Bản án số 19/2024/HNGĐ-ST ngày 30/10/2024 của TAND huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 19/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 19/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 19/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 19/2024/HNGĐ-ST ngày 30/10/2024 của TAND huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Quảng Trạch (TAND tỉnh Quảng Bình) |
Số hiệu: | 19/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/10/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L xin ly hôn anh H và quyền nuôi con sau khi ly hôn. Căn cứ quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Cẩm L và anh Trần Mạnh H; quyền nuôi dưỡng con chung, cấp dưỡng nuôi con; quyết định về quan hệ tài sản chung, nợ chung; về án phí và quyền kháng cáo theo quy định |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN QUẢNG TRẠCH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 19/2024/HNGĐ-ST
Ngày 30-10-2024
“V/v Ly hôn, tranh chấp về nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Võ Ngọc Thực
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Tạo
2. Ông Phạm Thanh Đông
- Thư ký phiên tòa: Bà Bùi Thị Thanh Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
tham gia phiên tòa: Ông Trịnh Cao Cường - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch,
tỉnh Quảng Bình mở phiên Tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
13/2024/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2024, về việc “Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
18/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17/9/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Cẩm L; nơi ĐKHKTT: thôn X, xã Q, huyện
Q, tỉnh Quảng Bình; chỗ ở: khu phố 5, phường B, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Có
mặt.
2. Bị đơn: Anh Trần Mạnh H; nơi cư trú: thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng
Bình. Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ngân hàng TMCP Á ; địa chỉ: Số 442 - N, Phường 5, Quận 3, Thành phố
Hồ Chí Minh;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Từ Tiến P - Tổng Giám đốc;
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đình L - Phó Giám đốc Phòng
Quản lý nợ Ngân hàng TMCP Á ;
Người được ủy quyền lại: Bà Nguyễn Ngọc T - Nhân viên xử lý nợ Ngân hàng
TMCP Á Chi nhánh Quảng Bình (văn bản ủy quyền số 816/UQ-QLN.24 ngày
13/6/2024); địa chỉ: Số 188 - T, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.
+ Chị Trần Thị Thu T; nơi ĐKHKTT: Tổ 9, khu phố 2, phường B, thị xã B,
tỉnh Quảng Bình; chỗ ở: Số 220 - Q, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 28/02/2024, bản tự khai, biên bản phiên họp và hòa
giải, cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm L trình bày: Về quan
hệ hôn nhân thì giữa chị và anh Trần Mạnh H có quá trình tìm hiểu và đi đến hôn
nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Q
(nay là xã L), huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình vào ngày 24/01/2007. Sau khi
kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Cuộc
sống chung vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Đến giữa năm 2022 thì vợ chồng phát
sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, là do vợ chồng không hợp tính tình nhau, bất đồng
về quan điểm sống nên thường xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Vợ chồng đã sống
ly thân từ ngày 18/10/2023 cho đến nay. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng không thể
hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được và nhận thấy thật sự không còn tình
cảm gì với anh Trần Mạnh H nữa, không thể tiếp tục cuộc sống chung vợ chồng để
xây dựng gia đình hạnh phúc được, nên mong muốn được ly hôn với anh H để sớm
ổn định cuộc sống.
Về quan hệ con chung: Theo chị L thì giữa vợ chồng có 03 con chung tên là
Trần Nguyễn Uyên T, sinh ngày 05/8/2007; Trần Nguyễn Uyên N, sinh ngày
21/02/2014 và Trần Nguyễn Hoài A, sinh ngày 20/10/2017. Sau khi ly hôn, chị L có
nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 03 con chung và yêu cầu anh H phải có nghĩa vụ
đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng đối với mỗi người con là
1.000.000 đồng, cho đến khi con thành niên.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị L trình bày, quá trình chung sống
vợ chồng có tạo dựng được khối tài sản chung là thửa đất số 232, tờ bản đồ số 48 tại
thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình và 01 căn nhà đổ kiên cố ở trên đất, tổng
giá trị tài sản chung khoảng 1.600.000.000 đồng (một tỷ sáu trăm triệu đồng). Sau
khi ly hôn chị L có nguyện vọng giao lại nhà và đất cho anh H quản lý, sử dụng và
yêu cầu anh H thanh toán cho chị số tiền chênh lệch trên tổng giá trị tài sản chung.
Giữa vợ chồng có nợ tại Ngân hàng TMCP Á số tiền 200.000.000 đồng. Sau khi ly
hôn, anh H trả toàn bộ số tiền nợ chung cho Ngân hàng. Ngày 16/9/2024, trước khi
đưa vụ án ra xét xử, chị Nguyễn Thị Cẩm L rút một phần yêu cầu khởi kiện, không
yêu cầu giải quyết về quan hệ tài sản chung và nợ chung.
Tại bản tự khai, biên bản phiên họp và hòa giải, bị đơn anh Trần Mạnh H
trình bày: Về quan hệ hôn nhân thì anh và chị Nguyễn Thị Cẩm L có quá trình tìm

3
hiểu và đi đến kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn hợp pháp
tại UBND xã Q (nay là xã L), huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình vào ngày
24/01/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng sống đầm ấm hạnh phúc tại thôn X, xã Q,
huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Đến cuối năm 2023 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân, là do vợ chồng không hợp tính tình nhau, không có sự tôn trọng và
tin tưởng lẫn nhau nên thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Anh nhận thấy cuộc
sống vợ chồng như vậy sẽ không mang lại hạnh phúc được nên nguyện vọng mong
muốn được ly hôn và đồng ý ly hôn theo yêu cầu, đề nghị của chị L để ổn định cuộc
sống.
Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung tên
là Trần Nguyễn Uyên T, sinh ngày 05/8/2007; Trần Nguyễn Uyên N, sinh ngày
21/02/2014 và Trần Nguyễn Hoài A, sinh ngày 20/10/2017. Sau khi ly hôn, anh H
có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 03 con chung và không yêu cầu chị L phải có
nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Anh H trình bày, quá trình chung sống
vợ chồng có tạo dựng được khối tài sản chung là thửa đất số 232, tờ bản đồ số 48 tại
thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình và 01 ngôi nhà đổ kiên cố ở trên đất. Sau
khi ly hôn, anh đồng ý với phương án phân chia tài sản của chị L là anh nhận tài sản
là thửa đất và ngôi nhà trên đất và thanh toán giá trị chênh lệch cho chị L. Tuy nhiên,
giá trị tài sản chung anh chị chưa xác định được bao nhiêu nên cần phải xác định cụ
thể để đưa ra phương án giải quyết. Vợ chồng có nợ tại Ngân hàng TMCP Á số tiền
200.000.000 đồng. Sau khi ly hôn, anh H yêu cầu mỗi người thanh toán một nửa
khoản nợ. Ngày 16/9/2024, chị L rút một phần yêu cầu khởi kiện về chia tài sản
chung, nợ chung của vợ chồng, anh H không có ý kiến gì.
Đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng TMCP Á , bà
Nguyễn Ngọc T trình bày: Ngày 30/3/2023, Ngân hàng TMCP Á (gọi tắt là ACB)
cấp tín dụng cho anh Trần Mạnh H và chị Nguyễn Thị Cẩm L theo Hợp đồng cấp tín
dụng số BDN.CN.3715.270323. Ngày 29/3/2023, anh H và chị L đã thế chấp quyền
sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 232, tờ bản đồ số 48, địa chỉ: thôn
X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ACB,
theo Hợp đồng thế chấp số BDN.BĐCN.402.270323 được công chứng tại Văn
phòng công chứng Nhất Tín, đăng ký thế chấp theo quy định. Chị L khởi kiện yêu
cầu ly hôn và giải quyết chia tài sản chung, nợ chung thì ACB trình bày ý kiến như
sau: Về yêu cầu ly hôn và quyền nuôi con: ACB không có ý kiến. Về yêu cầu chia
nghĩa vụ trả nợ chung tại ACB: Anh H và chị L cùng ký Hợp đồng cấp tín dụng số
BDN.CN.3715.270323 ngày 30/3/2023 để vay tiền ACB. Đến nay, Hợp đồng tín
dụng vẫn còn hiệu lực. Do đó, anh H và chị L phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho
ACB theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng ngay cả khi anh H, chị L ly hôn theo
quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Thông tư số 39/2016/TT-
NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Về yêu cầu chia tài sản chung đang thế chấp tại ACB: Hợp đồng thế chấp thửa
đất số 232 ký giữa ACB và anh H, chị L cũng như việc thế chấp thửa đất số 232 đã
4
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật
Đất đai 2013:“Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền
sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng
hoặc chứng thực” và điểm c khoản 1 Điều 10, khoản 1 Điều 11 Văn bản hợp nhất số
8019/VBHN-BTP ngày 10/12/2013 của Bộ Tư pháp hợp nhất Nghị định về giao dịch
bảo đảm: “Việc thế chấp quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng
sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế
chấp” và “Giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm
đăng ký”. Vì vậy, Hợp đồng thế chấp thửa đất số 232 có hiệu lực pháp luật nên tài
sản thế chấp phải được tiếp tục dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của anh
H, chị L với ACB cho đến khi việc thế chấp tài sản chấm dứt theo quy định tại Điều
327 Bộ luật Dân sự 2015.
Vì vậy, ACB không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị L về chia nghĩa vụ
trả nợ chung và chia tài sản chung đang được thế chấp tại ACB. ACB đề nghị Tòa
án chỉ xem xét các yêu cầu khởi kiện về chia tài sản chung sau khi anh H, chị L hoàn
thành mọi nghĩa vụ với ACB theo Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp đã ký kết
nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của ACB theo đúng quy định pháp luật. Ngày
16/9/2024, chị L rút một phần yêu cầu khởi kiện về chia nghĩa vụ trả nợ chung và
chia tài sản chung đang được thế chấp tại ACB, đối với yêu cầu khởi kiện về việc ly
hôn, yêu cầu nuôi con chung giữa chị L và anh H, ACB không có ý kiến gì.
Tại bản tự khai, đơn trình bày ý kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chị Trần Thị Thu T trình bày: Về vấn đề quan hệ tình cảm và quan hệ nuôi con chung
giữa anh Trần Mạnh H và chị Nguyễn Thị Cẩm L thì chị Thanh không có ý kiến gì,
vợ chồng anh H, chị L tự quyết định. Vợ chồng giải quyết, phân chia phần tài sản,
đất đai thì chị Thanh đề nghị anh H, chị L trả lại phần đất hơn 01m đã mượn của chị.
Ngày 16/9/2024, chị L rút một phần yêu cầu khởi kiện về chia tài sản chung, nợ
chung thì chị Thanh không có ý kiến gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình phát
biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý
cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo pháp luật tố tụng. Anh Trần Mạnh H, đại diện
Ngân hàng ACB, chị Trần Thị Thu T vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vụ
án vắng mặt theo quy định.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án
và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28;
điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 157, 158, 165, 166,
227, 228 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 và
Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Tuyên xử:
5
Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị
Cẩm L và anh Trần Mạnh H.
Về quan hệ con chung: Giao con chung là Trần Nguyễn Uyên T, sinh ngày
05/8/2007; Trần Nguyễn Uyên N, sinh ngày 21/02/2014 và Trần Nguyễn Hoài A,
sinh ngày 20/10/2017 cho chị Nguyễn Thị Cẩm L trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Trần Mạnh H có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi
con chung cùng với chị L mỗi tháng đối với mỗi người con số tiền là 1.000.000
đồng. Thời gian đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung kể từ tháng 11/2024 trở
đi, cho đến khi con thành niên.
Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đã rút
của chị Nguyễn Thị Cẩm L về việc chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn.
Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn thống nhất tự nguyện chịu toàn bộ tiền chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản.
Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Cẩm L chịu 150.000 đồng tiền án phí ly
hôn. Được trừ vào tiền tạm ứng án phí 33.000.000 đồng mà chị đã nộp tại Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo biên lai thu số
0002075, ngày 18/3/2024. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Cẩm L số tiền tạm ứng án phí
đã nộp là 32.850.000 đồng. Anh Trần Mạnh H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí
cấp dưỡng nuôi con định kỳ để nộp sung vào ngân sách nhà nước.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm
tra, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Cẩm L khởi kiện yêu cầu xin ly hôn,
nuôi dưỡng con chung, chia tài sản chung. Vì vậy, xác định đây là tranh chấp về ly
hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm
a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Trần
Mạnh H, đại diện Ngân hàng và chị Trần Thị Thu T vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ
vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án
vắng mặt anh Trần Mạnh H, bà Nguyễn Ngọc T và chị Trần Thị Thu T.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Cẩm L và anh Trần Mạnh H kết
hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q (nay là xã L), huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình vào ngày 24/01/2007, vì vậy quan hệ hôn nhân là
hoàn toàn hợp pháp. Sau khi kết hôn, thời gian đầu cuộc sống chung vợ chồng hòa
thuận, hạnh phúc. Tuy nhiên, không lâu sau đó đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên
nhân, là do vợ chồng không hợp tính nhau, luôn bất đồng về quan điểm sống, không
tôn trọng và không tin tưởng lẫn nhau, do vậy thường xuyên cãi vã, xúc phạm nhau;
hai bên đã sống ly thân từ cuối năm 2023 cho đến nay, không tìm được hướng đi
chung, không còn quan tâm, lo lắng gì đến nhau, không còn giải pháp hàn gắn và
xác định không còn tình cảm vợ chồng, không thể tiếp tục sống chung cùng nhau
được nửa. Chị L và anh H thống nhất thỏa thuận tự nguyện ly hôn. Hội đồng xét xử,
6
căn cứ quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, công nhận sự thuận tình
ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Cẩm L và anh Trần Mạnh H.
[3] Về quan hệ con chung:
[3.1] Giữa chị Nguyễn Thị Cẩm L và anh Trần Mạnh H có 03 con chung tên
là Trần Nguyễn Uyên T, sinh ngày 05/8/2007; Trần Nguyễn Uyên N, sinh ngày
21/02/2014 và Trần Nguyễn Hoài A, sinh ngày 20/10/2017. Sau khi ly hôn chị L,
anh H đều có yêu cầu, nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Xét nguyện vọng
mong muốn được nuôi con của chị L, anh H là hoàn toàn hợp pháp. Tuy nhiên, khi
ly hôn cần xem xét điều kiện, cơ sở mỗi bên, điều kiện phát triển lành mạnh, bình
thường của các cháu mà tiếp tục giao cho một trong hai bên trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc. Xét điều kiện, nguyện vọng mong muốn được nuôi con của chị L là chính
đáng vì các con chung hiện đang do chị L chăm sóc, nuôi dưỡng và các cháu cũng
có nguyện vọng xin được ở với mẹ nếu ba mẹ ly hôn. Trong khi anh H phải đi làm
ăn, không có thời gian để gần gủi, chăm sóc con cái. Do vậy, giao con chung cho chị
Nguyễn Thị Cẩm L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.
[3.2] Sau ly hôn, chị L yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi
tháng đối với mỗi người con số tiền là 1.000.000 đồng. Xét thấy, việc chăm sóc, giáo
dục, nuôi dưỡng con chung là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả cha và mẹ. Người không
trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu cấp dưỡng nuôi
con của chị L là có cơ sở, có căn cứ chấp nhận, do vậy, cần buộc anh H phải có nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con với mức mỗi tháng 1.000.000 đồng cho mỗi người con, như
vậy là phù hợp với điều kiện, tình hình, nhu cầu thực tế. Thời gian đóng góp tiền cấp
dưỡng nuôi con chung kể từ tháng 11/2024 trở đi, cho đến khi con thành niên.
[4] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án, chị L
có yêu cầu giải quyết về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng. Trước khi đưa vụ án
ra xét xử, chị Nguyễn Thị Cẩm L rút yêu cầu giải quyết về việc chia tài sản chung,
nợ chung khi ly hôn. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không có
ý kiến, yêu cầu gì. Xét thấy, việc rút yêu cầu của chị Nguyễn Thị Cẩm L là phù hợp,
hoàn toàn tự nguyện nên chấp nhận, vì vậy Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với
yêu cầu đã rút.
[5] Xét quan điểm, đề xuất của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc
giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với quy
định của pháp luật.
[6] Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền chi phí tố tụng tạm thu của nguyên đơn là
6.000.000 đồng. Quá trình giải quyết vụ án số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ và định giá tài sản là 1.600.000 đồng, còn lại 4.400.000 đồng. Đối với số tiền
còn lại 4.400.000 đồng đã được giao trả lại cho nguyên đơn. Nguyên đơn, đã rút yêu
cầu giải quyết về chia tài sản chung, nợ chung và thống nhất tự nguyện chịu toàn bộ
chi phí tố tụng 1.600.000 đồng. Số tiền này được khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí
tố tụng mà nguyên đơn đã nộp.
7
[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Cẩm L thống nhất chịu tiền án phí ly hôn để
sung vào ngân sách nhà nước. Anh Trần Mạnh H phải chịu tiền án phí cấp dưỡng
nuôi con định kỳ để sung vào ngân sách nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; các Điều 147, 157, 158, 165, 166, 227, 228 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; các Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều
27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội: Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị
Cẩm L và anh Trần Mạnh H.
2. Về quan hệ con chung:
2.1. Giao con chung là Trần Nguyễn Uyên T, sinh ngày 05/8/2007; Trần
Nguyễn Uyên N, sinh ngày 21/02/2014 và Trần Nguyễn Hoài A, sinh ngày
20/10/2017 cho chị Nguyễn Thị Cẩm L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục.
2.2. Anh Trần Mạnh H có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung
cùng với chị L mỗi tháng đối với mỗi người con số tiền là 1.000.000 đồng. Thời gian
đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung kể từ tháng 11/2024 trở đi, cho đến khi con
thành niên.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom
con mà không ai được cản trở.
3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đã
rút của chị Nguyễn Thị Cẩm L về việc chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn.
4. Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn thống nhất tự nguyện chịu toàn bộ tiền chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản là 1.600.000 đồng. Số tiền này được
khấu trừ vào tiền tạm ứng chi phí tố tụng mà nguyên đơn đã nộp.
5. Về án phí sơ thẩm:
5.1. Chị Nguyễn Thị Cẩm L chịu 150.000 đồng tiền án phí ly hôn. Số tiền án
phí chị L phải chịu trên được trừ vào tiền tạm ứng án phí 33.000.000 đồng mà chị
đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo
biên lai thu số 0002075, ngày 18/3/2024. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Cẩm L số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 32.850.000 đồng.
5.2. Anh Trần Mạnh H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi
con định kỳ để nộp sung vào ngân sách nhà nước.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
8
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự”.
Báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể
từ ngày tuyên án sơ thẩm. Báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Quảng Bình; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Quảng Trạch;
- Chi cục THADS huyện Quảng Trạch;
- UBND xã L; (Đã ký)
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Võ Ngọc Thực
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm