Bản án số 220/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 220/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 220/2024/HNGĐ-ST ngày 30/09/2024 của TAND TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Buôn Ma Thuột (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 220/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Long D về yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn và bồi thường thiệt hại. Giao cho ông Tôn Long D quản lý, sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế là 86,9 m2 thuộc một phần thửa đất số 493, tờ bản đồ số 23, diện tích 1.661 m2 tọa lạc tại phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đã được Ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BT 922859 ngày 22/6/2015 mang tên bà Nguyễn Thị T (nay là thửa đất số 618, tờ bản đồ số 23, địa chỉ thửa đất tại phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP 058934 cho bà Nguyễn Thị T ngày 19/9/2018).
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 220/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 30/9/2024
V/v Chia tài sản sau khi ly hôn
và Bồi thường thiệt hại.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Duy Đức.
Các Hội thẩm Nhân dân: 1. Ông Trương Vĩnh Mai;
2. Bà Trần Thị Liên.
- Thư ký phiên tòa: Nguyễn Thị Thanh Bình - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tham gia
phiên toà: Ông Phạm Việt Bắc – Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma
Thuột tiến hành xét xử thẩm ng khai vụ án dân sự thụ số:
943/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2022 về việc “Chia tài sản chung
sau khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 215/2024/QĐST-HNGĐ
ngày 28 tháng 8 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 178/2024/QĐST-
HNGĐ ngày 13 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Tôn Long D Sinh năm 1954; Nơi trú: Số G đường
N, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Bị đơn: Huỳnh Yến N - sinh năm 1982; Nơi cư trú: Số A H, phường T,
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Quốc B Nguyễn Thị T; Nơi trú: Hẻm A đường N,
phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
2. Lưu Thị Cẩm L; Nơi trú: Số A H, phường T, thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
- Người làm chứng:
2
1. Lương Thị ch L1; Nơi trú: Số A đường N, phường T, thành phố
Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
2. Đỗ Thị T1; Nơi cư trú: Số G đường N, phường T, thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm
nay, nguyên đơn ông Tôn Long D trình bày:
Tôi (Tôn Long D) Huỳnh Yến N đăng kết hôn với nhau vào ngày
16/8/2017 tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk
Lắk. Chúng tôi đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số
265/2018/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột.
Trong thời gian tôi Huỳnh Yến N chung sống, tôi bỏ tiền riêng
mua tài sản thửa đất số 493, tờ bản đồ số 23, diện tích 90 m
2
tọa lạc tại
phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, nhận chuyển nhượng của
Nguyễn Thị T với giá 380.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi triệu đồng), theo Văn
bản thỏa thuận chuyển nhượng đất ngày 22/8/2017 ký kết giữa bên A (bên chuyển
nhượng) Nguyễn Thị T và bên B (bên nhận chuyển nhượng) ông Tôn
Long D Huỳnh Yến N, Biên bản bàn giao nhà tài sản ngày 23/8/2017,
trên đất căn nhà cấp 4 diện tích xây dựng 90 m
2
. Số tiền dùng để mua đất
hoàn toàn tiền của tôi, do tôi bán nhà đất tại đường P, phường T, thành phố
Buôn Ma Thuột để lấy tiền mua tài sản nói trên.
Khi ly hôn, tôi N tự thỏa thuận phân chia tài sản như sau: N trả
cho tôi ¾ số tiền mua nhà là 280.000.000 đồng, hạn trả tiền 18/8/2020 thì i
giao lại quyền sử dụng quản tài sản cho N. Tuy nhiên đến nay N vẫn
không thực hiện theo thỏa thuận này, tôi phải đi thuê nhà để ở, nên nay tôi không
đồng ý giao cho bà N quyền sử dụng nhà và đất nêu trên nữa.
Nay tôi khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung giữa tôi bà N
diện tích đất 90m
2
, thuộc thửa đất số 493, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại phường T,
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Nguyện vọng của tôi là được quản lý và
sử dụng tài sản này. Xét về công sức đóng góp tạo lập i sản thì công sức đóng
góp của i nhiều hơn, toàn bộ tiền mua nhà đất của tôi nên tôi đề nghị
Tòa án xem xét phân chia dựa trên công sức đóng góp, tôi chỉ đồng ý chia cho
Huỳnh Yến N ¼ giá trị tài sản, đề nghị Tòa án khấu trừ số tiền tôi đã bỏ ra
thuê nhà ở vì bà Huỳnh Yến N không chịu giao nhà cho tôi. Cụ thể:
- Từ tháng 6/2018 đến tháng 8/2021, tôi thuê nhà của Lương Thị Bích
L1 tại số A đường N, phường T, Tp Buôn Ma Thuột, với giá thuê 1.000.000
đồng/tháng x 38 tháng = 38.000.000 đồng.
- Từ tháng 9/2021 đến nay (tháng 8/2024), tôi thuê nhà tại số G đường N,
Tp Buôn Ma Thuột với giá thuê là 1.500.000 đồng/tháng x 36 tháng = 54.000.000
đồng.
3
Tổng số tiền tôi phải bỏ ra thuê nhà là 92.000.000 đồng.
Tôi đề nghị Tòa án giải quyết khấu trừ số tiền 92.000.000 đồng này vào giá
trị ¼ tài sản mà bà N được nhận, và giao tài sản cho tôi được quyền quản lý và sử
dụng.
2. Đối với bị đơn bà Huỳnh Yến N, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án
đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng Huỳnh Yến N vẫn vắng mặt không có
do. Do vậy, Toà án không thể tiến hành công khai chứng cứ hoà giải theo quy
định được. Tuy nhiên, quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ lưu giữ tại Toà án
nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột được biết: Tại Biên bản lấy lời khai ngày
05/11/2018 tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Huỳnh Yến N
trình bày:
Tôi (Huỳnh Yến N) và ông Tôn Long D tự nguyện chung sống với nhau
vào khoảng tháng 7 năm 2017, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND phường T,
thành phố Buôn Ma Thuột. Quá trình chung sống không hạnh phúc nên vợ chồng
đã thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn thỏa thuận
của đương sự số 265/2018/QĐST- HNngày 19/6/2018 của Tòa án nhân n
thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên vấn đtài sản chung không
yêu cầu Tòa án giải quyết mà để tôi và ông D tự thỏa thuận giải quyết.
Quá trình chung sống chúng tôi 01 căn nhà cấp 4 tọa lạc tại sA đường
H, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột (Trước đây hẻm A đường Y, phường
T, thành phố Buôn Ma Thuột). Căn nhà này tôi ông Tôn Long D mua của
Lưu Thị Cẩm L với số tiền 380.000.000đ (bao gồm cả nội thất bên trong), mua
bằng nguồn tiền của ông Tôn Long D. nxây dựng trên đất nông nghiệp
nên tôi ông D làm giấy thỏa thuận mua bán nhà với chủ đất Nguyễn
Thị T vào ngày 22/8/2017 tại Văn phòng C. Ngoài ra chúng tôi không tài sản
nào khác.
Đến nay ông Tôn Long D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản
chung nợ chung gồm: 01 căn nhà xây cấp 4 tọa lạc tại sA đường H, phường
T, thành phố Buôn Ma Thuột. Đối với căn nđất tôi xác định đây là tài sản
chung của vợ chồng, yêu cầu Tòa án giải quyết chia theo quy định của pháp luật.
3. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột
phát biểu quan điểm như sau:
Về tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ
đến khi Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán đã giải quyết đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư phiên
tòa đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đối với đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định của
pháp luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn đều vắng mặt không lý do trong suốt
quá trình tố tụng.
Về nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a
khoản 1 Điều 39; Điều 95; Điều 147; Điều 220 Bộ luật Tố tụng dân sự;
4
Căn cứ Điều 33; Điều 38; Điều 59; Điều 62 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc Hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần đơn khởi kiện của ông Tôn Long D.
Tạm giao cho ông Tôn Long D sử dụng, quản một phần của thửa đất số
493, tờ bản đồ số 23 tọa lại tại phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk
Lắk; Diện tích đất 86,9m
2
đất trồng cây lâu năm tài sản trên đất gồm: 01 nhà
cấp 4, móng xây đá hộc, tường xây gạch, mái lợp tôn thiếc, trần thạch cao, nền lát
gạch ceramic 400x400, có diện tích xây dựng 5 x 15,5m = 77,5m
2
; Mái che khung
sắt, mái lợp tôn, nền lát gạch ceramic 30x30; Tường rào, móng xây đá hộc, tường
xây gạch dày 110mm, cao 0,6m, trên gắn song sắt. Ông D nghĩa vthanh
toán gtrị chênh lệch cho Huỳnh Yến N với số tiền 365.548.000 đồng. Ông
Tôn Long D quyền nghĩa vụ liên hệ các quan Nhà nước thẩm quyền
để thực hiện các quy định pháp luật về lĩnh vực đất đai.
Không chấp nhận yêu cầu của ông D về việc yêu cầu bà Huỳnh Yến N phải
trả tổng số tiền 92.000.000 đồng (là tiền sau khi ly hôn ông D phải trả để thuê nơi
ở từ tháng 6/2018 đến tháng 8/2024).
Về án phí, chi phí tố tụng: Các đương sự phải chịu án phí và chi phí tố tụng
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về quan hệ tranh chấp thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn
ông Tôn Long D khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của v
chồng sau khi ly hôn với bị đơn Huỳnh Yến N; Do bị đơn nơi trú tại
số A đường H, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Do vậy, đây
vụ án “Tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn”, thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk theo quy định tại
khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố
tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng:
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án, mặc đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
nhiều lần, nhưng bị đơn Huỳnh Yến N không đến Tòa án để làm việc. vậy,
Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai, kiểm tra giao nộp công khai chứng cứ và
hòa giải, đối chất với bị đơn được. Tại phiên tòa, bđơn đã được Tòa án triệu tập
hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có do, do đó Tòa án tiến hành xét xử
5
vắng mặt bị đơn là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia tài sản chung, Hội
đồng xét xxét thấy: Nguyên đơn ông Tôn Long D khởi kiện yêu cầu Tòa án
phân chia tài sản chung là thửa đất có diện tích 90 m
2
, thuộc một phần thửa đất số
493, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk
Lắk, trên đất căn ncấp 4 diện tích 90 m
2
. Nguồn gốc tài sản do ông Tôn
Long D Huỳnh Yến N nhận chuyển nhượng từ Nguyễn Thị T với giá
380.000.000 đồng, theo Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng đất ngày 22/8/2017
kết giữa bên A (bên chuyển nhượng) Nguyễn Thị T bên B (bên nhận
chuyển nhượng) là ông Tôn Long D và bà Huỳnh Yến N.
Theo các tài liệu thu thập được trong hồ vụ án thể hiện tài sản nói
trên là do ông D N tạo lập trong thời gian tồn tại quan hệ hôn nhân, ông D
và bà N đều xác định ông Tôn Long D là người có công sức đóng góp chính trong
việc tạo lập tài sản này, toàn bộ tiền mua nhà đất là của ông Tôn Long D. Tuy
nhiên, Huỳnh Yến N cũng đóng góp công sức trong việc duy trì phát triển
khối tài sản chung. Do đó, cần tính công sức đóng góp cho ông Tôn Long D với
tỷ lệ 70%, còn bà Huỳnh Yến N được tính công sức đóng góp là 30%.
[3.2] Xét nguyện vọng của ông Tôn Long D đề nghị Tòa án giao thửa đất
căn nhà nêu trên cho ông Tôn Long D quản sử dụng. Hội đồng xét xử
thấy ông Tôn Long D người công sức đóng góp chính trong việc tạo lập tài
sản nên yêu cầu của ông D là có cơ sở, cần chấp nhận. Tài sản được xác định như
sau:
- Thửa đất diện tích đo đạc thực tế 86,9 m
2
(chênh 3,1m
2
), giá trị
theo giá Nhà nước là 7.821.000 đồng, có giá trị theo giá thị trường là 650.000.000
đồng. Đất có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất trồng, phía Tây giáp đất của ông
T2, phía Nam giáp đường H, phía Bắc giáp tường ngăn cách với đất của
Nguyễn Thị T.
- Về nhà ở: 01 căn nhà xây cấp 4 diện tích đo đạc thực tế 77,5 m
2
có giá
trị 241.554.000 đồng.
- Tài sản trên đất: Phần hiên có mái che khung sắt, mái lợp tôn, nền lát gạch
ceramic 30x30, diện tích 12,5 m
2
, gtrị 8.620.000 đồng; tường rào xây
gạch 110 cao bình quân 0,6m, móng xây đá hộc, trên gắn song sắt, giá trị
13.696.000 đồng.
Tổng giá trị đất, nhà tài sản gắn liền với đất theo khung giá Nhà nước
quy định là 271.691.000 đồng, qua tham khảo giá thị trường tại thời điểm xét xử
thì tài sản giá trị 913.870.000 đồng. Do ông Tôn Long D được hưởng phần tài
sản với tỷ lệ 70%, còn Huỳnh Yến N được hưởng phần tài sản với tỷ lệ là 30%
6
nên ông D được chia 639.709.000 đồng, N được chia 274.161.000 đồng.
Ông Tôn Long D phải chênh lệch gia trị về tài sản cho bà Huỳnh Yến N số
tiền 274.161.000 đồng.
[3.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đề nghị Tòa án giải
quyết khấu trừ số tiền 92.000.000 đồng (là tiền ông D đã bỏ ra thuê nhà bà
Huỳnh Yến N không chịu giao nhà cho ông D), vào giá trị tài sản N được
nhận. Hội đồng xét xử xét thấy, vào năm 2020 giữa ông D N thỏa thuận
giao cho N toàn quyền sở hữu căn nhà xây cấp 4 toàn quyền sử dụng diện
tích đất 90 m
2
, thuộc một phần thửa đất số 493, tờ bản đồ số 23, tại phường T,
thành phố Buôn Ma Thuột, theo Biên bản thỏa thuận giải quyết phân chia tài sản
chung sau khi ly hôn ngày 18/6/2020 hoàn toàn tự nguyện. Cho nên yêu cầu
của ông D về việc khấu trừ số tiền ông D bỏ ra thuê nhà không căn cứ để
chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm:
[4.1] Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc bằng máy định giá tài
sản:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc bằng máy định giá tài sản
5.300.000 đồng đã được ông Tôn Long D nộp theo Phiếu thu số 375 ngày
06/11/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột. Do chấp nhận yêu
cầu chia tài sản của nguyên đơn, ông D bà N phải chịu chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ, đo đạc bằng máy định giá tài sản tương ứng với giá trị phần tài
sản họ được chia, cụ thông D chịu 3.710.000 đồng, N chịu 1.590.000
đồng. Huỳnh Yến N phải hoàn trả lại cho ông Tôn Long D stiền 1.590.000
chi phí tố tụng nêu trên.
[4.2] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Tôn Long D và bị đơn Huỳnh Yến N mỗi người phải
chịu án phí dân sự thẩm đối với yêu cầu chia tài sản chung tương ứng với giá
trị tài sản được chia, cụ thể:
Ông Tôn Long D phải chịu: 20.000.000 đồng + 4% x (639.709.000 đồng
400.000.000 đồng) = 29.588.360 đồng án phí dân sự có giá ngạch.
Ông Tôn Long D phải chịu án phí đối với yêu cầu khởi kiện không được
Tòa án chấp nhận: 92.000.000 đồng x 5% = 4.600.0000 đồng.
Tuy nhiên, ông Tôn Long D, sinh năm 1954 là người cao tuổi và có đơn xin
miễn giảm án phí nên thuộc trường hợp được miễn án phí thẩm theo quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án là phù hợp.
Huỳnh Yến N phải chịu: 274.161.000 đồng x 5% = 13.708.050 đồng.
7
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 161, Điều 162, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Điều 33, Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Long D về yêu cầu
chia tài sản sau khi ly hôn và bồi thường thiệt hại.
1.1. Giao cho ông Tôn Long D quản lý, sử dụng diện tích đất đo đạc thực tế
là 86,9 m
2
thuộc một phần thửa đất số 493, tờ bản đồ số 23, diện tích 1.661 m
2
tọa
lạc tại phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đã được Ủy ban nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BT
922859 ngày 22/6/2015 mang tên bà Nguyễn Thị T (nay là thửa đất số 618, tờ bản
đồ số 23, địa chỉ thửa đất tại phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk,
đã được Sở Tài nguyên i trường tỉnh Đắk Lắk cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CP 058934
cho Nguyễn Thị T ngày 19/9/2018). Trên đất các tài sản trên đất gồm 01
căn nhà xây cấp 4 có diện tích đo đạc thực tế 77,5 m
2
và tài sản trên đất gồm phần
hiên mái che khung sắt, mái lợp tôn, nền lát gạch ceramic 30x30, diện tích
12,5 m
2
; tường rào xây gạch 110 cao bình quân 0,6m, móng xây đá hộc, trên
gắn song sắt.
Đất có tứ cận như sau: Phía Đông giáp đất trồng, phía Tây giáp đất của ông
T2, phía Nam giáp đường H, phía Bắc giáp tường ngăn cách với đất của
Nguyễn Thị T.
Ông Tôn Long D quyền nghĩa vụ liên hquan thẩm quyền
đăng khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Bản án của Toà án
đã hiệu lực pháp luật. Chịu các chi phí hợp lệ liên quan đến thủ tục tách thửa,
sang tên, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật
hiện hành.
1.2. Ông Tôn Long D phải chênh lệch giá trị tài sản cho Huỳnh Yến
N số tiền 274.161.000 đồng.
8
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tôn Long D về việc yêu
cầu Tòa án khấu trừ số tiền 92.000.000 đồng, là tiền ông D đã bỏ ra thuê nhà ở t
tháng 6/2018 đến tháng 8/2024.
3. Về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm:
[3.1] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc bằng máy định giá
tài sản: Ông Tôn Long D phải chịu 3.710.000 đồng, được khấu trừ số tiền
5.300.000 đồng mà ông D đã nộp và đã chi phí xong. Bà Huỳnh Yến N phải hoàn
trả lại cho ông Tôn Long D số tiền 1.590.000 chi phí tố tụng nêu trên.
[3.2] Về án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Tôn Long D được miễn
án phí dân sự sơ thẩm.
Huỳnh Yến N phải chịu 13.708.050 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Đương sự mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
kể từ ngày tuyên án.
Các đương svắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại c Điều 6, Điều 7
Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh,VKSND tỉnh;
- VKSND TP.BMT;
- CCTHADS TP.BMT;
- Các đương sự liên quan;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Trần Duy Đức
Tải về
Bản án số 220/2024/HNGĐ-ST Bản án số 220/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 220/2024/HNGĐ-ST Bản án số 220/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất