảo công bằng và quyền lợi cho ông Nguyễn Hữu Anh T.
* Bị đơn, ông Nguyễn Tuấn K là người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của
bị đơn Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 trình bày: Ngày 13/01/2020 giữa ông
Nguyễn Hữu Anh T và Chi nhánh Hợp tác xã H1 tại Long An có ký kết hợp đồng
cung ứng, sử dụng sản phẩm dịch vụ vận tải số 01-01/2020/HĐ-HBX-LA với thời
hạn 05 năm kể từ ngày 13/01/2020.
Ngày 02/6/2021 ông Nguyễn Hữu Anh T đã đề xuất thanh lý, chấm dứt trước
hạn đối với hợp đồng số 01-01/2020/HĐ-HBX-LA ngày 13/01/2020 nêu trên. Các
bên đã thống nhất về nội dung chấm dứt trước hạn. Hợp tác xã H1 đã tiến hành đối
chiếu công nợ giữa các bên (có ký xác nhận của ông Nguyễn Hữu Anh T1), thực
hiện hoàn trả các khoản tiền ký quỹ và các khoản tiền khác liên quan đến hợp đồng
trên.
Đối với các yêu cầu khởi kiện của ông T1, Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã
H1 có ý kiến:
4
- Đối với yêu Công ty cổ phần T3 cầu hoàn trả 5% VAT trên doanh thu mà
Công ty đã thu năm 2019 với số tiền 8.610.000 đồng. Vấn đề đã được giải quyết tại
cuộc họp giữa đại diện Công ty cổ phần T3 và các nhà đầu tư trong đó có ông T1,
theo đó các bên đã thống nhất với phương án sẽ thực hiện quy đổi phân chia trên
100% doanh thu để tránh gây nhầm lẫn, các bên đã thống nhất với phương án trên.
- Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại tự ý thanh lý hợp đồng bao gồm chi phí
thanh lý hợp đồng 60.000.000 đồng, bồi thường thiệt hại giá trị xe 34.672.320
đồng. Công ty không đồng ý, vì việc thực hiện thanh lý hợp đồng thực hiện theo
yêu cầu thanh lý của ông T1 tại đề xuất thanh lý ký ngày 02/6/2021. Theo đó các
bên đã xác nhận về các khoản công nợ phải thực hiện, đồng thời Công ty đã hoàn
trả các khoản ký quỹ và các khoản tiền khác liên quan đến hợp đồng trên. Như vậy,
việc thanh lý hợp đồng có sự thống nhất giữa các bên, Công ty đã thực hiện các
nghĩa vụ còn lại, không có sự đơn phương hay tự ý thanh lý hợp đồng. Do đó yêu
cầu bồi thường chi phí thanh lý hợp đồng 60.000.000đ là không có cơ sở.
- Bồi thường thiệt hại giá trị xe 34.672.320 đồng, Công ty không gây thiệt hại
đối với xe của ông T1, việc lắp đặt các thiết bị khi hợp tác kinh doanh taxi ông T1
đã biết và phải biết khi đồng ý thực hiện hợp tác.
- Đối với yêu cầu hoàn trả khoản tiền thu hộ thuế môn bài thừa là 1.234.585
đồng. Vấn đề này đã được giải quyết tại cuộc họp giữa đại diện Công ty cổ phần
T3 và các nhà đầu tư trong đó có ông T1, các bên thống nhất phương án, Công ty
sẽ hoàn trả lại số tiền đã thu dư của nhà đầu tư. Do đó, đối với khoản thu hộ thừa
nêu trên, Công ty đồng ý hoàn trả lại.
- Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:
Đối với yêu cầu hoàn trả khoản tiền thu hộ thuế môn bài thừa là 1.234.585
đồng. Vấn đề đã được giải quyết tại cuộc họp giữa đại diện Công ty cổ phần T3 và
các nhà đầu tư trong đó có ông T1 là nguyên đơn tham dự ký tên. Theo bị đơn thì
đây là khoản Chi nhánh Hợp tác xã H1 tại Long An đã kê khai không đúng, sau khi
làm việc với cơ quan thuế và được cơ quan thuế xác nhận hoàn trả thì Công ty cổ
phần T3 và Hợp tác xã H1 sẽ hoàn trả lại cho nguyên đơn. Khoản tiền này là Chi
nhánh Hợp tác xã H1 tại Long An kê khai hộ cho nguyên đơn chứ Chi nhánh Hợp
tác xã H1 tại Long An không thu khoản tiền này. Hợp tác xã H1 đã đồng ý ngay
khi phát hiện ra việc kê khai này chưa phù hợp theo số liệu của ông T1 đã cung cấp
theo đơn khởi kiện là 1.234.585 đồng.
Đối với yêu cầu Công ty cổ phần T3 hoàn trả 5%VAT trên doanh thu năm
2019 với số tiền 8.610.000 đồng: Công ty không có thu 5% thuế VAT trên doanh
thu của ông T1 như ông T1 trình bày. Năm 2019, ông Nguyễn Hữu A T1 là người
lái xe cho Công ty cổ phần T3 và được hưởng tiền lương từ Công ty chi trả theo
từng tháng. Theo chính sách của Công ty cổ phần T3 lúc đó quy định tiền lương
khoán theo doanh thu của người lái xe được tính theo công thức như sau: L1
khoán/ ngày công vận doanh = Doanh thu tính lương x tỉ lệ % theo doanh thu để
tính lương lái xe – Chi phí hao tốn nhiên liệu của ca kinh doanh – Các khoản thu
5
hộ (nếu có) + Phụ cấp (nếu có) – Các khoản vi phạm (nếu có) + 5% Doanh thu
(nếu có) (vào các ngày nghỉ theo quy định của pháp luật lao động hiện hành và
ngày thành lập Công ty A1 hàng năm). Trong đó: Mức doanh thu để làm cơ sở tính
tiền lương là 95% doanh thu theo đồng hồ tính tiền đã bao gồm 10% thuế VAT. Tỉ
lệ % theo doanh thu để tính lương lái xe ca kinh doanh và phân loại theo số ghế
của taxi hoặc dòng xe. Việc tính lương theo chính sách của Công ty C vào tình
hình kinh doanh tại từng thời điểm, Công ty có quyền quyết định mức tính doanh
thu phù hợp để đảm bảo chế độ chính sách cho người lái xe và doanh thu của từng
loại xe, chi phí của công ty.
Việc phân chia doanh thu 100% hay 95% chỉ là công thức tính và không liên
quan đến chính sách thuế VAT của Nhà nước không ảnh hưởng đến thu nhập của
người lái xe và Công ty không thu thuế VAT của người lái xe nên không thể hoàn
trả cho người lái xe. Công ty thực hiện kê khai và nộp thuế theo các loại hình kinh
doanh là Công ty thực hiện và chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý Nhà nước
việc kê khai này. Ngoài ra, khi giao kết hợp đồng, ông T1 phải biết và có nghĩa vụ
phải biết việc Hợp tác xã áp dụng cách tính như thế nào. Vì giữa các bên thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình là hợp đồng cung ứng, sử dụng sản phẩm dịch vụ vận
tải để phân chia lợi nhuận với nhau và việc xác định tỷ lệ phân chia là nội dung cơ
bản mà các bên phải biết, ông T1 không phản đối khi giao kết hợp đồng cũng như
đã thực hiện hợp đồng một khoảng thời gian mà không có ý kiến phản đối.
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại vì tự ý thanh lý hợp đồng bao gồm chi
phí thanh lý hợp đồng 10.000.000 đồng/tháng trong 06 tháng là 60.000.000 đồng,
bồi thường thiệt hại giá trị xe 34.672.320 đồng: Việc Công ty cổ phần T3 và Hợp
tác xã H1 thanh lý hợp đồng với ông T1 xuất phát đề nghị tự nguyện của ông T1,
phía bị đơn đã đồng ý chấp thuận đề nghị của ông T1 đề ngày 02/6/2021. Theo nội
dung văn bản này, nguyên đơn đã xác nhận về các khoản công nợ phải thực hiện
giữa hai bên để kết thúc hiệu lực của hợp đồng. Hợp tác xã H1 cũng đã hoàn trả
các khoản tiền này theo đề nghị của ông T1. Theo hợp đồng, các bên không có
thỏa thuận nào khác về việc bồi thường chi phí khi chấm dứt hợp đồng. Căn cứ
khoản 10.5 phụ lục hợp đồng cung ứng, sử dụng sản phẩm dịch vụ vận tải thì Hợp
tác xã H1 không được phép hủy ngang hợp đồng, hủy ngang được xem là vi phạm
hợp đồng. Đồng thời các bên có thỏa thuận về việc xử lý khi vi phạm hợp đồng, cụ
thể theo khoản 10.8 của phụ lục hợp đồng thì Hợp tác xã H1 chấm dứt hợp đồng
do lỗi của Hợp tác xã H1 thì Hợp tác xã H1 có nghĩa vụ hoàn trả lại phí nhãn hiệu
đã thu (tuy nhiên thời điểm đó chưa thực hiện thu), các khoản tiền ký cược, các chi
phí thuê thiết bị, các khoản chi phí này đã được các bên xác nhận theo đề xuất
thanh lý hợp đồng (ông T1 có ký) và đã thanh toán lại cho ông T1. Ông T1 yêu cầu
phải bồi thường chi phí tương ứng với thu nhập hàng tháng 10.000.000 đồng đối
với những tháng không hợp tác là không có cơ sở. Đây không phải là thiệt hại phát
sinh mà bị đơn gây ra, bị đơn không đồng ý với yêu cầu này của ông T1.
Bồi thường thiệt hại giá trị xe 34.672.320 đồng, Công ty cổ phần T3 và Hợp
tác xã H1 không gây thiệt hại đối với xe của ông T1, việc lắp đặt các thiết bị khi
6
hợp tác kinh doanh taxi ông T1 đã biết và phải biết khi đồng ký khi thực hiện hợp
tác. Việc lắp đặt các thiết bị cũng không làm hư hỏng, ảnh hưởng đến khả năng vận
hành, hoạt động của phương tiện, do đó việc sửa chữa thay thế là không cần thiết.
Bên cạnh đó, ông T1 chưa thực hiện sửa chữa, chưa phát sinh chi phí sửa chữa,
không có hoá đơn thanh toán chỉ có bảng báo phí sửa chữa. Như vậy, bị đơn không
gây thiệt hại cho phương tiện của ông T1 cũng như không có phát sinh chi phí sửa
chữa, do đó Công ty không đồng ý với yêu cầu bồi thường thiệt hại trên của ông
T1.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 123/2023/DS-ST ngày 10/10/2023 của Toà án
nhân dân thành phố Tân An đã xử:
Căn cứ Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Các điều
147, 266, 267, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ Điều 513, 514, 515, 516, 517, 518, 520 Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Công nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Hữu Anh T với Công ty cổ phần
T3 và Hợp tác xã H1. Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 có nghĩa vụ liên đới
trả cho ông Nguyễn Hữu A T số tiền thuế chênh lệch 4,5% (gồm thuế VAT là 3%
và thuế thu nhập cá nhân là 1,5%) của ông Nguyễn Hữu Anh T mà Chi nhánh
Công ty cổ phần T3 tại Long An và Chi nhánh Hợp tác xã H1 tại Long An thu hộ,
chi hộ nộp cơ quan thuế khu vực thành phố T - T là 1.234.585 đồng (một triệu, hai
trăm ba mươi bốn nghìn, năm trăm tám mươi lăm đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Hữu Anh T về việc yêu cầu Công ty cổ phần T3 hoàn trả số tiền mà Chi nhánh
Công ty cổ phần T3 tại Long An đã thu của ông Nguyễn Hữu Anh T 5% VAT trên
doanh thu của lái xe năm 2019 với số tiền 8.610.000 đồng (tám triệu, sáu trăm
mười nghìn đồng).
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Hữu Anh T về việc yêu cầu Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 phải bồi thường
thiệt hại vì đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với ông Nguyễn Hữu Anh T,
khoản tiền mất thu nhập 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) và các chi phí sửa
7
xe sau khi xe ông Nguyễn Hữu Anh T bị thanh lý hợp đồng phải sửa lại theo hiện
trạng ban đầu của xe là 34.672.320 đồng (ba mươi bốn triệu, sáu trăm bảy mươi
hai nghìn, ba trăm hai mươi đồng).
4. Về án phí:
- Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 phải có nghĩa vụ liên đới chịu
300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Hữu Anh T phải có nghĩa vụ chịu 5.164.116 đồng (năm triệu,
một trăm sáu mươi bốn nghìn, một trăm mười sáu đồng) án phí dân sự sơ thẩm do
yêu cầu không được chấp nhận. Do vậy chuyển tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông
Nguyễn Hữu Anh T đã nộp là 2.496.114 đồng (hai triệu, bốn trăm chín mươi sáu
nghìn, một trăm mười bốn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0001546 ngày 09/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh
Long An thành án phí dân sự sơ thẩm. Như vậy, ông Nguyễn Hữu A T còn phải
nộp tiếp 2.668.002 đồng (hai triệu, sáu trăm sáu mươi tám nghìn, không trăm lẻ hai
đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên quyền, thời hạn kháng cáo và thi hành án của
các đương sự.
Ngày 24/10/2023, ông Nguyễn Hữu Anh T kháng cáo không đồng ý bản án sơ
thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, cũng không
rút đơn kháng cáo, các bên không thỏa thuận được với nhau việc giải quyết vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu:
Về tố tụng: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và người tham
gia tố tụng tuân thủ đúng quy định tố tụng. Kháng cáo trong hạn luật định, đúng
thủ tục, Tòa án thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm là có căn cứ.
Về nội dung giải quyết vụ án: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn Công ty cổ phần
T3 và Hợp tác xã H1 trả lại cho ông Nguyễn Hữu A T số tiền thuế chênh lệch là
4,5%, bị đơn đồng ý trả lại số tiền này, Bản án sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện của
các đương sự là có cơ sở.
Đối với yêu cầu trả lại số tiền 8.610.000 đồng: Ông T cho rằng Công ty cổ
phần T3 thu số tiền thuế VAT 5% không đúng quy định, phía bị đơn cho không
đồng ý. Ông T không cung cấp được tài liệu chứng cứ thể hiện việc bị đơn đã thu
khoản tiền 5% doanh thu của ông T, do đó Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu này của ông T là có cơ sở. Ông T kháng cáo nhưng cũng không cung cấp được
chứng cứ là Công ty cổ phần T3 thu số tiền thuế VAT 5% của ông T, ông T cũng
không cung cấp được hợp đồng giữa Công ty cổ phần T3 với ông T quy định
quyền và nghĩa vụ các bên như ông T trình bày, nên không có cơ sở chấp nhận
kháng cáo của ông T.
8
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng:
Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 cho rằng do ông T đề xuất thanh lý hợp
đồng trước hạn nên phía Công ty đã chấm dứt hợp đồng theo đề xuất của ông T.
Ông T cho rằng ký đề xuất sau khi Công ty đã thông báo chấm dứt hợp đồng và do
bị ép buộc ký, tuy nhiên ông T không chứng minh được việc bị Công ty cổ phần
T3 và Hợp tác xã H1 ép buộc ký. Do Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 không
vi phạm hợp đồng nên Bản án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu bồi thường
thiệt hại về thu nhập và chi phí sửa xe của ông T không có cơ sở. Ông T kháng cáo
nhưng không chứng minh được việc chấm dứt hợp đồng là do bị ép buộc nên
không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông T.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm.
XÉT THẤY:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Hữu Anh T được thực
hiện đúng về hình thức, nội dung và thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên vụ án được xem xét giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm.
[2] Ông Nguyễn Hữu Anh T khởi kiện, yêu cầu: 1. Công ty cổ phần T3 tại
Long An hoàn trả số tiền 8.610.000 đồng mà Chi nhánh Công ty cổ phần T3 tại
Long An đã thu của ông Nguyễn Hữu Anh T 5% thuế VAT trên doanh thu của lái
xe năm 2019 không đúng quy định của pháp luật; 2. Công ty cổ phần T3 và Hợp
tác xã H1 phải liên đới bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng:
khoản tiền mất thu nhập trong 06 tháng từ tháng 07/2021 mỗi tháng 10.000.000
đồng là 60.000.000 đồng, khôi phục lại hợp đồng đã ký; trả các chi phí sửa xe sau
khi xe ông Nguyễn Hữu Anh T bị thanh lý hợp đồng phải sửa lại theo nguyên hiện
trạng ban đầu của xe là 34.672.320 đồng; 3. Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1
hoàn trả số tiền thuế chênh lệch là 4,5% (gồm thuế VAT là 3% và thuế thu nhập cá
nhân là 1,5%) của ông Nguyễn Hữu Anh T nhờ Chi nhánh Công ty cổ phần T3 tại
Long An và Chi nhánh Hợp tác xã H1 tại Long An thu hộ, chi hộ nộp cơ quan thuế
khu vực thành phố T - T là 1.234.585 đồng.
[3] Bản án sơ thẩm đã tuyên: Công nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Hữu
Anh T với Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1. Công ty cổ phần T3 và Hợp tác
xã H1 có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Hữu A T số tiền thuế chênh lệch
4,5% (gồm thuế VAT là 3% và thuế thu nhập cá nhân là 1,5%) là 1.234.585 đồng.
Các yêu cầu khởi kiện khác của ông Nguyễn Hữu Anh T không được chấp nhận.
[4] Xét thấy, đối với yêu cầu của ông T yêu cầu Công ty cổ phần T3 hoàn trả
5% thuế VAT trên doanh thu của 2019 là 8.610.000 đồng: Ông T cho rằng năm
2019, ông T có ký hợp đồng làm lái xe cho Công ty cổ phần T3, ăn lương theo
doanh thu. Do ông là nhân viên của Công ty cổ phần T3 nên ông không phải đóng
thuế giá trị gia tăng 5% (việc này cũng được văn bản số 395/CCT-KTr2 ngày
26/7/2021 của Chi cục thuế khu vực T – T – Cục thuế tỉnh L không có thu khoản
9
này đối với ông T vào năm 2019), nhưng Công ty cổ phần T3 đã thu của ông 5%
trên doanh thu, nên ông yêu cầu Công ty cổ phần T3 phải hoàn trả lại ông với số
tiền là 8.610.000 đồng. Lời trình bày của ông T không được phía Công ty cổ phần
T3 thừa nhận. Công ty cổ phần T3 cho rằng không có nhận 5% thuế VAT của ông
T như ông T trình bày. Ông T cũng không cung cấp được tài liệu chứng minh
Công ty cổ phần T3 có thu của ông 5% thuế giá trị gia tăng của năm 2019. Đồng
thời ông T cũng không cung cấp được hợp đồng đã ký giữa ông T và Công ty cổ
phần T3 để xác định thỏa thuận quyền và nghĩa vụ giữa hai bên trong hợp đồng.
Do đó, cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T đối với số tiền
8.610.000 đồng là có cơ sở. Không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông T.
[5] Đối với yêu cầu Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 bồi thường thiệt
hại bao gồm chi phí thanh lý hợp đồng 60.000.000 đồng, bồi thường thiệt hại giá
trị xe 34.672.320 đồng. Lý do, phía Cty đơn phương chấm dứt hợp đồng, đã gây
thiệt hại cho ông.
[5.1] Về số tiền thanh lý hợp đồng: Xét thấy, tại “Đề xuất về việc thanh lý
hợp đồng kinh doanh trước hạn” ngày 02/6/2021, người đề xuất là ông Nguyễn
Đặng Ngọc P, và người đề nghị là ông Nguyễn Hữu Anh T, ông T có ký tên, theo
đó, phía Cty còn phải thanh toán cho ông T số tiền là 18.542.340 đồng. Ông T
cũng thừa nhận đây là chữ ký của mình, số tiền này ông T đã nhận được đầy đủ,
nhưng ông T cho rằng ông ký là do sự ép buộc của phía Cty và ký đề xuất sau khi
Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 đã thông báo chấm dứt hợp đồng với ông.
Lời trình bày của ông T không được phía Cty thừa nhận. Ông T không có chứng cứ
chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ. Do đó, không có căn cứ chấp
nhận kháng cáo của ông T2 về yêu cầu này.
[5.2] Về yêu cầu bồi thường thiệt hại giá trị xe 34.672.320 đồng. Xét thấy,
trong hợp đồng không có thỏa thuận khi thanh lý hợp đồng thì phía Cty phải có
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho xe tham gia hợp đồng dịch vụ. Việc thanh lý hợp
đồng có sự thống nhất giữa các bên, cũng không có ghi nhận việc bồi thường.
Trong trường hợp này, hợp đồng chấm dứt do sự tự nguyện của hai bên không ai vi
phạm hợp đồng, không có sự đơn phương hay tự ý thanh lý hợp đồng nên không
phát sinh lỗi của các bên theo Điều 10, Điều 11 Phụ lục hợp đồng cung ứng sản
phẩm, dịch vụ vận tải (dành cho xe taxi) số 01-01/2020/PL-HBX-LA ngày
13/01/2020. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T.
[6] Các khoản khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc
thẩm không xem xét.
[7] Án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 12, Điều 14, khoản
2 Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
10
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hữu Anh T. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 123/2023/DS-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An.
Căn cứ Điều 26, Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; Các điều
147, 266, 267, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ Điều 513, 514, 515, 516, 517, 518, 520 Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của
Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Công nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Hữu Anh T với Công ty cổ phần
T3 và Hợp tác xã H1. Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 có nghĩa vụ liên đới
trả cho ông Nguyễn Hữu A T số tiền thuế chênh lệch 4,5% (gồm thuế VAT là 3%
và thuế thu nhập cá nhân là 1,5%) của ông Nguyễn Hữu Anh T mà Chi nhánh
Công ty cổ phần T3 tại Long An và Chi nhánh Hợp tác xã H1 tại Long An thu hộ,
chi hộ nộp cơ quan thuế khu vực thành phố T - T là 1.234.585 đồng (một triệu, hai
trăm ba mươi bốn nghìn, năm trăm tám mươi lăm đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày
có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải
trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Hữu Anh T về việc yêu cầu Công ty cổ phần T3 hoàn trả số tiền mà Chi nhánh
Công ty cổ phần T3 tại Long An đã thu của ông Nguyễn Hữu Anh T 5% VAT trên
doanh thu của lái xe năm 2019 với số tiền 8.610.000 đồng (tám triệu, sáu trăm
mười nghìn đồng).
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Hữu Anh T về việc yêu cầu Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 phải bồi thường
thiệt hại vì đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với ông Nguyễn Hữu Anh T,
khoản tiền mất thu nhập 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) và các chi phí sửa
xe sau khi xe ông Nguyễn Hữu Anh T bị thanh lý hợp đồng phải sửa lại theo hiện
trạng ban đầu của xe là 34.672.320 đồng (ba mươi bốn triệu, sáu trăm bảy mươi
hai nghìn, ba trăm hai mươi đồng).
4. Về án phí:
11
- Công ty cổ phần T3 và Hợp tác xã H1 phải có nghĩa vụ liên đới chịu
300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Nguyễn Hữu Anh T phải có nghĩa vụ chịu 5.164.116 đồng (năm triệu,
một trăm sáu mươi bốn nghìn, một trăm mười sáu đồng) án phí dân sự sơ thẩm do
yêu cầu không được chấp nhận. Do vậy chuyển tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông
Nguyễn Hữu Anh T đã nộp là 2.496.114 đồng (hai triệu, bốn trăm chín mươi sáu
nghìn, một trăm mười bốn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0001546 ngày 09/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh
Long An thành án phí dân sự sơ thẩm. Như vậy, ông Nguyễn Hữu A T còn phải
nộp tiếp 2.668.002 đồng (hai triệu, sáu trăm sáu mươi tám nghìn, không trăm lẻ hai
đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hữu Anh T phải chịu 300.000 đồng
(ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000
đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số 0002835 ngày 30/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Tân An. Ông Nguyễn Hữu Anh T đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi
hành án dân sự.
Án xử phúc thẩm công khai có hiệu lực pháp luật thi hành./.
Nơi nhận:
- TANDCC;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND thành phố Tân An;
- Chi cục THADS thành phố Tân An;
- Các đương sự;
- Lưu HS; AV.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TỌA
( Đã ký )
Lưu Văn Uẩn
Tải về
Bản án số 227/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 227/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm