Bản án số 201/2025/DS-ST ngày 20/09/2025 của TAND TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 201/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 201/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 201/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 201/2025/DS-ST ngày 20/09/2025 của TAND TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Vũng Tàu (TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) |
| Số hiệu: | 201/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 20/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ VŨNG TÀU
TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
Bản án số: 201/2024/DS-ST
Ngày 20-9-2024
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Dương Thị Hương
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Hải
Ông Đặng Song Hoàn
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu tham gia phiên
tòa: Bà Trần Thị Hiên - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu,
xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 278/2023/TLST-DS ngày 19 tháng
5 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”, theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 216/2024/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1987.
Địa chỉ: S Số 47 C, Phường M, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu (có mặt).
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1989.
Địa chỉ hộ khẩu: xã S, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng
mặt lần 2 không có lý do).
-Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thành N, sinh năm
1989.
Địa chỉ: Số T đường V, thị trấn G, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
(vắng mặt lần 2 không có lý do).
- Người làm chứng:
1/ Ông Văn Bá P, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Số T đường V, thị trấn G, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu (vắng mặt lần 2 không có lý do).
2/ Ông Trần Đình T, sinh năm 1992.
Địa chỉ: Số T đường V, thị trấn N, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
(có mặt).
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng
tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị Kim Long trình bày:
Khoảng giữa tháng 11-2021, em trai bà tên Trần Đình T có gọi điện thoại cho
bà nói rằng ông Văn Bá P (là hàng xóm của bà) có một người bạn đang có nhu cầu
chuyển nhượng 45 lô đất sẽ phân lô trong vòng 06 tháng, các lô đất này tọa lạc tại
xã Đá Bạc, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi nghe ông T nói như
vậy thì bà nói với ông T về việc hẹn ông Văn Bá P đi xem đất. Mấy ngày sau, bà
cùng ông Văn Bá Phi và ông Trần Đình T đi xem các lô đất trên và bà quyết định
mua 06 lô đất trồng cây lâu năm có diện tích 750m
2
trong đó 480m
2
đất ở, diện tích
mỗi lô đất 125m
2
thuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 114 tọa lạc tại xã B, huyện Đ,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên bà nói với ông Văn Bá P hẹn với chủ đất mấy ngày
sau hai bên sẽ ký hợp đồng đặt cọc.
Ngày 27-11-2021, tại nhà mẹ ruột bà ở địa chỉ Tổ M thôn S, xã T, huyện Đ,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bà Nguyễn Thị Thúy H có đưa cho ông Trần Đình T xem
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số DC 406835 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu cấp
ngày 01-12-2021 đứng tên ông Nguyễn Thành N đồng thời bà H có đưa cho ông
Trần Đình T xem hợp đồng đặt cọc ngày 26-11-2021 giữa bà H và ông Nguyễn
Thành N nên mặc dù ông N là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nhưng do bà Hvà ông N đã ký hợp đồng đặt cọc về việc bà H mua 45 lô đất của
ông Nthuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 114 tọa lạc tại xã B, huyện Đ, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu vì vậy bà L mới tin tưởng nên bà L và bà H có lập hợp đồng đặt
cọc về việc chuyển nhượng 06 lô đất trồng cây lâu năm có diện tích 750m
2
trong
đó 480m
2
đất ở, diện tích mỗi lô đất 125m
2
thuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 114
tọa lạc tại xã B, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với giá 4.020.000.000 đồng.
Cùng ngày hôm đó, bà L đặt cọc cho bà H số tiền 420.000.000 đồng; số tiền
420.000.000 đồng trước đó bà L đã chuyển khoản cho em trai bà là ông Trần Đình
T nên ngày 27-11-2021 sau khi bà L và bà H ký hợp đồng đặt cọc xong thì ông
Trần Đình T là người trực tiếp chuyển khoản số tiền 420.000.000 đồng cho bà
Hương thông qua số tài khoản 28223868 của ngân hàng ACB với nội dung
“chuyen tien coc 6lo da bac”. Số tiền còn lại hai bên hẹn 06 (sáu) tháng kể từ ngày
ký hợp đồng đặt cọc (ngày 27-11-2021) đến ngày 27-05-2022 sẽ hoàn tất thủ tục
tách thửa và ra phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng đặt cọc
ngày 27-11-2021 do ông Văn Bá P là người lập, trong hợp đồng đặt cọc ông P là
người ký ở mục người làm chứng, bà H là người ký ở mục bên bán và bà Long là
người ký ở mục bên mua. Tại thời điểm bà L và bà H ký hợp đồng đặt cọc có em
trai bà là ông Trần Đình T chứng kiến và biết rõ toàn bộ nội dung của hợp đồng đặt
cọc mà bà và bà Hương ký tuy nhiên ông T không ký vào hợp đồng đặt cọc.
Sau khi thỏa thuận đặt cọc xong, bà L vẫn thường xuyên liên lạc với bà H để
tiến hành làm thủ tục tách thửa thì bà H nói với bà L đang làm thủ tục tách thửa,
3
lúc nào hoàn tất thì sẽ gọi điện báo cho bà L biết để tiến hành công chứng chuyển
nhượng sang tên.
Đến hẹn hợp đồng là ngày 27-05-2022, bà L gọi điện thoại cho bà H để ra
phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng thì bà H nói với bà không thể tách
thửa được nên bà H có cam kết với bà L sẽ trả lại số tiền đặt cọc là 420.000.000
đồng và tiền phạt cọc 50% của số tiền cọc là 210.000.000 đồng, tổng cộng
630.000.000 đồng. Vào ngày 30-05-2022, tại quán cà phê ở xã L, thành phố Bà Rịa
bà Hương có gặp bà L và xin hẹn lại đến ngày 30-06-2022 sẽ hoàn trả số tiền cọc
và đền cọc cho bà L tổng cộng 630.000.000 đồng và bà H là người trực tiếp viết
nội dung trên vào mặt sau hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021. Khi bà H viết nội
dung cam kết trên có sự chứng kiến của ông Văn Bá P và ông Trần Đình T.
Tuy nhiên, đến ngày 30-06-2022 bà H vẫn không trả tiền đặt cọc và phạt cọc
như nội dung đã cam kết ngày 30-05-2022. Lúc đó, bà L gọi điện thoại cho bà H
nhưng bà H không nghe máy nên bà Long nói ông Trần Đình T gọi điện thoại cho
bà H. Sau khi ông T gọi điện thoại cho bà H thì bà H hẹn ngày 30-07-2022 sẽ trả
tiền nhưng đến ngày 30-07-2022 bà H vẫn không trả tiền nên bà L nói ông T tiếp
tục gọi cho bà H thì bà H tiếp tục hẹn đến ngày 30-08-2022 sẽ trả tiền. Tiếp tục
những lần sau ông T gọi cho bà H thì bà H hẹn đến ngày 26-09-2022 rồi lại tiếp tục
hẹn đến ngày 20-10-2022 nhưng đến ngày 20-10-2022 bà H vẫn không thực hiện
việc trả tiền cho bà L.
Đến ngày 13-01-2023, ông Nguyễn Thành N và bà Nguyễn Thị Thúy H có
gặp bà để xin ký biên bản thỏa thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc. Biên bản thỏa
thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc ngày 13-01-2023 do bà L là người lập và là
người viết các nội dung của biên bản tuy nhiên tại phần nội dung của biên bản thỏa
thuận có ghi“Tôi: Nguyễn Thành N cam kết theo văn bản thỏa thuận đúng hẹn sẽ
trả đầy đầy đủ số tiền trên” là do ông Nguyễn Thành N trực tiếp viết. Trong biên
bản thỏa thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc, ông N là người ký ở mục đại diện chủ
đất, bà ký ở mục đại diện bên mua và bà H ký ở mục đại diện bên bán.
Từ đó đến nay bà Nguyễn Thị Thúy H không thực hiện cam kết mà cố ý lẩn
tránh, thoái thác trách nhiệm, vi phạm hợp đồng đặt cọc. Mặc dù ông Nguyễn
Thành N là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ông N là
người viết trong nội dung biên bản thoản thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc với
nội dung“Tôi: Nguyễn Thành N cam kết theo văn bản thỏa thuận đúng hẹn sẽ trả
đầy đầy đủ số tiền trên” nhưng bà H là người trực tiếp ký hợp đồng đặt cọc với bà
và bà H là người nhận tiền đặt cọc của bà.
Vì vậy, bà không yêu cầu ông N trả tiền mà bà yêu cầu bà H có trách nhiệm
trả số tiền cọc và phạt cọc cho bà. Cụ thể, bà yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng đặt cọc
ngày 27-11-2021 giữa bà Nguyễn Thị Thúy H và bà. Buộc bà Nguyễn Thị T H
hoàn trả cho bà số tiền cọc 420.000.000 đồng và tiền phạt cọc 50% của số tiền cọc
210.000.000 đồng. Tổng cộng 630.000.000 đồng theo biên bản thỏa thuận hợp
đồng trả cọc và đền cọc ngày 13-01-2023.
4
Tại phiên tòa bà L xin thay đổi yêu cầu khởi kiện. Cụ thể, bà L yêu cầu Tòa
án hủy hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021 giữa bà Nguyễn Thị Thúy H và bà.
Buộc bà Nguyễn Thị Thúy H hoàn trả cho bà số tiền cọc 420.000.000 đồng và tiền
phạt cọc 50% của số tiền cọc 210.000.000 đồng. Tổng cộng 630.000.000 đồng theo
hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn
bản tố tụng nhưng không đến Tòa án làm việc, không có ý kiến gì đối với yêu cầu
của nguyên đơn.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành N mặc dù đã
được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án làm
việc, không cung cấp lời khai và chứng cứ.
Người làm chứng ông Văn Bá P mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các
văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án làm việc, không cung cấp lời khai.
Quá trình tố tụng tại Tòa án, người làm chứng ông Trần Đình T trình bày:
Khoảng giữa tháng 11-2021, ông Văn Bá P (là hàng xóm của ông) có một
người bạn đang có nhu cầu chuyển nhượng 45 lô đất sẽ phân lô trong vòng 06
tháng, các lô đất này tọa lạc tại xã B, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi
nghe ông P nói như vậy, ông gọi điện thoại cho chị ông là bà Trần Thị Kim Lnói
rằng ông P có một người bạn đang có nhu cầu chuyển nhượng 45 lô đất sẽ phân lô
trong vòng 06 tháng. Sau đó, bà L nói với ông là hẹn ông P đi xem đất. Mấy ngày
sau ông cùng ông Văn Bá P và bà L đi xem các lô đất trên và bà L quyết định mua
06 lô đất trồng cây lâu năm có diện tích 750m
2
trong đó 480m
2
đất ở, diện tích mỗi
lô đất 125m
2
thuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 114 tọa lạc tại xã B, huyện Đ, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu nên bà L nói với ông Văn Bá P hẹn với chủ đất mấy ngày sau
hai bên sẽ ký hợp đồng đặt cọc.
Vào ngày 27-11-2021, tại nhà mẹ ruột ông ở địa chỉ Tổ M thôn S, xã T, huyện
Đ bà Nguyễn Thị Thúy H đưa cho ông xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DC 406835 do Sở tài
nguyên và môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 01-12-2021 đứng tên ông
Nguyễn Thành N đồng thời bà H có đưa cho ông xem hợp đồng đặt cọc ngày 26-
11-2021 giữa bà H và ông Nguyễn Thành N nên mặc dù ông N là người đứng tên
trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng do bà H và ông N ký hợp đồng đặt
cọc về việc bà H mua 45 lô đất của ông N thuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 114
tọa lạc tại xã B, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vì vậy bà L mới tin tưởng nên bà
L và bà H lập hợp đồng đặt cọc về việc chuyển nhượng 06 lô đất trồng cây lâu năm
có diện tích 750m
2
trong đó 480m
2
đất ở, diện tích mỗi lô đất 125m
2
thuộc thửa đất
số 126, tờ bản đồ số 114 tọa lạc tại xã B, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với giá
4.020.000.000 đồng. Trước đó, chị ông là bà L đã chuyển khoản cho ông số tiền là
420.000.000 đồng để nhờ ông đến ngày ký hợp đồng đặt cọc là ngày 27-11-2021
ông sẽ trực tiếp chuyển khoản số tiền đặt cọc 420.000.000 đồng cho bà H. Đến
5
ngày 27-11-2021 sau khi bà L và bà H ký hợp đồng đặt cọc thì ông trực tiếp
chuyển khoản số tiền đặt cọc 420.000.000 đồng cho bà H thông qua số tài khoản
28223868 của bà H tại ngân hàng ACB với nội dung “chuyen tien coc 6lo da bac”.
Số tiền còn lại hai bên hẹn 06 (sáu) tháng kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc (ngày
27-11-2021) đến ngày 27-05-2022 sẽ hoàn tất thủ tục tách thửa và ra phòng công
chứng ký hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021 là do ông
Văn Bá P là người lập. Tại thời điểm bà L và bà H ký hợp đồng đặt cọc ông có
chứng kiến và biết rõ toàn bộ nội dung của hợp đồng đặt cọc nhưng ông không ký
vào hợp đồng đặt cọc.
Ngày 29-05-2022, ông gọi điện thoại cho bà H nói về việc trả cọc và đền cọc
cho bà L thì bà H hẹn đến ngày 30-05-2022 sẽ gặp nhau. Ngày 30-05-2022, tại
quán cà phê ở xã L, thành phố Bà Rịa bà H có gặp bà L và xin hẹn lại đến ngày 30-
06-2022 sẽ hoàn trả số tiền cọc và đền cọc cho bà L tổng cộng là 630.000.000 đồng
và bà H là người trực tiếp viết nội dung trên vào mặt sau hợp đồng đặt cọc ngày
27-11-2021. Khi bà H viết nội dung cam kết trên có sự chứng kiến của ông Văn Bá
P và ông.
Tuy nhiên, đến ngày 30-06-2022 bà H vẫn không trả tiền đặt cọc và phạt cọc
cho bà L như nội dung đã cam kết ngày 30-05-2022. Bà L gọi điện thoại cho bà H
nhưng bà H không nghe máy nên bà L nhờ ông gọi điện thoại cho bà H. Khi ông
gọi điện thoại bà H có nghe máy và hẹn ngày 30-07-2022 sẽ trả tiền cho bà L
nhưng đến ngày 30-07-2022 bà H vẫn không trả tiền nên bà L nhờ ông tiếp tục gọi
cho bà H thì bà H tiếp tục hẹn đến ngày 30-08-2022 sẽ trả tiền. Tiếp tục những lần
sau ông gọi cho bà H thì bà H hẹn đến ngày 26-09-2022 rồi lại tiếp tục hẹn đến
ngày 20-10-2022 nhưng đến ngày 20-10-2022 bà H vẫn không thực hiện việc trả
tiền cho bà L.
Đến ngày 13-01-2023, ông Nguyễn Thành N và bà Nguyễn Thị Thúy H gặp
bà L để xin ký biên bản thỏa thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc. Biên bản thỏa
thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc ngày 13-01-2023 do bà L là người lập.
Nay, bà L yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021 giữa bà
Nguyễn Thị Thúy H và bà Trần Thị Kim L. Buộc bà Nguyễn Thị Thúy H hoàn trả
cho bà Trần Thị Kim L tiền đặt cọc 420.000.000 đồng và tiền phạt cọc 50% của số
tiền cọc là 210.000.000 đồng.Tổng cộng 630.000.000 đồng theo biên bản thỏa
thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc ngày 13-01-2023, ông không có ý kiến gì, đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa ông Trần Đình T trình bày: Tại phiên tòa hôm nay, bà L xin thay
đổi yêu cầu khởi kiện. Cụ thể, bà L yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng đặt cọc ngày 27-
11-2021 giữa bà Nguyễn Thị Thúy H và bà L. Buộc bà Nguyễn Thị Thúy H hoàn
trả cho bà L số tiền cọc 420.000.000 đồng và tiền phạt cọc 50% của số tiền cọc
210.000.000 đồng. Tổng cộng 630.000.000 đồng theo hợp đồng đặt cọc ngày 27-
11-2021, ông không có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật.
6
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phát biểu
ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký
phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị Kim L khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng
đặt cọc ngày 27-11-2021 giữa bà Nguyễn Thị Thúy H và bà Trần Thị Kim L. Đồng
thời, yêu cầu bà Nguyễn Thị Thúy H trả số tiền cọc và tiền phạt cọc theo hợp đồng
đặt cọc ngày 27-11-2021. Do vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”, thuộc loại án Dân sự. Bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy
H đang cư trú tại thành phố Vũng Tàu nên căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án này thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu.
Tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Thành N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham
gia phiên tòa nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân
sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Xét tính hợp pháp của hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021:
Hợp đồng đặt cọc ký ngày 27-11-2021 giữa nguyên đơn và bị đơn được lập
thành văn bản, có chữ ký của hai bên và người làm chứng; Nội dung hợp đồng đặt
cọc không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Do vậy, hợp đồng này hoàn toàn hợp
pháp và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết.
[2.2]. Về việc giao nhận số tiền cọc:
Theo Mục III và IV của Hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021: Nguyên đơn và
bị đơn đồng ý ký kết hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng 06 lô đất theo sơ đồ từ
số 32 đến số 37, thuộc thửa đất số 126, tờ bản đồ số 114 tọa lạc tại xã B, huyện Đ,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với giá 4.020.000.000 đồng. Hai bên thỏa thuận số tiền đặt
cọc đợt 1 là 420.000.000 đồng. Số tiền còn lại 3.600.000.000 đồng bên B sẽ thanh
toán cho bên A vào ngày hai bên ký hợp đồng công chứng chuyển nhượng. Số tiền
đặt cọc 420.000.000 đồng trước đó bà L đã chuyển khoản cho em trai bà là ông
Trần Đình T nên ngày 27-11-2021 sau khi bà L và bà H ký hợp đồng đặt cọc xong
thì ông Trần Đình T là người trực tiếp chuyển khoản số tiền đặt cọc 420.000.000
đồng cho bà H thông qua số tài khoản 28223868 của ngân hàng ACB với nội dung
“chuyen tien coc 6lo da bac” (Bút lục số 33).
7
Như vậy, lời khai của nguyên đơn về việc ông Trần Đình T là em trai của
nguyên đơn đã chuyển khoản cho bị đơn số tiền đặt cọc 420.000.000 đồng là có
thật, việc chuyển khoản này phù hợp với tài liệu chứng cứ là sao kê tài khoản tiền
gửi khách hàng từ ngày 20-11-2021 đến ngày 20-12-2021 (Bút lục số 28 đến số
35) do nguyên đơn cung cấp và phù hợp với lời khai của người làm chứng ông
Trần Đình Tý.
[2.3]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy hợp đồng đặt cọc
ngày 27-11-2021 giữa nguyên đơn và bị đơn:
Theo mục IV của Hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021 thì bên A và bên B thỏa
thuận trong vòng 06 tháng kể từ ngày đặt cọc là ngày 27-11-2021 đến ngày 27-05-
2022 hai bên sẽ tới phòng công chứng ký kết hợp đồng chuyển nhượng. Tuy nhiên
đến ngày 27-05-2022, bà L có gọi điện thoại cho bà H để ra phòng công chứng ký
hợp đồng chuyển nhượng thì bà H nói với bà L không thể tách thửa được nên bà H
có cam kết với bà L sẽ trả lại số tiền đặt cọc 420.000.000 đồng và tiền phạt cọc
50% của số tiền cọc là 210.000.000 đồng, tổng cộng 630.000.000 đồng nên vào
ngày 30-05-2022, tại quán cà phê ở xã L, thành phố Bà Rịa, bà H có gặp bà L và
xin hẹn lại đến ngày 30-06-2022 sẽ hoàn trả số tiền cọc và đền cọc cho bà L tổng
cộng 630.000.000 đồng và bà H là người trực tiếp viết nội dung trên vào mặt sau
hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021. Khi bà H viết nội dung cam kết trên có sự
chứng kiến của ông Văn Bá P và ông Trần Đình T.
Tuy nhiên, đến ngày 30-06-2022 bà H vẫn không trả tiền đặt cọc và phạt cọc
như nội dung đã cam kết ngày 30-05-2022. Sau đó, bà H hẹn ngày 30-07-2022 sẽ
trả tiền nhưng đến ngày 30-07-2022 bà H vẫn không trả tiền. Bà H tiếp tục hẹn đến
ngày 30-08-2022 sẽ trả tiền. Tiếp tục những lần sau bà H hẹn đến ngày 26-09-2022
rồi lại tiếp tục hẹn đến ngày 20-10-2022 nhưng đến ngày 20-10-2022 bà H vẫn
không thực hiện việc trả tiền cho bà L.
Đến ngày 13-01-2023, ông Nguyễn Thành N và bà Nguyễn Thị Thúy H có
gặp bà L để xin ký biên bản thỏa thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc. Biên bản thỏa
thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc ngày 13-01-2023 do bà L là người lập và là
người viết các nội dung của biên bản tuy nhiên tại phần nội dung của biên bản thỏa
thuận có ghi “Tôi: Nguyễn Thành N cam kết theo văn bản thỏa thuận đúng hẹn sẽ
trả đầy đầy đủ số tiền trên” là do ông Nguyễn Thành N trực tiếp viết. Trong biên
bản thỏa thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc, ông N là người ký ở mục đại diện chủ
đất, bà L ký ở mục đại diện bên mua và bà H ký ở mục đại diện bên bán.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định việc nguyên đơn và bị đơn ký kết
hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021 là có thật, nguyên đơn đã thông qua em trai là
ông Trần Đình T chuyển khoản cho bị đơn số tiền đặt cọc 420.000.000 đồng và
hẹn trong vòng 06 tháng kể từ ngày ký hợp đồng đặt cọc là ngày 27-11-2021 đến
ngày 27-05-2022 vào ngày hai bên sẽ tới phòng công chứng ký kết hợp đồng
chuyển nhượng thì nguyên đơn sẽ thanh toán số tiền còn lại 3.600.000.000 đồng.
Tuy nhiên đến ngày 27-05-2022 hai bên không thực hiện được việc ký hợp đồng
8
chuyển nhượng với lý do bị đơn không thể tách thửa được. Như vậy, lỗi khiến cho
việc ký hợp đồng chuyển nhượng không thành là do lỗi của bị đơn. Vì vậy, yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021 giữa
nguyên đơn và bị đơn là hoàn toàn có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.4] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc trả số tiền cọc và phạt cọc:
Từ những phân tích ở mục [2.2] và [2.3] nêu trên có thể khẳng định việc
nguyên đơn đã thông qua em trai là ông Trần Đình T chuyển khoản cho bị đơn số
tiền đặt cọc 420.000.000 đồng là có thật và lỗi của việc hai bên không thực hiện
được việc ký hợp đồng chuyển nhượng là hoàn toàn do lỗi của bị đơn đồng thời tại
mặt sau của hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021 bị đơn là bà H đã trực tiếp viết cam
kết sẽ hoàn trả số tiền cọc và đền cọc là 630.000.000 đồng và việc cam kết này của
bà H có sự chứng kiến của ông Văn Bá P và ông Trần Đình T. Đồng thời, tại biên
bản thoả thuận hợp đồng trả cọc và đề cọc ngày 13-01-2023 do bà L là người lập
và là người viết các nội dung của biên bản tuy nhiên tại phần nội dung của biên
bản thỏa thuận có ghi “Tôi: Nguyễn Thành N cam kết theo văn bản thỏa thuận
đúng hẹn sẽ trả đầy đủ số tiền trên” là do ông Nguyễn Thành Nhơn trực tiếp viết.
Trong biên bản thỏa thuận hợp đồng trả cọc và đền cọc, ông N là người ký ở mục
đại diện chủ đất, bà L ký ở mục đại diện bên mua và bà H ký ở mục đại diện bên
bán. Mặc dù, ông Nguyễn Thành N là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và ông N là người viết trong nội dung biên bản thoản thuận hợp đồng
trả cọc và đền cọc với nội dung“Tôi: Nguyễn Thành N cam kết theo văn bản thỏa
thuận đúng hẹn sẽ trả đầy đầy đủ số tiền trên” nhưng bà H là người trực tiếp ký
hợp đồng đặt cọc với bà L và bà H là người nhận tiền đặt cọc của bà L. Đồng thời
trong suốt quá trình tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành N không đến Tòa án làm việc theo giấy
triệu tập của Tòa án, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà Long
cũng như không cung cấp bất cứ tài liệu chứng cứ gì và người làm chứng ông Văn
Bá P mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án làm việc,
không cung cấp lời khai cho Tòa án. Vì vậy, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do
nguyên đơn cung cấp là hợp đồng đặt cọc 27-11-2021, biên bản thỏa thuận hợp
đồng trả cọc và đền cọc ngày 13-01-2023, sao kê tài khoản tiền gửi khách hàng từ
ngày 20-11-2021 đến ngày 20-12-2021 và lời khai của nguyên đơn cũng như người
làm chứng ông Trần Đình T có thể khẳng định việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả
số tiền số tiền đặt cọc 420.000.000 đồng và tiền phạt cọc 50% của số tiền cọc là
210.000.000 đồng, tổng cộng 630.000.000 đồng theo hợp đồng đặt cọc ngày 27-
11-2021 là hoàn toàn có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.5] Từ những căn cứ và phân tích như trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Kim L về việc hủy hợp đồng đặt cọc
ngày 27-11-2021 giữa bà Nguyễn Thị Thúy H và bà Trần Thị Kim L. Buộc bà
Nguyễn Thị Thúy H hoàn trả cho bà Trần Thị Kim L số tiền cọc 420.000.000 đồng
9
và tiền phạt cọc 50 % của số tiền cọc 210.000.000 đồng. Tổng cộng 630.000.000
đồng theo hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021.
[3]. Án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho
nguyên đơn. Hoàn trả cho nguyên đơn toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố
tụng dân sự; Điều 328 và Điều 427 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Kim L về việc
“Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thúy H.
1. Buộc bà Nguyễn Thị Thúy H hoàn trả cho bà Trần Thị Kim L số tiền cọc
420.000.000 đồng (bốn trăm hai mươi triệu đồng) và tiền phạt cọc 210.000.000
đồng (hai trăm mười triệu đồng). Tổng cộng 630.000.000 đồng (sáu trăm ba mươi
triệu đồng) theo hợp đồng đặt cọc ngày 27-11-2021.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Nguyễn Thị Thúy H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm 29.200.000
đồng (hai mươi chín triệu hai trăm ngàn đồng)
- Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 14.600.000 đồng (mười bốn
triệu sáu trăm ngàn đồng) cho bà Trần Thị Kim L theo biên lai thu tiền tạm ứng án
phí số 0000530 ngày 18-05-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng
Tàu.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn
kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai, để
yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui
định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
10
thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND Tp. Vũng Tàu;
- TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu;
- Chi cục THADS Tp. Vũng Tàu;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐNG XT XỬ SƠ THM
THM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TÒA
Dương Thị Hương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm