Bản án số 219/2024/HC-ST ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 219/2024/HC-ST

Tên Bản án: Bản án số 219/2024/HC-ST ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 219/2024/HC-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/11/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Văn Q kiện UBND huyện C về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 219/2024/HC-ST
Ngày 28 11 2024
V/v Kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Huyền
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Nguyễn Thị Thanh Thủy
2. Ông Bùi Thế Hòa
Thư ký phiên toà: Ông Vũ Đức Anh - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Ông Vương Chí Hiếu - Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 20 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử
thẩm công khai ván hành chính thụ số: 110/2024/TLST- HC ngày 22/04/2024
về việc“Kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 237/2024/QĐST-HC ngày 31 tháng
10 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tsố: 204/2024/QĐST HC ngày 20 tháng
11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Văn Q, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn T, Q,
huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Phạm Văn P, sinh năm
1987 (Theo văn bản ủy quyền ngày 26/4/2024); Địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện, tỉnh
Đắk Lắk; Có mặt.
2. Người bị kiện:
2.1 Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: Số 134 H, thị trấn Q,
huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Nguyễn Công V Chức
vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Theo văn bản ủy quyền
ngày 02/5/2024) Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2.2 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ; Địa chỉ trụ sở: Số 46 P, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H Chức vụ: Phó giám đốc Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Đ (theo văn bản ủy quyền ngày 26/9/2024) Vắng mặt
- Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2
Người bảo về quyền lợi ích hợp pháp: Ông Mai Văn P Chức vụ: Giám đốc
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Số 46 P, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Đỗ Hồng T; Địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt
3.2 Ủy ban nhân dân Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Địa chỉ: Thôn 4, Q, huyện
C, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Minh H Chức vụ: Chủ tịch; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 16/02/2024 theo đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện
ngày 16/9/2024, quá trình tham gia tố tụng, người khởi kiện và người đại diện theo
ủy quyền của người khởi kiện ông Phạm Văn P trình bày:
Ông Văn Q là người sử dụng thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa
đất tại Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Năm 2008, Ủy ban nhân dân huyện C đã cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 445290, số vào sổ: H 02537 ngày
15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T và bà Trịnh Thị L. Đến năm 2016, ông Đỗ Hồng T
làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế đối với thửa đất nêu trên được Sở tài
nguyên môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CĐ 378344 ngày 04/7/2016. Sau khi biết đất của mình cấp nhầm ông Văn Q đã
làm đơn khiếu nại gửi đến UBND Q UBND huyện C. Sau khi kiểm tra hiện
trạng mời các bên lên làm việc để xác minh hiện trạng đất. Ủy ban nhân dân
Q đã lập ttrình số 30/Tr-UBND ngày 17/4/2023 ttrình số 115/Ttr-UBND ngày
19/12/2023 đề nghị UBND huyện C, thu hồi lại giấy chứng nhận đã cấp cho ông Đỗ
Hồng T nêu trên và cấp lại cho ông Võ Văn Q theo đúng chủ sử dụng thực tế.
Tuy nhiên, phòng Tài nguyên Môi trường huyện C luôn tìm cách tránh
không giải quyết. Ủy ban nhân dân huyện C yêu cầu ông Đỗ Hồng T phải làm đơn
tự nguyện trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất yêu cầu này của phía UBND
huyện C không thể thực hiện được, bởi ngay từ đầu ông Đỗ Hồng T đã không hợp
tác giải quyết.
Về nguồn gốc đất, năm 1980 là ông Đ khai hoang đến năm 1990 tặng cho
lại gia đình ông Võ Văn Q và sử dụng ổn định từ đó đến nay.
Nay ông Võ Văn Q yêu cầu Tòa án giải quyết những nội dung sau:
1. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền s dụng đất số AM 445290 do UBND
huyện C cấp ngày 15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T, bà Trịnh Thị L đối với thửa đất
số 18, tờ bản đồ số 32 địa chỉ thửa đất tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
2. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 378344 do Sở tài
nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp cho ông Đỗ Hồng T ngày 04/7/2016 đối với thửa
đất số 18, tờ bản đồ số 32 địa chỉ thửa đất tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Ngày 18/11/2024 người khởi kiện ông Vo Văn Q có đơn xin rút một phần yêu
cầu khởi kiện đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sdụng đất số AM 445290
3
do UBND huyện C cấp ngày 15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T, Trịnh Thị L đối
với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32 địa chỉ thửa đất tại Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Quá trình tham giải quyết ván, tại bản tkhai ngày 04/9/2024 người đại diện
theo ủy quyền của người bkiện UBND huyện C, tỉnh Đắk Lắk, ông Nguyễnng V
trình bày:
Về nguồn gốc: Thửa đất số 18, tờ bản đsố 32, diện tích 2355m2 nguồn gốc
là do ông Võ Đ tự khai hoang năm 1980, đến năm 1990 tặng cho con trai là ông
Văn Q, kể trừ năm 1990 đến nay ông Văn Q sử dụng ổn định, không tranh
chấp. (Hiện nay ông Võ Văn Q vẫn đang sử dụng thửa đất nêu trên).
Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi chung Giấy chứng
nhận): Năm 2006, hộ ông Đỗ Hồng T kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận lần đầu
tại 02 thửa đất số thửa đất số 18, 22 tờ bản đồ số 32 xã Q và được UBND huyện C
cấp cấp chung 01 giấy chứng nhận số AG 874699 ngày 25/10/2006. Đến năm 2008
ông Đỗ Hồng T tặng, cho con gái bà Đỗ Thị Thu H thửa đất số 22 tbản đồ 32
diện tích 2400 m
2
Q theo theo Hợp đồng cho tặng quyền sử dụng đất số 208 đã
được UBND Q chứng thực ngày 28/8/2008 được UBND huyện cấp giấy chứng
nhận số AM 445166 ngày 15/10/2008, đồng thời cấp lại thửa đất số 18 tờ bản đồ số
32 diện tích 2355 m
2
cho ông Đỗ Hồng T Trịnh Thị L giấy chứng nhận số
445290 ngày 15/10/2008. Đến năm 2016 thì gia đình ông Đỗ Hồng T thực hiện thủ
tục phân chia tài sản thừa kế theo quy định, đến năm 2009 thì Trịnh Thị L chết
theo giấy chứng tử số 23/2013 do UBND Q cấp ngày 3/9/2013 (đăng quá hạn)
và được Sở Tài nguyên và môi trường cấp lại giấy chứng nhận cho ông Đỗ Hồng T
số CĐ 378344 ngày 04/7/2016.
Năm 2022 thì ông Văn Q tiến hành khai đăng cấp giấy đối với thửa
đất số 18 tờ bản đồ 32 Q (thửa đất ông Quý đang sử dụng) thì phát hiện thửa đất
nêu trên đã được cấp giấy chứng nhận cho ông Đỗ Hồng T.
Từ những thông tin nêu trên xét kết quả làm việc của các quan (có biên
bản kèm theo), UBND huyện C xét thấy việc kê khai, đề nghị đăng ký cấp giấy của
hộ ông Đỗ Hồng T sự nhầm lẫn vị trí thửa đất ngoài thực địa dẫn đến việc cấp
giấy chứng nhận sai vị trí ngoài thực địa (cấp nhầm GCN QSD đất số 378344
ngày 04/7/2016 (đã đăng biến động) vào thửa đất của ông Văn Q). n cứ
điểm d, khoản 2, Điều 106 Luật đất đai thì không đủ điều kiện để thực hiện thu hồi
GCN QSDĐ.
Vì vậy, quan điểm của UBND huyện C đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
xem xét tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số: 378344 cấp ngày
04/7/2016 đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32, địa chỉ thửa đất: Q, huyện C,
tỉnh Đắk Lắk do cấp sai đối tượng sử dụng đất so với thực tế sử dụng để đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là ông Võ Văn Q.
Quá trình tham giải quyết vụ án, tại bản tự khai ngày 21/10/2024 người đại
diện theo ủy quyền của người bị kiện Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ, ông
Nguyễn Văn H Phó giám đốc trình bày:
Về nguồn gốc sdụng đất thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32: Ngày 25/10/2006,
UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi Giấy chứng
4
nhận) số AG 874699 cho hộ ông Đỗ Hồng T đối với các thửa đất số 18, 22, tờ bản
đồ số 32, diện tích 4.755m
2
(thửa đất số 18 diện ch 2.355m
2
, thửa đất số 22 diện
tích 2.400m
2
) mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm, thời hạn sử dụng: năm
2043. Các thửa đất tọa lạc tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình sử dụng đất,
hộ hộ ông Đỗ Hồng T được UBND huyện C cấp đổi Giấy chứng nhận AM 445290
ngày 15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T Trịnh Thị L đối với thửa đất số 18, tờ
bản đồ số 32, diện tích 2.355m
2
, địa chỉ thửa đất tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Quá trình đăng biến động đất đai đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32:
Năm 2016, hộ ông Đỗ Hồng T lập thủ tục phân chia di sản thừa kế quyền sử dụng
đất đối với thửa đất số 18, tbản đồ số 32 (do bà Trịnh Thị L chết), được Chi nhánh
Văn phòng Đăng đất đai huyện C tiếp nhận, xử và trình Văn phòng Đăng
đất đai thẩm định, trình Sở Tài nguyên và Môi trường cấp Giấy chứng nhận số
378344 ngày 04/7/2016 cho ông Đỗ Hồng T, tại thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32, diện
tích 2.355m
2
, địa chỉ thửa đất tại Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Văn bản phân chia
di sản thừa kế quyền sdụng đất đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32 nêu trên
được UBND Q, huyện C chứng thực ngày 06/6/2016 theo số chứng thực số 275
quyển số 01-2016-SCT/HĐ,GD theo đúng quy định của pháp luật.
Quan điểm của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ vyêu cầu của người khởi
kiện: Căn cứ Điều 188 Luật đất đai 2013 Điều 79 Nghị định 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/05/2014 của Chính phủ. Việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất
trên sở các văn bản được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật,
các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước đây được UBND huyện C cấp theo
quy định của pháp luật. vậy, việc cấp Giấy chứng nhận số 378344 cho ông
Đỗ Hồng T đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32, diện tích 2.355m
2
, địa chỉ thửa
đất tại Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong
quá trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (lần đầu năm 2006 cấp đổi năm
2008), UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nên
trên không đúng đối tượng sử dụng đất (thực tế hộ ông Đỗ Hồng T không quản
lý, sử dụng ông Văn Q nhận tặng cho từ ông Đ, sử dụng ổn định từ
năm 1990 đến nay). Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk căn cứ hồ sơ vụ việc để xem xét, giải quyết vụ việc theo quy định
của pháp luật.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bkiện, Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh Đ, ông Mai Văn P Giám đốc Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đ
có văn bản trình bày ý kiến tương tự như nội dung người bị kiện đã trình bày.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
là UBND xã Q trình bày:
Qua kiểm tra hồ sơ địa chính và kiểm tra thực địa tại thửa đất số 18, tờ bản đồ
số 132, đăng biến động thành giấy chứng nhận số 378344. Đồng thời xác
minh các hộ canh tác liền kề lâu năm gần thửa đất trên, các hộ dân xung quanh đều
xác nhận: Gia đình ông Văn Q đã canh tác trên diện tích đất khoảng 2300 m
2
.
Địa chỉ thửa đất tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk từ trước những năm 2000 là đúng
thực tế. Gia đình ông Võ Văn Q chưa làm hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất lần đầu đối với diện tích nêu trên. Ngày 19/12/2023 UBND xã Q đã có
5
tờ trình số: 115/TTr-UBND gửi UBND huyện về việc Hủy giá trị pháp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nêu trên do ông Võ Văn Q đang sử dụng ổn định theo Điều
106 Luật đất đai năm 2013.
Quá trình tham gia giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp l các văn
bản tố tụng, tuy nhiên người quyền li và nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hồng T
đều vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa phát
biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử những
người tham gia tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử người khởi kiện đã chấp
hành đúng và đầy đủ các quy định của Luật tố tụng hành chính trong quá trình giải
quyết vụ án. Riêng đối với người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã
không thực hiện đúng các quy định về quyền, nghĩa vụ của đương sự tại Điều 55
Điều 57,58 Luật Tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Qua phân tích, đánh giá đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Lắk đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng
hành chính, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Q. Hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CD 378344 do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Đ cấp cho
ông Đỗ Hồng T ngày 04/7/2016 đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32 địa chỉ thửa
đất tại Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, ông Văn Q quyền liên hệ với các quan
có thẩm quyền để được cấp GCNQSD đất theo hiện trạng đất đang sử dụng.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện về việc yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 445290 do UBND huyện C cấp ngày
15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T, bà Trịnh Thị L đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số
32 địa chỉ thửa đất tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, xem
xét tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; ý kiến trình bày của các
bên đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về đối tượng khởi kiện thẩm quyền giải quyết: Ông Văn Q khởi
kiện yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk huỷ giấy chứng nhận quyền sdụng đất
số AM 445290 do UBND huyện C cấp ngày 15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T,
Trịnh Thị L hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 378344 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 04/7/2016 nên vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính. Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định
tại khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính.
[1.2]. Về thời hiệu khởi kiện: Sau khi biết thửa đất đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng cho ông Đỗ Hồng T, ông Võ Văn Q đã làm đơn khiếu nại, yêu
cầu hủy giấy chứng nhận đã cấp cho ông Tấn đến UBND xã Q và UBND huyện C.
6
Đến ngày 23/01/2024 tPhòng Tài nguyên và Môi trường huyện C có công văn số:
26/TNMT-QLĐĐ yêu cầu Ủy ban nhân dân Q yêu cầu người liên quan ông Đỗ
Hồng T bàn giao giấy chứng nhận và thực hiện cam kết đối với việc không sử dụng
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay vốn, thế chấp tự nguyện hủy giấy
chứng nhận nhưng chưa được thực hiện. Ngày 16/02/2024 ông Văn Q đơn
khởi kiện vụ án hành chính là trong thời hiệu khởi kiện quy định tại điểm a khoản 2
Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[1.3] Về việc xét xvắng mặt các đương sự: Người đại diện theo uỷ quyền của
người bị kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện có đơn xin
xét xử vắng mặt và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Toà án triệu tập
hợp L 02 lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên HĐXX căn cứ Điều 157,158
Luật Tố tụng hành chính xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1] Về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 445290 do UBND huyện
C cấp ngày 15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T, Trịnh Thị L tại thửa đất số 18, tờ
bản đồ số 32 địa chỉ thửa đất tại Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk đúng thẩm quyền
quy định tại Điều 52 Luật đất đai năm 2003; khoản 4 Điều 1 Nghị định số
66/2001/NĐ-CP ngày 28 tháng 9 năm 2001 của Chính phủ.
Đối với giấy chứng nhận quyền sdụng đất số CD 378344 do Sở tài nguyên
môi trường tỉnh Đắk Lắk cấp lại cho ông Đỗ Hồng T ngày 04/7/2016 đúng
thẩm quy định tại Điều 105 Luật đất đai năm 2013; Điều 37 Nghị định số
43/2014/-CP ngày 15/5/2014 ca Chính phủ, quy đnh chi tiết v thi hành mt s
điu ca Luật đất đai 2013.
[2.2] Xét yêu cu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Văn Q
đối với thửa đất số 18, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.2.1] Tại Biên bản kiểm tra hiện trạng xác minh nguồn gốc sử dụng đất,
thời điểm sdụng đất ngày 22/02/2023 của UBND Q đã xác định: Hiện trạng
thửa đất số 18 (23 mới), tờ bản đồ số 32 (26 mới) diện tích 2355
m
2
(2538,1 m
2
mới)
do ông Võ Văn Q đang sử dụng ổn định, không có tranh chấp với hộ liền kề, nguồn
gốc sử dụng đất của ông Võ Đang tự khai hoang năm 1980 đến năm 1990 tặng lại
cho cháu ông Văn Q sử dụng ổn định đến nay. Ủy ban nhân dân kết luận
về hiện trạng sử dụng đất là do ông Văn Q đang sử dụng không tranh chấp
với hộ liền kề, chỉ giấy chứng nhận quyền sử sụng đất đã cấp cho ông Đỗ Hồng
T thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32, diện tích 2355
m
2
do Sở tài nguyên và Môi
trường cấp ngày 08/7/2016 (BL số 04).
Tại Biên bản làm việc ngày 03/3/2023 của UBND Q ghi nhận ý kiến của
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Hồng T đã xác định: Ông Tấn không
canh tác không thửa đất nào tại khu vực thôn Tiến Thành, Q ông Tấn
không cầm hoặc sử dụng giấy chứng nhận mang tên Đỗ Hồng T thửa đất số 18
(23 mới), tbản đồ số 32 (26 mới) diện tích 2355
m
2
(2538,1 m
2
mới) (tại BL số 02).
Tại Tờ trình số 30/TTr-UBND ngày 17/4/2023 của Ủy ban nhân dân xã Q xác
định nội dung để nghị UBND huyện C thu hồi giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất
7
số AM 445290 do UBND huyện C cấp ngày 15/8/2008 mang tên ông Đỗ Hồng T
(BL số 05).
Quá trình giải quyết vụ kiện, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ủy thác yêu cầu
xác minh nguồn gốc đất, người sử dụng đất đối với thửa đất số 18 cho Tòa án nhân
dân huyện C thực hiện, tại Biên bản xác minh ngày 09/7/2024 của Tòa án nhân dân
huyện C đã xác định nội dung: Thửa đất số 18 hiện nay do ông Võ Văn Q người
quản lý, sdụng canh tác đất. Ông Quý đã quản sử dụng canh tác thửa đất ổn định
từ khoảng năm 1990 cho đến nay và không có tranh chấp với các hộ liền kề. (BL số
65).
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại các bản tự khai, văn bản ý kiến Ủy ban
nhân dân huyện C Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đắk Lắk cũng đều thừa
nhận quá trình cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất (lần đầu năm 2006 và cấp
đổi năm 2008), UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất nên trên không đúng đối tượng sử dụng đất (thực tế hộ ông Đỗ Hồng T
không quản lý, sử dụng ông Võ Văn Q nhận tặng cho từ ông Võ Đ, sử dụng
ổn định từ năm 1990 đến nay).
[2.2.2] Như vậy, xét việc UBND huyện C cấp giấy chứng nhận lần đầu vào
năm 2006, do ông Đỗ Hồng T khai đăng cấp giấy chứng nhận lần đầu tại 02
thửa đất số thửa đất số 18, 22 tờ bản đồ số 32 tại xã Q và được UBND huyện C cấp
cấp chung 01 giấy chứng nhận số AG 874699 ngày 25/10/2006 không đúng đối
tượng sử dụng đất đối với thửa đất số 18. Dẫn đến năm 2008 ông Đỗ Hồng T tặng,
cho con gái là bà Đỗ Thị Thu H thửa đất số 22, đồng thời thực hiện việc cấp lại giấy
chứng nhận đối với thửa đất số 18 tờ bản đsố 32 diện tích 2355 m
2
cho ông Đỗ
Hồng T và bà Trịnh Thị L theo giấy chứng nhận sAM 445290 ngày 15/10/2008 là
không đúng đối tượng. Tương tự, đến năm 2016 thì Sở Tài nguyên môi trường
cấp lại giấy chứng nhận cho ông Đỗ Hồng T số CĐ 378344 ngày 04/7/2016 trên cơ
sở phân chia thừa kế của gia đình ông Đỗ Hồng T là cũng không đúng đối tượng sử
dụng đất đối với thửa 22 tờ bản đồ số 32.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 6 Điều
87 Nghị định số 43/2014/NĐ CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì việc thu hồi
đất chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án trong quá trình sử dụng đất, ông Đỗ Hồng T đã thực hiện chuyển quyền sử
dụng đất theo hình thức thừa kế. Do đó, xét yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Q về
việc huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền shữu nhà tài sản khác
gắn liền với đất số CĐ 378344 do Sở Tài nguyên Môi trường cấp ngày 04/7/2016
là có căn cứ chấp nhận.
[2.2.3] Đối với các Giấy chứng nhận số AG 874699 do UBND huyện C cấp
ngày 25/10/2006 lần đầu cho ông Đỗ Hồng T giấy chứng nhận số AM 445290 do
UBND huyện C cấp lại cho ông Đỗ Hồng T, Trịnh Thị L ngày 15/10/2008 (cấp
lại) đối với thửa đất số 18 tờ bản đồ số 32 đã bị Ủy ban nhân dân huyện C và Sở tài
nguyên Môi trường thu hồi theo quy định pháp luật đất đai. Ngày 18/11/2024
người khởi kiện ông Văn Q xin rút yêu cầu này. Do đó Hội đồng xét xử cần đình
chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện đối với yêu cầu trên.
8
[2.2.4] Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy, cần chấp
nhận một phần yêu cầu của ông Đỗ Hồng T, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số CĐ 378344 do Sở i nguyên và Môi trường cấp ngày 04/7/2016 cho ông Đỗ
Hồng T đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32, diện tích 2355
m
2
địa chỉ thửa đất tại
Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Cần đình chỉ trả lại một phần yêu cầu khởi kiện này
của ông Võ Văn Q đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM
445290 do UBND huyện C cấp ngày 15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T, bà Trịnh Thị
L đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32 địa chthửa đất tại Q, huyện C, tỉnh Đắk
Lắk.
Ông Văn Q quyền liên hệ với quan thẩm quyền để được cấp lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng sử dụng đất và thực hiện
các nghĩa vụ khi làm thủ tục theo quy định của pháp luật.
[3]. Về án phí hành chính sơ thẩm: Do được chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên
ông Võ Văn Q không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Ủy ban nhân dân huyện C không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính
sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116; điểm
b khoản 2 Điều 193, Điều 194; Điều 206; Điều 358 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ đim d khon 2, khon 3 Điu 106; Điều 204; Điu 209 Luật đất đai
2013; Khoản 5 Điều 87 Ngh định s 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 ca Chính
phủ, quy đnh chi tiết v thi hành mt s điu ca Lut đất đai 2013
Áp dụng khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và l phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Q về việc:
Huỷ Giấy chứng nhận quyền sdụng đất quyền sở hữu nvà tài sản khác
gắn liền với đất CĐ 378344 do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ cấp ngày
04/7/2016 cho ông Đỗ Hồng T đối với thửa đất số 18, tờ bản đồ số 32, diện tích 2355
m
2
địa chỉ thửa đất tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Ông Văn Q quyền liên hệ với quan thẩm quyền để được cấp lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng hiện trạng sử dụng đất và thực hiện
các nghĩa vụ khi làm thủ tục theo quy định của pháp luật.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Q về việc:
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sAM 445290 do UBND huyện C
cấp ngày 15/10/2008 cho ông Đỗ Hồng T, bà Trịnh Thị L đối với thửa đất số 18, tờ
bản đồ số 32 địa chỉ thửa đất tại xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
3. Về án phí hành chính sơ thẩm:
9
Ông Văn Q không phải chịu án phí hành chính thẩm, được nhận lại số
tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm do ông Phạm Văn P nộp thay
theo biên lai số AA/2023/0012832 ngày 16/4/2024 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Đắk Lắk.
Ủy ban nhân dân huyện C không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính
sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo:
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự, người đại din hp pháp cho đương sự vắng
mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp L.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Thị Thanh Huyền
Tải về
Bản án số 219/2024/HC-ST Bản án số 219/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 219/2024/HC-ST Bản án số 219/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất