Bản án số 20/2025/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 20/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 20/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 20/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 20/2025/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 20/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 538/2024/TLPT-DS ngày 12/12/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 20/2025/DS-PT
Ngày: 13/01/2025
V/v: Tranh chấp hợp
đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
- Thư ký phiên tòa:
Ông Đinh Như Lâm
Ông Trương Chí Anh
Ông Cao Anh Tuấn
Bà Nguyễn Thùy Trang, Thư ký
Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội: Bà Nguyễn Bách
Thiện Linh - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 10, 13 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố
Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 538/2024/TLPT-DS
ngày 12/12/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 98/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 586/2024/QĐ-PT
ngà 24/12/2024; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phùng Thị D; sinh năm: 1963; địa chỉ: Số nhà 364,
đường Quảng Oai (thôn Hưng Đạo), thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội: có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Anh Trần Đình Phương D; sinh năm: 1986; địa chỉ: Xóm
Trại, thôn Vĩnh Phệ, xã Chu Minh, huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội; có mặt tại
phiên tòa.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Trần Đình Năm; sinh năm: 1960; có đơn đề nghị xét xử vắng
mặt.
3.2. Bà Nguyễn Thị Phương Oanh; sinh năm: 1963: có mặt tại phiên tòa.
3.3. Chị Ngô Thị Vân; sinh năm: 1986; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
3.4. Anh Trần Đình Huy Du; sinh năm: 1982; có mặt tại phiên tòa.
2
Cùng địa chỉ: Xóm Trại, thôn Vĩnh Phệ, xã Chu Minh, huyện Ba Vì,
Thành phố Hà Nội
3. Người kháng cáo, kháng nghị: Do có kháng cáo của anh Trần Đình
Phương D là bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Đình
Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh, chị Ngô Thị Vân kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm vụ án có nội dung như sau:
* Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, các lời khai trong quá trình tố tụng và
tại phiên tòa, nguyên đơn bà Phùng Thị D trình bày: Tôi có biết anh Trần Đình
Phương D vì anh Duy là người cùng làng quê gốc của tôi ở xã Chu Minh.
Ngày 12/8/2015, anh Duy bán cho tôi xe ô tô BKS 29A- 969.25 với giá
500.000.000đ. Hai bên có ký nhận giấy bán xe do anh Duy viết. Tôi đã nhận xe
và giấy tờ đăng ký xe. Sau đó anh Duy đặt vấn đề thuê lại xe để sử dụng và tôi
đồng ý, hai bên thỏa thuận giá thuê xe là 13.000.000đ/tháng. Việc thỏa thuận
thuê xe bằng lời nói, không lập văn bản giấy tờ gì. Anh Duy trả tiền thuê xe từ
tháng 8/2015 đến hết tháng 4/2016 thì không trả tiền thuê xe nữa. Tôi đi tìm
anh Duy đòi xe thì ngày 09/5/2016, anh Duy hẹn tôi hai tháng sau tức ngày
09/7/2016 sẽ trả lại xe, nếu không trả xe thì hoàn trả tiền giá trị xe là
500.000.000đ. Ngoài ra, anh Duy còn trao đổi lời nói với tôi việc con tôi là
Nguyễn Đức Tùng vay số tiền 400 triệu đồng, đề nghị tôi đối trừ nợ cho con
tôi. Sau đó anh Duy không trả lại xe ô tô cho tôi theo thỏa thuận 2 tháng mà bỏ
trốn khỏi địa phương tôi không liên lạc được.
Ngoài ra, anh Duy còn nhiều lần vay tiền của tôi để làm ăn kinh doanh xưởng
may, hai bên thỏa thuận bằng lời nói lãi suất vay là 2%/tháng, mỗi lần anh Duy
nhận tiền vay đều viết và ký giấy vay tiền, nhưng trên giấy không thể hiện
thông tin lãi suất cho vay. Các lần vay cụ thể như sau:
- Ngày 26/10/2015, tôi cho anh Duy vay số tiền 200.000.000 đồng, thời
hạn vay 4 tháng từ ngày 26/10/2015 đến 26/01/2016.
- Ngày 13/12/2015, tôi cho anh Duy vay hai lần tiền, lần 1 số tiền
350.000.000 đồng, thời hạn vay hai tháng từ 13/12/2015 đến ngày 13/02/2016,
lần 2 số tiền 40.000.000đ thời hạn vay 01 tháng đến ngày 13/01/2016
- Ngày 21/12/2015, tôi cho anh Duy vay số tiền 300.000.000đ, thời hạn
vay 2 tháng từ 21/12/2015 đén ngày 21/02/2016
- Ngày 26/12/2015 tôi cho anh Duy vay số tiền 200.000.000đ, thời hạn
vay hai tháng từ ngày 26/12/2015 đến 26/02/2016
- Ngày 20/01/2016, tôi cho anh Duy vay số tiền 200.000.000đ, thời hạn
vay 4 tháng từ ngày 20/01/2016 đến 20/5/2016
- Ngày 06/02/2016 tôi cho anh Duy vay số tiền 200.000.000đ, thời hạn
vay 3 tháng từ 06/02/2016 đến 06/5/2016.
Tổng số tiền mặt cho anh Duy vay là 1.490.000.000đ. Trong các giấy
vay tiền, có giấy anh Duy trả tiền lãi theo tháng, khi trả lãi hai bên không lập
giấy tờ gì, có giấy anh Duy không lãi mà khất nợ khi nào trả tiền gốc thì trả
tiền lãi một thể. Khi đến hạn trả nợ gốc với mỗi giấy vay tôi đều hỏi tiền gốc
3
nhưng anh Duy trình bày lý do cần tiền nhập từng đơn hàng xưởng may nên
chưa trả được, hẹn khi xuất hàng thì trả tiền một thể.
Ngày 04/3/2016, bà Oanh là mẹ đẻ anh Duy trả cho tôi số tiền
150.000.000đ. Tôi viết giấy nhận tiền với bà Oanh.
Ngày 07/3/2016, bà Oanh là mẹ đẻ anh Duy tiếp tục trả cho tôi số tiền
50.000.000đ Tôi viết giấy nhận tiền với bà Oanh.
Ngày 18/3/2016, bà Oanh mẹ đẻ anh Duy trả cho tôi số tiền
100.000.000đ. Tôi viết giấy nhận tiền với bà Oanh.
Tổng số tiền cho vay tôi đã nhận được bà Oanh mẹ đẻ anh Duy thanh
toán là 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng) tôi trừ vào tiền vay gốc. Tiền vay
gốc anh Duy còn nợ lại là 1.190.000.000đ.
Từ giữa năm 2016, tôi không liên lạc được với anh Duy nên đã làm đơn
tố giác tội phạm đến Công an huyện Ba Vì, nội dung tố giác 800 triệu tiền vay
(do tôi đối trừ 390.000.000 đồng cho khoản vay của con tôi với anh Duy như
anh Duy nói ngày 09/5/2016) và xe ô tô 500.000.000đ. Cơ quan công an đã thụ
lý đơn nhưng không giải quyết được do anh Duy bỏ trốn.
Ngày 18/4/2018, anh Duy cùng anh trai là Trần Đình Huy Du đến nhà
tôi, hai bên có lập biên bản làm việc do tôi viết, nội dung xác định anh Duy
còn nợ tôi giá trị xe ô tô là 500.000.000đ và tiền vay 800.000.000đ. Thực tế
vào thời điểm ngày 18/4/2018, anh Duy vẫn nợ tiền vay 1.190.000.000đ nhưng
tôi viết tiền vay 800.000.000đ tiền mặt theo nội dung tôi đã trình báo tại Cơ
quan Công an. Cùng trong ngày 18/4/2018, anh Duy trả cho tôi số tiền mặt
200.000.000đ. Tuy nhiên trong nội dung biên bản làm việc tôi viết anh Duy
cùng anh trai là Du thanh toán 700.000.000đ còn nợ lại 600.000.000đ là vì khi
đó tôi đang cần tiền để điều trị bệnh (tôi nộp các tài liệu bệnh viện vào thời
điểm đó của tôi chứng minh), anh Duy nói nếu không ghi là nhận
700.000.000đ thì anh Duy cũng không giao 200.000.000đ, như vậy tôi sẽ
không có tiền chữa bệnh nên tôi đã viết “Hôm nay Duy cùng anh trai là Du đã
thanh toán, khắc phục bằng 700.000.000đ còn lại 600.000.000đ”, thực tế tiền
vay, tiền giá trị xe mà không đối trừ tiền vay của con tôi theo lời anh Duy nói
thì anh Duy còn nợ tôi tổng số tiền 1.490.000.000đ. Hai bên không có giấy tờ
đối chiếu.
Ngày 30/5/2018, tôi ký nhận anh Duy trả cho tôi số tiền 50.000.000đ;
Ngày 27/6/2018, tôi ký nhận anh Duy trả cho tôi số tiền 30.000.000đ nhưng
thực tế thì anh Duy chỉ trả cho tôi được số tiền 40.000.000đ tiền mặt. Số tiền
40.000.000đ còn lại anh Duy không trả được nhưng nhờ tôi viết biên nhận 2
lần đủ 80.000.000đ để về trình bày với mẹ. Số tiền 40 triệu không trả đủ anh
Duy viết giấy vay tiền đề ngày 27/6/2018 hẹn trả nợ vào ngày 02/7/2018.
Từ ngày 27/6/2018 đến nay, anh Duy không trả thêm cho tôi được
khoản tiền nào. Tôi có đến nhà anh Duy đòi tiền nhiều lần nhưng anh Duy đều
nói không có. Nay tôi thấy quyền lợi bị xâm phạm nên khởi kiện đề nghị Tòa
án giải quyết buộc anh Duy trả cho tôi số tiền còn nợ là 1.450.000.000đ cùng
tiền lãi phát sinh Từ ngày 19/3/2016 đến ngày 18/4/2018 đối với số tiền gốc
1.190.000.000đ, lãi suất 2%/tháng x 25 tháng = 595.000.000đ.
Từ ngày 19/4/2018 đến nay đối với số nợ gốc 950.000.000đ, lãi suất
2%/tháng
4
Từ ngày 09/5/2016 đến nay đối với số nợ gốc (giá trị xe ô tô biển số
29A-969.25) , lãi suất 2%/tháng.
* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn Trần Đình Phương D trình
bày: Tôi xác nhận tôi có quan hệ quen biết bà Phùng Thị D vì là người gốc
Chu Minh như bà Dần trình bày là đúng, trong năm 2015, tôi có nhiều lần vay
tiền bà Dần, các lần vay và số tiền vay tiền trả tôi đều không nhớ. Ngày
12/8/2015, tôi và bà Dần có thỏa thuận tôi viết giấy bán xe ô tô biển kiểm soát
29A- 969.25 thuộc sở hữu của tôi với giá trị 500.000.000đ cho bà Phùng Thị
D, mục đích viết giấy bán xe để bà Dần có niềm tin cho tôi vay tiền. Sau đó tôi
nhiều lần vay tiền của bà Dần, mỗi lần vay tôi đều ký nhận, hai bên có thỏa
thuận bằng lời nói tiền lãi cho vay theo ngày với mức 5.000đ/1 triệu tiền vay/1
ngày vay. Tôi được xem các giấy tờ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy
biên nhận vay tiền đề ngày 26/10/2015; Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm
giấy biên nhận vay tiền đề ngày 13/12/2015 (số tiền 350.000.000đ); Hợp đồng
thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày 13/12/2015 (số tiền
40.000.000đ); Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề
ngày 21/12/2015 (Số tiền 300.000.000đ); Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm
giấy biên nhận vay tiền đề ngày 26/12/2015 (số tiền 200.000.000đ); Hợp đồng
thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày 20/01/2016 (số tiền
200.000.000đ); Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề
ngày 06/02/2016 (số tiền 200.000.000đ); Giấy vay tiền đề ngày 27/6/2018;
Giấy bán xe đề ngày 12/8/2015; Giấy cam kết đề ngày 09/5/2016; Chữ ký viết
tên Trần Đình Phương D trong biên bản làm việc ngày 18/4/2018 do bà Dần
cung cấp khi khởi kiện, tôi xác định chữ ký, chữ viết người vay là chữ ký, chữ
viết của tôi. Do tôi không có khả năng trả nợ tiền vay từ giữa năm 2016 đến
đầu năm 2018 tôi đi làm xa nhà, không có mặt ở địa phương nên gia đình tôi
nhiều người thay tôi trả tiền cho bà Dần. Ngày 18/4/2018, tôi cùng anh trai tôi
đến nhà bà Dần để trả tiền và thống nhất nợ với nhau trên cơ sở giấy tờ hai bên
đưa ra vào thời điểm đó. Tôi trả thêm cho bà Dần số tiền 700.000.000đ và bà
Dần tự tay viết và ký nhận biên bản làm việc ngày 18/4/2018 và được hai bên
cùng ký xác nhận. Theo nội dung biên bản làm việc ngày 18/4/2018 tôi còn nợ
bà Dần là 600.000.000đ. Sau đó tôi trả thêm cho bà Dần được số tiền
50.000.000đ vào ngày 30/5/2018 và 30.000.000đ vào ngày 27/6/2018. Cùng
ngày 27/6/2018, tôi vay lại bà Dần số tiền 40.000.000đ trong thời hạn vài
ngày, hẹn đến 02/7/2018 sẽ trả 40.000.000đ. Tổng số tiền tôi nợ bà Dần tính
đến ngày 02/7/2018 là 560.000.000đ. Trong khoảng từ ngày 20/7/2018 đến
30/7/2018, tôi có đến nhà bà Dần trả số tiền 50.000.000đ nhưng bà Dần không
nhận mà đòi tôi phải trả hết số tiền còn nợ làm 1 lần. Số nợ mỗi lần bà Dần đòi
lại khác nhau, do vậy hai bên không có thỏa thuận trả nợ, khất nợ gì thêm. Nay
bà Dần khởi kiện đòi tôi số tiền vay gốc trong đó có cả tiền giá trị xe ô tô, tổng
là 1.450.000.000đ tôi không nhất trí trả vì không đúng thực tế thỏa thuận và
chốt nợ hai bên vào ngày 18/4/2018. Tôi chỉ đồng ý trả bà Dần số tiền tôi còn
nợ là 560.000.000đ. Tôi cũng không nhất trí tiền lãi theo yêu cầu của bà Dần,
đề nghị Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện bác bỏ yêu cầu tiền lãi của bà Dần.
* Tại bản tự khai ngày 26/6/2024 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan bà Nguyễn Thị Phương Oanh, ông Trần Đình Năm trình bày: Ông bà là
5
bố mẹ đẻ của Trần Đình Phương D. Trần Đình Phương D được bố mẹ cho ở
riêng từ khi lấy vợ năm 2008 đến nay, vì vậy việc làm ăn của Duy, ông bà
không can thiệp. Năm 2016, Duy có mượn đất vườn của bố mẹ để đầu tư làm
xưởng may công nghiệp nhưng khi xưởng may đi vào hoạt động chưa lâu thì
phải đóng cửa vì không có đầu ra và không lấy được công nhân. Sau đó ông bà
có nghe nói bà Phùng Thị D đòi nợ Duy tiền vay làm xưởng may. Ông bà hỏi
Duy, thì Duy có công nhận là có vay của bà Dần để đầu tư, còn nội dung vay
như thế nào thì ông bà đều không biết. Với vai trò làm cha mẹ, ông bà có hỗ
trợ nhắc nhở Duy trả nợ cho bà Dần. Ông bà đã cho Duy ở riêng, tự lập nên
việc Duy vay nợ thì Duy tự trả, ông bà không có nghĩa vụ phải trả nợ cho Duy.
Ông bà không đồng ý tham gia tố tụng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan trong vụ án.
* Tại bản tự khai ngày 26/6/2024 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan chị Ngô Thị Vân trình bày: Tôi là vợ của anh Trần Đình Phương D, tôi có
biết đầu năm 2016 anh Duy có mở xưởng may nhưng hai vợ chồng không làm
cùng vì tôi là giáo viên mầm non đi suốt ngày. Anh Duy mở xưởng may, đầu
tư làm xưởng, máy móc xây dựng nhờ trên đất vườn của bố mẹ chồng tôi
nhưng đầu tư chưa được bao lâu thì bị thua lỗ phá sản do không có công nhân.
Việc mở xưởng may có thu nhâp được hay không tôi cũng không biết. Vì anh
Duy phải trả nợ tiền đầu tư nên cũng không đưa tiền cho tôi nuôi con. Tôi có
nghe nói việc anh Duy vay tiền của bà Dần để làm xưởng may nhưng tôi
không cùng anh Duy vay tiền. Sau khi anh Duy thua lỗ, bà Dần đến đòi nợ thì
tôi với tư cách làm vợ cũng có cố gắng cùng anh Duy trả nợ, còn tôi không có
quyền lợi hay nghĩa vụ gì liên quan đến việc anh Duy vay nợ bà Dần. Hiện tại
tôi không có tài sản hay nghề phụ gì ngoài tiền lương giáo viên mầm non, tôi
lại đang nuôi hai con nhở nên tôi không có khả năng giúp anh Duy trả nợ. Tôi
không liên quan đến việc vay nợ nên không có nghĩa vụ phải trả nợ.
* Tại bản tự khai ngày 07/7/2024 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan anh Trần Đình Huy Du trình bày:
Tôi không tham gia vào bất cứ lần vay mượn nào giữa anh Duy và bà
Dần, tôi không biết số tiền anh Duy vay của bà Dần là bao nhiêu, tôi chưa bao
giờ hứa hẹn trả nợ hay nhận trả nợ giúp anh Duy. Lời khai của bà Phùng Thị D
cáo buộc anh em tôi ép bà dần ghi biên bản ngày 18/4/2018 theo ý của anh em
tôi là không đúng. Trong biên bản làm việc ngày 18/4/2018 tôi có mặt với tư
cách là người làm chứng. Ngoài tôi ra thì gia đình bà Dần khi đó còn có con
gái và con dể bà Dần cùng tham gia vào việc đếm tiền, lúc ký và điểm chỉ con
gái bà Dần là người đi lấy mực để chúng tôi điểm chỉ, còn con dể bà Dần là
người mang biên bản đi photo. Lúc đó bà Dần hoàn toàn bình thường và tất cả
chúng tôi làm việc vui vẻ. Nó hoàn toàn trái ngược với cáo buộc của bà Dần là
bà ở nhà một mình, trong trạng thái không tỉnh táo, ốm đau, mệt mỏi. Tôi
khẳng định tôi không liên quan đến các khoản vay của anh Duy với bà Dần và
tôi không đồng ý tham gia tố tụng là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
trong vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 98/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã quyết định:
6
* Buộc anh Trần Đình Phương D, chị Ngô Thị Vân, ông Trần Đình
Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh phải trả cho bà Phùng Thị D số tiền gốc
950.000.000đ; Tiền lãi chậm trả tính từ ngày 28/6/2018 đến ngày xét xử
20/9/2024 là 599.819.444đ.Tổng tiền gốc, lãi anh Trần Đình Phương D, chị
Ngô Thị Vân, ông Trần Đình Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh phải trả cho
bà Phùng Thị D là 950.000.000đ + 599.819.444đ= 1.549.819.444đ ( Một tỷ,
năm trăm bốn mươi chín triệu, tám trăm mười chín ngàn, bốn trăm bốn mươi
bốn đồng ).
Kể từ ngày bà Phùng Thị D có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải
thi hành án không trả tiền hoặc trả tiền không đầy đủ thì người phải thi hành án
còn phải trả thêm tiền lãi tính trên số tiền gốc chưa thi hành án theo lãi suất
quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời
gian chậm thi hành án.
Không chấp nhận yêu cầu của bà Phùng Thị D về tranh chấp tài sản vay
là giá trị xe ô tô Mazda 3S BKS 29A 969.25 trị giá 500.000.000đ và tiền lãi
phát sinh.
Không chấp nhận các yêu cầu về tính lãi khác của bà Phùng Thị D.Kể từ
ngày có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền nêu trên
mà bên phải thi hành án chưa thi hành thì hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án, nếu có thỏa thuận về lãi
chậm trả thì tính theo thỏa thuận đó nhưng không được vượt quá mức lãi suất
quy định tại khoản 1, nếu không có thỏa thuận thì tính theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, tương ứng với thời gian chưa thi
hành án.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương
sự.
Không nhất trí với quyết định của bản án sơ thẩm:
Ngày 03/10/2024, nguyên đơn bà Phùng Thị D làm đơn kháng cáo đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử, xem xét sửa bản án sơ thẩm, tính lại số tiền
gốc và số tiền lãi mà bị đơn đã vay bà Dần.
Ngày 03/10/2024, bị đơn anh Trần Đình Phương D kháng cáo đề nghị
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại bản án, tuyên hủy bỏ hoặc sửa
đổi một phần bản án sơ thẩm liên quan đến quyền lợi của anh Duy.
Ngày 10/10/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần
Đình Năm và bà Nguyễn Thị Phương Oanh kháng cáo, đề nghị Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội xem xét và xử lại bản án, tuyên hủy bỏ phần quyết định
liên quan đến quyền lợi của ông Năm và bà Oanh.
Ngày 10/10/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Thị
Vân kháng cáo, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét và xử lại
bản án, tuyên hủy bỏ phần quyết định liên quan đến quyền lợi của chị Vân.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đương sự không rút đơn khởi kiện, đơn kháng cáo, không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án, không xuất trình chứng cứ mới.
Nguyên đơn bà Phùng Thị D trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
tính lại số tiền gốc và số tiền lãi mà anh Duy nợ bà cụ thể:
7
Hoàn trả cho bà giá trị chiếc xe ô tô các bên đã giao dịch mua bán với số
tiền 500.000.000 đồng; tiền thuê lại xe ô tô là 54.000.000 đồng; số tiền gốc còn
lại là 1.190.000.000 đồng; số tiền lãi là 625.399.000 đồng.
Bị đơn anh Trần Đình Phương D trình bày: Căn cứ vào biên bản thỏa
thuận ngày 18/4/2018, số tiền gốc anh còn nợ bà Dần là 560.000.000 đồng; anh
Duy đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm tính lại số tiền gốc và lãi theo số
tiền anh còn nợ bà Dần là 560.000.000 đồng; việc vay mượn tiền chỉ có anh
với bà Dần nên bố mẹ đẻ anh là ông Trần Đình Năm, bà Nguyễn Thị Phương
Oanh; vợ anh là chị Ngô Thị Vân không có liên quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Oanh trình bày: Bà và ông
Năm chồng bà vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của hai người, đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét bà và ông Năm không liên quan đến số tiền nợ của anh
Duy. Với trách nhiệm là bố mẹ của anh Duy, bà sẽ nhắc nhở anh Duy có trách
nhiệm trả lại tiền vay cho bà Dần chứ bà và ông Năm không phải trả nợ thay
cho anh Duy. Bà Oanh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa án sơ thẩm ở nội
dung này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trần Đình Huy Du trình
bày: Anh không liên quan đến việc vay tiền của anh Duy với bà Dần. Anh chỉ
là người đi cùng với anh Duy đến gặp bà Dần ngày 18/4/2018 và ký vào biên
bản với tư cách người làm chứng.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử và các đương sự tuân thủ đầy đủ các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ kiện, đại diện Viện kiểm sát
nhân dân Thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
98/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố
Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ
án trên cơ sở thẩm tra, xem xét tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận
trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện lời khai của các đương sự, ý kiến của đại
diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy:
[1]. Về tố tụng:
Về quan hệ pháp luật: Theo nội dung đơn khởi kiện và quá trình giải
quyết vụ án, nguyên đơn bà Phùng Thị D khởi kiện yêu cầu anh Trần Đình
Phương D phải có nghĩa vụ trả lại số tiền đã vay là 1.490.000.000 đồng nên
Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp là “Tranh chấp hợp đồng vay
tài sản” theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ.
Về thẩm quyền: Tại thời điểm thụ lý, bị đơn anh Trần Đình Phương D
đang cư trú tại xóm Trại, thôn Vĩnh Phệ, xã Chu Minh, huyện Ba Vì, Thành
phố Hà Nội nên Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Khoản 3 Điều 26; Điểm a
Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác
8
định thẩm giải quyết tranh chấp trên thuộc Tòa án nhân dân huyện Ba Vì,
Thành phố Hà Nội là đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông
Trần Đình Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh, chị Ngô Thị Vân có đơn xin
xét xử vắng mặt tại phiên tòa; Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ các quy định tại Điều
227, Điều 228 xét xử vắng mặt những đương sự này là có căn cứ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông
Trần Đình Năm, chị Ngô Thị Vân có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa;
Hội đồng xét xử căn cứ các quy định tại Điều 227, Điều 228 xét xử vắng mặt
những đương sự này.
[2]. Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Phùng Thị D; bị
đơn anh Trần Đình Phương D; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần Đình Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh, chị Ngô Thị Vân nộp trong hạn
luật định, đã nộp dự phí kháng cáo, về hình thức là hợp lệ.
[3]. Về nội dung:
3.1. Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Phùng Thị D:
* Nguyên đơn bà Phùng Thị D có yêu cầu khởi kiện đối với anh Trần
Đình Phương D; yêu cầu anh Duy phải trả lại bà số tiền vay tổng cộng là
1.490.000.000 đồng và tiền lãi và số tiền 500.000.000 đồng trị giá chiếc xe ô tô
Mazda 3S biển kiểm soát 29A 969.25. Hội đồng xét xử xét thấy, đối với yêu
cầu này của bà Dần Tòa án cấp sơ thẩm có nhận định:
“…1.Đối với khoản vay thứ nhất lời khai và yêu cầu của nguyên đơn đối
với khoản vay bằng tài sản giá trị xe ô tô Mazda 3S biển kiểm soát 29A 969.25
trị giá 500.000.000đ theo nội dung thỏa thuận của hai bên tại Giấy bán xe đề
ngày 12/8/2015; Giấy cam kết đề ngày 09/5/2016. Nguyên đơn bà Phùng Thị
D khẳng định có việc anh Trần Đình Phương D bán xe ô tô Mazda 3S biển
kiểm soát 29A 969.25 trị giá 500.000.000đ của anh Duy cho bà Dần, việc giao
nhận tiền, giấy tờ xe đều thể hiện trên nội dung giấy bán xe do anh Duy viết
và ký nhận. Sau đó anh Duy thuê lại xe để đi lại với giá thuê mỗi tháng là
13.000.000đ, đồng thời mượn lại giấy tờ gốc của xe để thuận tiện trong di
chuyển. Việc cho thuê xe theo giấy cam kết anh Duy viết ngày 09/5/2016. Sau
đó mẹ anh Duy đã bán xe cho người khác. Do vậy, anh Duy phải trả cho bà giá
trị xe là 500.000.000đ và tiền lãi theo lãi suất 2%/tháng tính từ ngày anh Duy
cam kết 09/5/2016 đến ngày 09/3/2024 là 94 tháng 10 ngày là 943.300.000đ.
Bị đơn anh Trần Đình Phương D xác nhận có viết nội dung hai giấy tờ trên
nhưng xuất phát từ nguyên nhân: Trước tháng 8/2015, anh Duy đã vay tiền
của bà Dần, để đảm bảo việc trả nợ, theo yêu cầu của bà Dần anh đã viết Giấy
bán xe đề ngày 12/8/2015 để làm tin về trách nhiệm trả nợ. Các khoản nợ trước
khi viết giấy bán xe anh đã trả hết, nhưng do anh vẫn có nhu cầu vay tiền của
bà Dần nên vẫn giữ lại giấy bán xe để làm tin. Thực tế, không có việc anh bán
xe và nhận số tiền 500.000.000đ giá trị xe do bà Dần giao cho. Do không có
việc mua bán nên không bên nào thực hiện quyền, nghĩa vụ đi đăng ký lại
quyền sở hữu trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau đó anh Duy đã bán
xe cho người khác, việc bán xe của anh được thực hiện đúng trình tự pháp luật.
Tại biên bản làm việc ngày 18/4/2018, liên quan đến các khoản vay tiền mặt,
mặc dù anh Duy trả cho bà Dần số tiền 200.000.000đ nhưng bà Dần viết nhận
9
là 700.000.000đ và viết các nội dung liên quan đến xe ô tô là 500.000.000đ. Bà
Dần lý giải với anh bà viết 700.000.000đ là để khớp với lời khai yêu cầu của
bà Dần tại cơ quan công an. Biên bản làm việc do bà Dần tự tay viết tại nhà bà
Dần, đây là cơ sở để khẳng định không có việc anh nhận giá trị xe ô tô
500.000.000đ của bà Dần nên không chấp nhận trả bà Dần giá trị xe
500.000.000đ và tiền lãi theo yêu cầu của bà Dần.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Lời khai của các bên đương sự về giao dịch
bán xe ô tô Mazda 3S BKS 29A 969.25 có nội dung khác nhau. Bà Phùng Thị
D khẳng định có việc mua bán xe và bà đã trả cho anh Trần Đình Phương D số
tiền là 500.000.000đ. Anh Duy xác nhận nội dung giấy bán xe anh viết ngày
12/8/2015 chỉ là biện pháp đảm bảo cho việc anh vay tiền của bà Phùng Thị D.
Xét lời khai của bà Dần, anh Duy có trong hồ sơ vụ án, tại bút lục số 54 khi vụ
việc giải quyết tại Cơ quan Công an huyện Ba Vì, bà Dần thừa nhận trước khi
anh Duy viết giấy bán xe cho bà vào tháng 8/2015 thì bà Dần đã cho anh Duy
vay tiền, các lần vay trước đó anh Duy đã trả đầy đủ gốc lãi. Xét nội dung giấy
bán xe ngày 12/8/2015 thể hiện người bán là Trần Đình Phương D, bán tài sản
mua bán là xe ô tô Mazda 3S BKS 29A 969.25 do Duy đứng tên đăng ký cho
bà Phùng Thị D với giá là 500.000.000đ. Giấy cam kết ngày 09/5/2016 do Duy
viết khẳng định nếu không trả lại xe thì hoàn trả cho bà Dần số tiền
500.000.000đ. Cả hai tài liệu trên không đủ cơ sở để khẳng định giữa anh Trần
Đình Phương D và bà Phùng Thị D có giao dịch mua bán xe ô tô theo quy định
tại các Điều 121, Điều 122, Điều 124, Điều 125, Điều 410, Điều 428, Điều 429
BLDS năm 2005. Ngày 28/7/2016, bà Phùng Thị D có đơn đề nghị Công an
huyện Ba Vì khởi tố vụ án đối với anh Trần Đình Phương D về hành vi “Lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” liên quan đến xe ô tô Mazda 3S BKS 29A
969.25. Ngày 18/4/2018 giữa bà Dần, anh Duy có biên bản làm việc do bà Dần
viết tay, nội dung có thỏa thuận liên quan đến số tiền giá trị xe ô tô là
500.000.000đ. Quá trình giải quyết vụ án, bà Dần nộp tài liệu để chứng minh
ngày 18/4/2018 anh Duy chỉ trả bà Dần số tiền mặt 200.000.000đ nhưng ép
buộc bà trong hoàn cảnh bí bách phải ghi nhận là 700.000.000đ, do bà cần tiền
đi chữa bệnh nên buộc phải ghi nhận 700.000.000đ để lấy được số tiền bà cầm
là 200.000.000đ. Tại phiên tòa anh Duy xác nhận ngày 18/4/2018 anh trả cho
bà Dần số tiền vay 200.000.000 đồng nhưng theo thỏa thuận vì không có việc
mua bán xe, để khớp giấy tờ mà bà Dần đã nộp ở cơ quan công an nên bà Dần
tự tay ghi nhận số tiền 700.000.000đ để xóa đi số tiền 500.000.000đ giá trị xe.
Ngày 29/8/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Ba Vì ra Quyết
định số 70 không khởi tố vụ án hình sự đối với tố giác của bà Phùng Thị D tố
giác anh Trần Đình Phương D có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản. Sau đó, bà Dần đã thực hiện quyền khiếu nại đối với Quyết định không
khởi tố vụ án hình sự. Đến nay các cơ quan có thẩm quyền các cấp đã giải
quyết khiếu nại, kiến nghị của bà Dần và Quyết định không khởi tố vụ án hình
sự số 70 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Vì đã có hiệu lực
pháp luật; Bà Dần cũng có lời khai đề nghị xem xét việc bà bị anh Trần Đình
Phương D ép viết biên bản làm việc ngày 18/4/2018 và có hành vi đe dọa bà
Dần. Nội dung này cũng được Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì giải quyết
tại Quyết định số 01/QĐ-VKS ngày 21/01/2019 xác định không có việc Duy
10
lừa ép bà Dần viết giấy ngày 18/4/2018. Tại phiên tòa bà Phùng Thị D có giao
nộp 02 bản thảo viết tay, theo bà Dần là chữ viết của Duy, Du viết sẵn và buộc
bà phải viết theo. Anh Duy, anh Du thừa nhận đây là hai bản thảo hai anh viết
tại nhà bà Dần ngày 18/4/2018, bản thảo này ghi ra trên cơ sở hai bên thảo luận
để định hình các nội dung. Xét 02 bản viết tay không có nội dung chi tiết như
biên bản làm việc ngày 18/4/2018 mà hai bên đã ký kết nên không có cơ sở để
khẳng định bà Dần bị ép buộc phải viết biên bản như bà Dần trình bày. Lời
khai của bị đơn Trần Đình Phương D và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Trần Đình Huy Du là có căn cứ nên được chấp nhận. HĐXX xác định: Giấy
bán xe ngày 12/8/2015 và giấy cam kết ngày 09/5/2016 không làm phát sinh
nghĩa vụ của anh Trần Đình Phương D phải trả bà Phùng Thị D giá trị xe ô tô
Mazda 3S BKS 29A 969.25 là 500.000.000đ, do vậy yêu cầu của bà Dần đối
với tiền lãi phát sinh từ giá trị xe ô tô tính từ ngày 09/5/2016 đến ngày
09/3/2024 cũng không được chấp nhận.
2. Đối với yêu cầu của bà Phùng Thị D về khoản vay thứ 2 là tiền mặt
tổng số tiền gốc là 1.490.000.000đ, lãi suất thỏa thuận là 2%/tháng. Anh Duy
đã trả 540.000.000đ. Còn nợ là 950.000.000đ. Các lần vay tiền và trả nợ cụ
thể:
+ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày
26/10/2015, số tiền 200.000.000đ; Thời hạn vay từ ngày 26/10/2015 đến
26/01/2016; Nội dung hợp đồng không thể hiện lãi suất cho vay.
+ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày
13/12/2015, số tiền 350.000.000đ; Thời hạn vay từ ngày 13/12/2015 đến
13/02/2016; Nội dung hợp đồng không thể hiện lãi suất cho vay.
+ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày
13/12/2015, số tiền 40.000.000đ. Thời hạn vay từ ngày 13/12/2015 đến
13/01/2016; Nội dung hợp đồng không thể hiện lãi suất cho vay.
+ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày
21/12/2015. số tiền 300.000.000đ; Thời hạn vay từ ngày 21/12/2015 đến
21/02/2016; Nội dung hợp đồng không thể hiện lãi suất cho vay.
+ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày
26/12/2015, số tiền 200.000.000đ; Thời hạn vay từ ngày 26/12/2015 đến
26/02/2016; Nội dung hợp đồng không thể hiện lãi suất cho vay.
+ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày
20/01/2016, số tiền 200.000.000đ. Thời hạn vay từ ngày 20/01/2016 đến
20/5/2016; Nội dung hợp đồng không thể hiện lãi suất cho vay.
+ Hợp đồng thỏa thuận cầm đồ kiêm giấy biên nhận vay tiền đề ngày
06/02/2016, số tiền 200.000.000đ; Thời hạn vay từ ngày 06/2/2016 đến ngày
06/5/2016; Mục đích vay kinh doanh xưởng may. Nội dung hợp đồng không
thể hiện lãi suất cho vay.
Các lần trả nợ: Ngày 04/3/2016, bà Oanh là mẹ đẻ anh Duy trả số tiền
150.000.000đ. Ngày 07/3/2016, bà Oanh là mẹ đẻ anh Duy tiếp tục trả số tiền
50.000.000đ; Ngày 18/3/2016, bà Oanh mẹ đẻ anh Duy trả số tiền
100.000.000đ; Ngày 18/4/2016, anh Duy trả 200.000.000đ; Bà Dần trình bày
vào các ngày ngày 30/5/2018 bà Dần ký số tiền 50.000.000đ và ngày
27/6/2018, ký nhận anh Duy trả số tiền 30.000.000đ nhưng thực tế thì anh Duy
11
chỉ trả cho bà được số tiền 40.000.000đ tiền mặt. Số tiền 40.000.000đ còn lại
anh Duy không trả được nhưng nhờ bà viết biên nhận 2 lần đủ 80.000.000đ để
về trình bày với bà Oanh. Số tiền 40.000.000đ không trả đủ anh Duy viết giấy
vay tiền đề ngày 27/6/2018 hẹn trả nợ vào ngày 02/7/2018. Anh Duy thừa nhận
nội dung này là đúng.
Về tiền vay gốc: Tài liệu chứng cứ bà Phùng Thị D cung cấp và lời khai
anh Trần Đình Phương D thừa nhận chữ viết, chữ ký trên 07 Hợp đồng vay
tiền. HĐXX có căn cứ để khẳng định, trong thời gian từ tháng 10/2015 đến
ngày 06/02/2016, anh Trần Đình Phương D có vay của bà Phùng Thị D 7 lần
với tổng số tiền 1.490.000.000đ là có thực. Đến nay các bên đương sự có tranh
chấp về tiền vay gốc chưa trả. Bà Dần yêu cầu anh Duy phải trả tiền gốc còn là
950.000.000đ nhưng anh Duy không nhất trí vì trong số tiền vay gốc
1.490.000.000đ có khoản tiền anh Duy đã trả. Anh Duy chỉ chấp nhận tiền gốc
căn cứ trên biên bản làm việc hai bên đã thống nhất ngày 18/4/2018 và giải
quyết theo các sự kiện hai bên giao dịch sau ngày 18/4/2018. Nhưng tại phiên
toà bà Dần và anh Duy đều thừa nhận đã trả được số tiền gốc là 540.000.000đ
và anh Duy, anh Du cũng thừa nhận ngày 18/4/2018 chỉ trả được số tiền gốc là
200.000.000đ cho bà Dân, do vậy biên bản xác lập các khoản nợ ngày
18/4/2018 là không có cơ sở. HĐXX xem xét các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ
vụ án thấy rằng: Tổng số tiền anh Trần Đình Phương D vay tiền gốc của bà
Phùng Thị D là 1.490.000.000đ, anh Duy đã trả số tiền gốc cho bà Dần là
540.000.000đ. Nay cần buộc anh Trần Đình Phương D phải có trách nhiệm trả
cho bà Phùng Thị D số tiền gốc là 950.000.000đ.
Xét nội dung các hợp đồng vay tiền đều thể hiện là hợp đồng cho vay có
thời hạn. Nội dung văn bản hợp đồng không thể hiện lãi suất nhưng cả hai bên
đều thừa nhận là là có thỏa thuận bằng lời về tiền lãi vay, bà Dần trình bày hai
bên thỏa thuận lãi suất 2%/tháng; Anh Duy không đồng ý mức lãi bà Dần trình
bày nhưng lãi suất cụ thể khi thỏa thuận thì anh Duy không nhớ. Như vậy giữa
hai bên có tranh chấp lãi suất cho vay. Do vậy, HĐXX áp dụng các quy định
của pháp luật tại khoản 2- Điều 468, Điều 688 BLDS 2015 để giải quyết tranh
chấp.
Về yêu cầu tiền lãi: Bà Phùng Thị D và anh Trần Đình Phương D đều
không nhớ đã trả bao nhiêu tiền lãi và cũng không có giấy tờ gì, theo bà Phùng
Thị D cho rằng anh Trần Đình Phương D không trả lãi từ ngày 19/3/2016 cho
đến nay, theo anh Trần Đình Phương D không nhớ đã trả lãi đến bao giờ. Theo
tài liệu có trong hồ sơ ngày 27/6/2018 cuối anh Duy có trả cho bà Dần số tiền
40.000.000đ tiền gốc, từ ngày đó không trả được tiền gốc và lãi. Do vậy,
HĐXX tính tiền lãi từ ngày 28/6/2018 đến ngày xét xử 20/9/2024 đối với số
tiền gốc 950.000.000đ chưa trả. Thời gian là 6 năm 3 tháng 23 ngày. Lãi suất
10%/ năm. Tiền lãi là 599.819.444đ. Tổng tiền gốc, lãi là 950.000.000đ +
599.819.444đ = 1.549.819.444đ.
Các yêu cầu tính lãi khác của bà Phùng Thị D không có căn cứ chấp
nhận…” để chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phùng
Thị D là có căn cứ. Hội đồng xét xử xét thấy nguyên đơn kháng cáo không
xuất trình được chứng cứ gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn bà Dần.
12
* Đối với yêu cầu kháng cáo về việc tính số tiền cho thuê ô tô của bà
Dần Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo này của nguyên đơn vượt quá
yêu cầu khởi kiện ban đầu của bà Dần nên không có căn cứ để xem xét.
* Đối với yêu cầu của bà Phùng Thị D về việc buộc ông Trần Đình
Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh, chị Ngô Thị Vân phải liên đới chịu trách
nhiệm trả nợ cùng anh Duy; Hội đồng xét xử xét thấy:
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như lời trình bày của bị
đơn anh Duy thể hiện số tiền anh Duy vay của bà Dần thì chỉ có một khoản
vay 200 triệu đồng ngày 06/02/2016 là vay vì mục đích kinh doanh xưởng
may, còn lại các khoản vay khác là anh Duy tiêu dùng cá nhân. Chị Ngô Thị
Vân hiện là vợ của anh Duy; theo như anh Duy trình bày hiện này hai người
vẫn chung sống với nhau và không có quyết định ly hôn của Tòa án. Trong các
giấy thỏa thuận vay tiền không ghi cụ thể anh Duy vay tiền với tư cách cá nhân
hơn nữa có khoản vay tiền anh Duy đầu từ để mở xưởng may cũng là lo cho
kinh tế của gia đình nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc chị Ngô Thị Vân phải có
trách nhiệm liên đới cùng anh Trần Đình Phương D trả nợ cho bà Phùng Thị D
theo quy định tại Điều 103, Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015 là có căn cứ.
Đối với ông Trần Đình Năm và bà Nguyễn Thị Phương Oanh là bố mẹ
đẻ của anh Duy, xét thấy anh Duy hiện đã 39 tuổi không phải là người có
nhược điểm về thể chất, tinh thần. Bản thân anh Duy đã lập gia đình và có vợ
con không chung hộ khẩu với ông Năm, bà Oanh. Hơn nữa việc vay tiền giữa
anh Duy và bà Dần thì ông Năm, bà Oanh không ký vào giấy vay tiền cũng
như không sử dụng số tiền này nên Hội đồng xét xử xác định ông Trần Đình
Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh không phải có trách nhiệm liên đới cùng
anh Trần Đình Phương D trả nợ cho bà Phùng Thị D. Hội đồng xét xử xem xét
sửa án sơ thẩm ở nội dung này.
3.2. Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Trần Đình Phương D.
Như đã phân tích ở trên; Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận một phần
kháng cáo của bị đơn anh Duy.
3.3. Xét yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Trần Đình Năm, bà Nguyễn Thị Phương Oanh, chị Ngô Thị Vân.
Như đã phân tích ở trên; Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận một phần
kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Năm, bà Oanh;
không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Vân.
Do đó, Hội đồng xét xử xem xét sửa án sơ thẩm như đã phân tích ở trên.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham
gia phiên tòa có phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[4]. Về án phí:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phùng Thị D hiện 61 tuổi nên áp dụng
Điều 4 Luật người cao tuổi, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH ngày
26/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội miễn án phí dân sự sơ thẩm đối
với các yêu cầu không được chấp nhận của bà Phùng Thị D. Anh Trần Đình
Phương D, chị Ngô Thị Vân phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên người kháng cáo
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
13
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Khoản 2 Điều 308, Điều 147, Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Các Điều 103, 228, 275, 422, 463, 465, 466,468; 357 và Điều 688 Bộ
luật Dân sự năm 2015.
- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 98/2024/DS-ST ngày 20/9/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội và quyết định cụ thể như
sau:
1.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phùng Thị D.
1.2. Buộc anh Trần Đình Phương D, chị Ngô Thị Vân phải trả cho bà
Phùng Thị D số tiền gốc 950.000.000 đồng; Tiền lãi chậm trả tính từ ngày
28/6/2018 đến ngày xét xử 20/9/2024 là 599.819.444 đồng. Tổng số tiền gốc,
lãi anh Trần Đình Phương D, chị Ngô Thị Vân phải trả cho bà Phùng Thị D là
950.000.000đ + 599.819.444đ= 1.549.819.444đ ( Một tỷ, năm trăm bốn mươi
chín triệu, tám trăm mười chín ngàn, bốn trăm bốn mươi bốn đồng ).
Kể từ ngày bà Phùng Thị D có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải
thi hành án không trả tiền hoặc trả tiền không đầy đủ thì người phải thi hành án
còn phải trả thêm tiền lãi tính trên số tiền gốc chưa thi hành án theo lãi suất
quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời
gian chậm thi hành án.
1.3. Không chấp nhận yêu cầu của bà Phùng Thị D đối với tranh chấp
tài sản vay là giá trị xe ô tô Mazda 3S BKS 29A 969.25 trị giá 500.000.000đ
và tiền lãi phát sinh.
1.4. Không chấp nhận các yêu cầu về tính lãi khác của bà Phùng Thị D.
2. Về án phí:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bà Phùng
Thị D đối với các yêu cầu không được chấp nhận.
Anh Trần Đình Phương D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 29.247.000
đồng. Chị Ngô Thị Vân phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 29.247.000 đồng.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự kháng cáo không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm.
Anh Duy đã nộp số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu
tiền số 0014339 ngày 08/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Vì
nay chuyển thành án phí. Anh Duy còn phải tiếp tục nộp số tiền 28.947.000
đồng án phí.
Chị Vân đã nộp số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu
tiền số 0014355 ngày 10/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Vì
nay chuyển thành án phí. Chị Vân còn phải tiếp tục nộp số tiền 28.947.000
đồng án phí.

14
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDTP Hà Nội;
- TAND huyện Ba Vì;
- Chi cục THADS huyện Ba Vì;
- Các đương sự;
- Lưu văn phòng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Như Lâm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 155/2025/DS-PT ngày 18/03/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm