Bản án số 219/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 219/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 219/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 219/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 219/2025/DS-PT ngày 25/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Tháp |
Số hiệu: | 219/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/04/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | vợ chồng ông T khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông H2 và bà T3 phải di dời nhà, cây trồng và mồ mã để trả lại cho ông T phần đất lấn chiếm có diện tích 361,2m2, đất tọa lạc tại xã P, huyện T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
Bản án số: 219/2025/DS-PT
Ngày: 25-4-2025
V/v tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, tranh chấp quyền sử dụng
đất và yêu cầu di dời tài sản trả
đất.
CỘNG HA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyn Ngc Vng.
Ông Nguyn Tấn Tặng;
Ông Sỹ Danh Đt.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyn Bảo Quốc - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.
- Đi din Vin Kim st nhân dân tnh Đồng Thp: Bà Nguyn Ngc
Trang - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong ngày 25/4/2025 ti trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 484/2024/TLPT-DS ngày 31 tháng 10 năm
2024 về “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh chấp
quyền sử dụng đất và yêu cầu di dời tài sản trả đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 624/2024/QĐ-PT ngày
18 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Nguyn Văn T, sinh năm 1965.
2
2. Bà Lê Thị L, sinh năm 1963 (vợ ông T).
Cùng địa chỉ: Số A, ấp N, xã N, thành phố T, tỉnh Long An.
Đi diện theo ủy quyền ủy quyền của ông T: Ông Mai T1, sinh năm 1976;
Địa chỉ: Ấp C, xã M, TP ., tỉnh Đồng Tháp (hợp đồng ủy quyền ngày
25/12/2023).
- Bị đơn: Trần Văn L1 (đã chết).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông L1 gồm có:
1. Bà Nguyn Thị B, sinh năm 1955 (vợ ông L1);
2. Ông Trần Văn A, sinh năm 1989 (con ông L1);
3. Ông Trần Văn C, sinh năm 1991( con ông L1);
4. Ông Trần Văn R, sinh năm 1996 (con ông L1);
5. Bà Trần Thúy H, sinh năm 1994 (con ông L1).
Người đi diện theo ủy quyền của bà B, ông C, ông R, bà H là: ông Trần
Văn A, sinh năm 1989; Cùng địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp (giấy
ủy quyền ngày 30/01/2023).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyn Thị B, sinh năm 1955;
2. Bà Trần Thị L2, sinh năm 1958 (con ông Q);
3. Bà Trần Thị H1, sinh năm 1962 (con ông Q);
4. Bà Trần Thị T2, sinh năm 1964 (con ông Q);
5. Bà Trần Thị N, sinh năm 1966 (con ông Q);
Người đi diện theo ủy quyền của bà B, bà L2, bà H1, bà T2, bà N là: ông
Trần Văn A, sinh năm 1989 (giấy ủy quyền ngày 30/01/2023).
6. Bà Trần Thị Á, sinh năm 1968 (con ông Q);
7. Ông Cao Việt H2, sinh năm 1959; (chồng bà G)
8. Bà Đinh Thị G, sinh năm 1960;
9. Bà Bùi Thị T3, sinh năm 1964;
10. Bà Bùi Thị Kim T4, sinh năm 1988 (con bà T3).
3
Cùng địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
(Bà L, Luật sư T1, anh A, ông H2, bà T3 có mặt ti phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện ngày 25/11/2019; văn bản ghi ý kiến 14/01/2022; biên
bản lấy lời khai ngày 21/11/2023; biên bản hòa giải ngày 21/11/2023, ngày
23/4/2024, ngày 24/5/2024 và tại phiên tòa ông Nguyễn Văn T và đại diện theo
ủy quyền của nguyên đơn ông ông Mai T1 trình bày: Ngày 12/10/1993, vợ chồng
ông T có nhận chuyển nhượng của ông Trần Văn Q (đã chết) một phần đất trồng
lúa có diện tích khoảng 22.000m
2
, đất ta lc ti xã P, với giá 3,5 chỉ vàng. Vợ
chồng ông T đưa trước cho ông Q 02 chỉ vàng, còn nợ li 1,5 chỉ vàng. Ngày
19/4/1996, vợ chồng ông T trả 1,5 chỉ vàng còn li cho ông L1 (là con ông Q),
sau đó ông L1 có ký xác nhận vào Tờ nhượng đất trước đây, có xác nhận của Tổ
trưởng tập đoàn là ông Nguyn Văn T5. Sau khi giao đủ vàng chuyển nhượng
đất, ông Q và ông L1 đã giao phần đất chuyển nhượng cho vợ chồng ông T quản
lý và sử dụng. Năm 2011, vợ chồng ông T được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thuộc thửa số 32, tờ bản đồ số 7, diện tích 16.944m
2
. Tuy nhiên, sau
khi ông L1 và ông Q giao đất cho vợ chồng ông T, ông Q không có đất để ở nên
ông Q có hỏi mượn li một phần đất nhỏ để cất tri ở và hẹn khi nào ông Q chết
sẽ trả đất li cho vợ chồng ông T (phần đất ông Q mượn ở ngay phần đất tranh
chấp với bà G hiện nay). Do thời gian lâu quá nên không nhớ cho ông Q mượn
đất năm nào và việc cho ông Q mượn đất cũng không có làm giấy tờ gì. Việc vợ
chồng ông T cho ông Q mượn 1 phần đất nhỏ (đủ để ông Q cất tri ở), còn diện
tích xung quanh thì vợ chồng ông T vẫn quản lý và sử dụng, dùng để trồng khoai,
B1…. vợ chồng ông T quản lý và sử dụng được khoảng 10 năm thì ông Q lấy
li khoảng 1.000m
2
để bán cho vợ chồng bà G (phần đất tranh chấp hiện nay).
Ti thời điểm ông Q bán đất cho bà G thì vợ chồng ông T không hay, khi phát
hiện thì vợ chồng ông T có ra ngăn cản thì bà G nói rằng phần đất này mua li
của ông L1.
Do phần đất ông T đang tranh chấp với vợ chồng bà G có một căn nhà của
bà T3 và hai ngôi mộ của gia đình bà G và một số cây trồng trên phần đất tranh
chấp.
Nay vợ chồng ông T khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông H2 và bà T3 phải di
4
dời nhà, cây trồng và mồ mã để trả li cho ông T phần đất lấn chiếm có diện tích
361,2m
2
, đất ta lc ti xã P, huyện T.
Ti phiên tòa, ông T1 đi diện cho ông T thay đổi một phần khởi kiện,
ông không yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ
chồng ông T với ông Q và ông L1 theo “Tờ nhượng đất” giữa ông T, ông Q và
ông L1 ký ngày 12/10/1993 và không yêu cầu bên ông Q và ông L1 tiếp tục thực
hiện việc giao cho ông T phần đất diện tích 1.000m
2
theo “Tờ nhượng đất” giữa
ông T, ông Q và ông L1 ký ngày 12/10/1993, vì hợp đồng chuyển nhượng đất
nêu trên đã được các bên thực hiện xong.
- Tại tờ tường trình ngày 01/6/2020; biên bản hòa giải ngày 21/11/2023,
ngày 23/4/2024, ngày 24/5/2024 và tại phiên tòa người thừa kế quyền và nghĩa
vụ tố tụng của bị đơn và là đại diện theo ủy quyền của những người thừa kế
quyền và nghĩa vụ tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn
A trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông nội ông là Trần Văn Q (đã
chết) chuyển nhượng cho ông T, việc chuyển nhượng đất giữa ông Q với vợ
chồng ông T đã được các bên thực hiện xong, cụ thể: Ông Q đã giao đủ đất cho
vợ chồng ông T và vợ chồng ông T đã trả đủ vàng cho ông Q và phần đất vợ
chồng ông T nhận chuyển nhượng của ông Q đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất xong. Phần đất cha ông (ông L1) chuyển nhượng cho vợ
chồng ông H2 không liên quan đến phần đất ông T mua li của ông Q trước đây.
Bởi vì, phần đất cha ông (ông L1) sang nhượng cho vợ chồng ông H2 có nguồn
gốc là của bác ông (Trần Văn T6), không phải của ông Q. Năm 1981, ông T6 hy
sinh, nên cha ông sử dụng phần đất này cho đến khi chuyển nhượng li cho vợ
chồng ông H2.
Nay vợ chồng ông T khởi kiện yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng đất giữa ông Q và ông L1 với vợ chồng ông T và yêu cầu bên ông giao
thêm cho vợ chồng ông T 1.000m
2
(trong đó có phần đất tranh chấp là 361,2m
2
),
ông không đồng ý vì hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông T với ông
Q và ông L1 đã được các bên thực hiện xong, còn phần đất ông T đang tranh
chấp có diện tích 361,2m
2
là của cha ông bán cho vợ chồng ông H2. Yêu cầu
Tòa án giải quyết cho vợ chồng ông H2 và bà T3 tiếp tục sử dụng.
Đối với yêu cầu của bà Trần Thị L2, Trần Thị H1, Trần Thị T2, Trần Thị
N, ông Trần Văn A, ông Trần Văn C, ông Trần Văn R và bà Trần Thúy H về
5
việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyn Văn T trả li diện tích 2.000m
2
đất. Trong
quá trình thụ lý giải quyết vụ án, các ông bà nêu trên đã có đơn rút li yêu cầu
khởi kiện và ti phiên tòa, ông A (đi diện theo ủy quyền) vẫn giữ y yêu cầu
trên.
- Tại biên bản hòa giải ngày 21/11/2023, ngày 23/4/2024, ngày 24/5/2024
và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Cao Việt H2 và bà
Đinh Thị G trình bày: Vào năm 1999, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng từ ông
L1 phần đất nền nhà, trong tờ nhượng đất ông L1 không ghi cụ thể diện tích và
số tiền được ông Ngô Văn T7- Tổ trưởng 21, ấp A, xã P xác nhận ông L1 đã
nhận đủ tiền theo tờ nhượng đất vào ngày 21/4/1999 (Al). Sau khi sang nhượng
phần đất trên, vợ chồng ông sử dụng cất nhà ở, trồng cây và làm đất mồ mã.
Năm 2019, vợ chồng ông T tranh chấp và được UBND xã P hòa giải, hội đồng
hòa giải động viên vợ chồng ông T giữ nguyên phần đất tranh chấp cho vợ chồng
ông sử dụng.
Nay vợ chồng ông T kiện yêu cầu vợ chồng ông di dời nhà, cây trồng và
mồ mã để trả li phần đất tranh chấp có diện tích là 361,2m
2
vợ chồng ông không
đồng ý. Đối với hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông với bên ông
L1, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.
- Tại biên bản hòa giải ngày 21/11/2023 người liên quan bà Bùi Thị T3
trình bày: Vào năm 2020, bà có thỏa thuận nhận chuyển nhượng của vợ chồng
ông H2 một nền nhà chiều ngang 4 mét, chiều dài 15 mét và một căn nhà cấp 4
cất trên phần đất trên với giá là 55.000.000đ, bà đã trả đủ tiền và đang quản lý
và sử dụng nhà và đất trên.
Nay vợ chồng ông T yêu cầu bà di dời nhà giao trả li phần đất trên, bà
không đồng ý, vì phần đất này bà sang nhượng của vợ chồng ông H2. Đối với
hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà với vợ chồng ông H2, bà không yêu cầu
Tòa án giải quyết trong vụ án này.
Ti Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2024/DS-ST ngày 31 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông đã quyết định:
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí xem xét thẩm định ti chỗ
và định giá tài sản, quyền và thời hn kháng cáo, quyền, nghĩa vụ và thời hiệu
thi hành án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
6
- Ngày 31/7/2024, ông Nguyn Văn T và bà Lê Thị L kháng cáo yêu cầu
xem xét li Bản án dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Ti phiên tòa phúc thẩm:
+ Ông Mai T1 và bà Lê Thị L trình bày: Ông T và bà L giữ nguyên việc
khởi kiện và kháng cáo yêu cầu xem xét li bản án dân sự sơ thẩm.
+ Ông Trần Văn A trình bày: Ông A không thỏa thuận được với Nguyn
Văn T và bà Lê Thị L về giải quyết vụ án, không đồng ý theo yêu cầu của ông
T và bà L.
- Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu về giải quyết
vụ án.
+ Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đều
thực hiện đúng quy định của pháp luật.
+ Về nội dung: Việc kháng cáo của ông Nguyn Văn T và bà Lê Thị L là
không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo
của ông Nguyn Văn T và bà Lê Thị L, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ
thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra ti
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng ti phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TA ÁN:
[1] Ông Nguyn Văn T và bà Lê Thị L khởi kiện ông Trần Văn L1, về
việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ), tranh chấp
QSDĐ và yêu cầu di dời tài sản trả đất, Tòa án nhân dân huyện Tam Nông thụ
lý giải quyết là đúng quy định của pháp luật. Ông T và bà L kháng cáo trong
thời hn nên hợp lệ. Bị đơn Trần Văn L1 đã chết nên xác định người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông L1 gồm: Bà Nguyn Thị B (vợ ông L1), ông
Trần Văn A, ông Trần Văn C, ông Trần Văn R, bà Trần Thúy H (các con ông
L1) là phù hợp quy định của pháp luật. Ông T ủy quyền cho ông Mai T1, thủ tục
ủy quyền tham gia tố tụng phù hợp nên chấp nhận. Bà Bùi Thị Kim T8 được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt, nên xét xử vắng mặt bà T8 theo
quy định.
7
[2] Theo ông Mai T1 trình bày, nguồn gốc đất là của ông T nhận chuyển
nhượng của ông Q1 và ông L1, diện tích tranh chấp 361,2m
2
thuộc một phần
thửa đất số 30, tờ bản đồ số 9, chưa được cấp giấy chứng nhận QSDĐ; đất ti xã
P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp. Hiện nay đất do ông Cao Việt H2, bà Đinh Thị G
(vợ chồng) và bà Bùi Thị T3 sử dụng, trên đất có nhà, tài sản, khu mồ nên vợ
chồng ông T yêu vợ chồng ông H2, bà G và bà Thích di D trả li đất. Vợ chồng
ông H2, bà G và bà T3 không đồng ý theo yêu cầu của vợ chồng ông T, vì phần
đất tranh chấp do ông H2 nhận chuyển nhượng của ông L1 vào năm 1999, sau
đó ông H2 chuyển nhượng li một phần cho bà T3 cất nhà ở và các đương sự sử
dụng đất ổn định cho đến nay.
Xét thấy, ông T cho rằng vào ngày 12/10/1993, ông T có nhận chuyển
nhượng đất của ông Q1 và ông L1 (ông Q1 là cha của ông L1) diện tích 22.000m
2
(lúa), giá 3,5 chỉ vàng 24k, nhưng ông T có cho ông Q1 mượn li một phần đất
nhỏ để cất tri ở, nên yêu cầu trả li đất là không có cơ sở, bởi vì:
Ti biên bản lấy lời khai ngày 21/11/2023, vợ chồng ông T trình bày sau
khi ông T giao đủ vàng chuyển nhượng đất thì ông Q1 và ông L1 đã giao phần
đất chuyển nhượng cho vợ chồng ông T quản lý sử dụng. Tuy nhiên sau khi ông
L1 và ông Q1 giao đất thì ông Q1 không có đất ở, nên ông Q1 có hỏi mượn đất
của vợ chồng ông T một phần đất nhỏ để cất tri ở và hẹn khi nào ông Q1 chết
sẽ giao trả đất cho vợ chồng ông T (phần đất ông Q1 mượn ở ti vị trí phần đất
tranh chấp với bà G hiện nay). Do thời gian lâu quá nên không nhớ cho ông Q1
mượn đất vào năm nào và việc cho ông Q1 mượn đất cũng không có làm giấy
tờ gì. Nhận thấy ti phiên tòa ông Mai T1 cũng không cung cấp được tài liệu
chứng cứ để chứng minh phần đất tranh chấp thuộc QSDĐ của ông T đã cho ông
Q1 mượn cất nhà ở, trong khi đó ông A thì không thừa nhận việc chuyển nhượng
phần đất tranh chấp cho ông T mà xác định là ông Q1, ông L1 chuyển nhượng
đất tranh chấp cho vợ chồng ông H2.
Theo đơn khởi kiện ngày 25/11/2019, ông T xác định vợ chồng ông H2
lấn chiếm đất của ông khoảng 1.000m
2
nên yêu cầu trả đất, nhưng ti biên bản
ngày 21/11/2023 nêu trên thì ông T xác định ông Q1 mượn diện tích nhỏ ngay
đất tranh chấp với bà G.
Thực tế việc chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Q1 và ông T không có đo
đc xác định vị trí đất, đồng thời ông T và bà L chỉ đăng ký QSDĐ thuộc thửa
8
số 32, tờ bản đồ số 7, diện tích 16.944m
2
, giấy chứng nhận cấp năm 2011, còn
phần đất tranh chấp thì ông T thừa nhận trước đây đã có sẵn căn nhà của ông Q1
trên bờ kênh và hiện nay vẫn chưa cấp giấy chứng nhận QSDĐ.
Ti Công văn số 556/UBND-NC ngày 17/3/2025 của Ủy ban nhân dân
huyện T ý kiến như sau: Theo kế hoch sử dụng đất năm 2025 của huyện T được
Ủy ban nhân dân tỉnh Đ phê duyệt ti Quyết định số 235/QĐ-UBND-NĐ ngày
31/12/2024, thì vị trí đất tranh chấp được quy hoch mục đích sử dụng đất ở,
giáp lộ giao thông; phần diện tích đất này sẽ được xem xét cấp giấy chứng nhận
QSDĐ nếu đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật về đất đai. Theo
quy định hn mức giao đất ở, hn mức công nhận QSDĐ ở, hn mức giao đất
chưa sử dụng, hn mức công nhận QSDĐ nông nghiệp do tự khai hoang và hn
mức nhận chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, ban
hành kèm theo Quyết định số 20/2024/QĐ-UBND ngày 23/9/2024 của Ủy ban
nhân dân Tỉnh, thì trường hợp cấp giấy chứng nhận QSDĐ (lần đầu) không quy
định hn mức tối thiểu.
Qua nội dung trên cho thấy ông H2 sử dụng đất trồng cây ăn trái và chôn
cất người thân, còn bà T3 thì sử dụng đất cất nhà ở. Ông T cất nhà gần phần đất
tranh chấp, biết được việc sử dụng đất của ông H2 và bà T3, nhưng ông T không
cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh là đã có ngăn cản ông H2, bà T3
sử dụng đất hoặc báo chính quyền địa phương lập biên bản đình chỉ việc trồng
cây, cất nhà ở nêu trên và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy
định của pháp luật. Mặt khác theo đơn khởi kiện thì ông T cho rằng ông Q1
chuyển nhượng cho ông ti vị trí tranh chấp khoảng 1.000m
2
(bờ kênh) nhưng
đo đc thực tế là 361,2m
2
thuộc thửa số 30, ông T cũng không có đăng ký cấp
giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất này. Vì vậy yêu cầu kháng cáo của ông T bà L
là không có cơ sở.
[3] Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu về gải
quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm, không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T và bà L là có căn cứ nên chấp nhận.
Tòa án cấp sơ thẩm xử đã có căn cứ pháp luật nên giữ nguyên quyết định
của Bản án dân sự sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T, bà
L. Các phần khác không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
9
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông T và bà L phải liên đới chịu 300.000đ,
nhưng là người cao tuổi nên được min tiền án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 166,
167 và 188 Luật Đất đai; khoản 2, 3 và 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 158 và Điều 217, khoản 1 Điều 308 Bộ luật
tố tụng dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1, 2 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, min,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí.
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyn Văn T và bà Lê
Thị Lệ .
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
2. Đình chỉ yêu cầu của ông Nguyn Văn T đối với bà Nguyn Thị B, anh
Trần Văn A, anh Trần Văn C, anh Trần Văn R và chị Trần Thúy H, bà Trần Thị
L2, bà Trần Thị H1, bà Trần Thị T2, bà Trần Thị N và bà Trần Thị Á về việc
yêu cầu ông Q và ông L1 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất ngày
12/10/1993.
3. Không chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị L đối với bà Nguyn Thị B,
anh Trần Văn A, anh Trần Văn C, anh Trần Văn R và chị Trần Thúy H, bà Trần
Thị L2, bà Trần Thị H1, bà Trần Thị T2, bà Trần Thị N và bà Trần Thị Á về
việc yêu cầu ông Q và ông L1 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất
ngày 12/10/1993.
4. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyn Văn T và bà Lê Thị L đối
với vợ chồng ông Cao Việt H2 và bà Bùi Thị T3 về việc yêu cầu vợ chồng ông
H2 và bà Thích di D nhà, mồ mã và cây trồng để giao trả li phần đất tranh chấp
có diện tích là 361,2m
2
.
Giữ y phần đất tranh chấp có diện tích là 361,2m
2
gồm các mốc số 1,2,11
về 1, thuộc một phần của thửa đất số 30, tờ bản đồ số 9, đất chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cho vợ chồng ông Cao Việt H2 và bà Bùi Thị
T3 tiếp tục quản lý và sử dụng.
10
Theo sơ đồ đo đc ngày 19/5/2023 và biên bản xem xét thẩm định ti chổ
ngày 19/5/2023 của Tòa án.
5. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L2, Trần Thị H1, Trần Thị
T2, Trần Thị N, anh Trần Văn A, anh Trần Văn C, anh Trần Văn R và chị Trần
Thúy H về việc yêu cầu vợ chồng ông Nguyn Văn T trả li diện tích 2.000m
2
đất.
6. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyn Văn T và bà Lê Thị L phải chịu tiền
chi phí xem xét thẩm định ti chỗ là 5.818.000đ (đã nộp xong).
7. Về án phí:
Bà Lê Thị L được min toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân
sự phúc thẩm.
Ông Nguyn Văn T phải chịu 321.600đ (Ba trăm hai mươi mốt nghìn sáu
trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng là người cao tuổi nên được min
tiền án phí theo quy định. Hoàn trả li cho ông T số tiền tm ứng án phí mà ông
T đã nộp là 2.625.000đ theo biên lai thu tiền tm ứng án phí số 0005714 ngày
03/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.
Ông Nguyn Văn T được min toàn bộ tiền án phí dân sự phúc thẩm.
Hoàn trả li cho ông T số tiền tm ứng án phí phúc thẩm mà ông T đã nộp là
300.000đ theo biên lai thu tiền tm ứng án phí số 0003661 ngày 06/5/2022 của
Chi cục thi hành án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.
Bà Trần Thị L2, Trần Thị H1, Trần Thị T2, Trần Thị N, anh Trần Văn A,
anh Trần Văn C, anh Trần Văn R và chị Trần Thúy H được nhận li toàn bộ số
tiền tm ứng án phí đã nộp 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) theo
biên lai thu tiền tm ứng án phí số 0001646 ngày 29/8/2019, ti Chi cục thi hành
án dân sự huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định ti Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận
thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định ti các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định ti Điều 30 Luật Thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
11
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Tháp;
- Phòng KTNV và THA TAND tỉnh ĐT;
- TAND huyện Tam Nông;
- Chi cục THADS huyện Tam Nông;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TA
Nguyễn Ngọc Vạng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm