Bản án số 184/2025/DS-PT ngày 26/06/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 184/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 184/2025/DS-PT ngày 26/06/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sóc Trăng
Số hiệu: 184/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tại Bản án số 25/2025/DS-ST ngày 31/3/2025, Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số:184/2025/DS-PT
Ngày 26/6/2025
V/v tranh chấp hợp đồng dân sự
góp hụi và đòi lại tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Lâm;
Các Thẩm phán: Ông Phan Lê Vũ Huy Hoàng;
Ông Nguyễn Hoàng Thành.
- Thư phiên tòa: Thị Nghi, Thư Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Sơn Cươl, Kiểm sát viên.
Trong ngày 26 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 123/2025/TLPT-DS ngày 19
tháng 5 năm 2025, về tranh chấp hợp đồng dân sự góp hụi đòi lại tài sản
(tiền).
Do Bản án dân sự thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025
của Toà án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x phúc thẩm số: 164/2025/-PT
ngày 26 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Nguyễn Thị Loan C;
Địa chỉ: p T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ; địa chỉ:
Số 1806/109/4A, khu phố 6, thị trấn N, huyện N, Thành phố HChí Minh;
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (văn bản ủy quyền ngày
05/9/2024). (có mặt)
- Bị đơn: Nguyễn Mộng L;
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
- Người kháng cáo:Nguyễn Thị Loan C - Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 05 tháng 8 năm 2024 của nguyên đơn Nguyễn
Thị Loan C trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của
nguyên đơnông Nguyễn Văn Đ trình bày:
2
C L 02 chị em ruột, sống cạnh nhà nhau. L chủ hụi,
thường xuyên mở các dây hụi và kêu gọi người trong địa phương cùng tham gia.
Ngày 10/8/2022, L mở dây hụi tháng, mỗi tháng 1.000.000 đồng, vận động
được 27 chưng hụi. Theo danh sách hụi, C vị trí số 01 02, L đã ghi
“Chị 2 C”. Bà C đóng hụi đến lần thứ 21 thì hốt nhưng bà L không cho hốt, bà L
tính bình quân 02 chưng hụi của C đã đóng được 22 lần/chưng, với số tiền
21.500.000 đồng/chưng, tổng 02 chưng 44.000.000 đồng, sau khi đã trừ huê
hồng 500.000 đồng/chưng (1.000.000 đồng), còn lại số tiền 43.000.000 đồng
L không giao, bà C nhiều lần nhắc nhở nhưng bà L không trả, đến nay 02 chưng
hụi này đã mãn. Tại phiên tòa thẩm, ông Đ xin thay đổi một phần yêu cầu
khởi kiện của bà C, chỉ yêu cầu bà L trả tiền nợ hụi còn thiếu 39.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu phản tố của L, C thừa nhận trước đây L giao
cho bà 42.000.000 đồng để bà trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc mẹ ruột của bà
L. Tuy nhiên, trong quá trình chăm sóc, giữa và mẹ thường xuyên
mâu thuẫn, không thuận thảo nên đưa mẹ đến với người em thứ 5
trong gia đình tên Nguyễn Mộng L1 để chăm sóc mẹ. Số tiền 42.000.000
đồng bà đã sử dụng làm nhà vệ sinh tại nhà của mẹ ruột hết 2.400.000 đồng, chi
phí xe đưa mẹ ruột đến nhà bà L1 hết 600.000 đồng, còn lại 39.000.000 đồng
đã giao cho bà L1. Việc giao tiền cho bà L1 thì L không chứng kiến. Khi
đưa mẹ đến nhà bà L1 sau khi đưa tiền cho L1 xong, về nhà
nói lại cho L biết, bà L ng không ý kiến phản đối . Sau này, và
L1 phát sinh mâu thuẫn, khi cãi nhau tL1 cũng thừa nhận đã nhận của
số tiền này. Do đó, không đồng ý với yêu cầu phản tố của L, nếu L
muốn lấy lại tiền thì liên hệ bà L1, yêu cầu bà L1 giao trả.
Theo đơn phản tố ngày 28 tháng 10 năm 2024 trong quá trình giải
quyết vụ án, bị đơn Nguyễn Mộng L trình bày:
thừa nhận đứng ra làm chủ hụi dây hụi tháng, hụi 1.000.000
đồng, mỗi tháng khui 01 lần, được chia làm 27 chưng hụi (phần hụi), C tham
gia 02 phần, danh sách hụi ghi “Chị 2 Cnhư nội dung khởi kiện của bà C là
đúng. C cho rằng đến lần mở hụi thứ 21 C được hốt hụi nhưng không
giao tiền không đúng, lần 21 này C không đi tham gia mở hụi từ lần
21 đến khi mãn hụi C cũng không đóng tiền hụi cho bà. Như vậy, C chỉ
đóng tiền hụi cho bà 02 chưng đều đến lần thứ 20. Do đó, tổng số tiền bà C
được hốt thực tế 40.000.000 đồng, tr đi tiền h hồng 500.000
đồng/chưng (1.000.000 đồng), bà ch nga vụ giao trả cho bà C số tiền hụi
là 39.000.000 đồng. Bà thống nhất trả số tiền này cho bà C.
Tuy nhiên, C còn nợ số tiền 42.000.000 đồng, cthể: Vào ngày
22/12/2022, giao cho C số tiền 42.000.000 đồng tiền nhân của
để bà C chăm sóc mẹ ruột của 02 khi đau bệnh, C cam kết phụng dưỡng
mẹ cho tới cuối đời số tiền này chỉ dùng sử dụng cho việc khi mẹ bị bệnh
nằm viện, nhưng C chỉ chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ được khoảng 01 tháng thì
không nuôi nữa, bỏ mặt mẹ khi đau bệnh, nên đã đưa mẹ ruột về chăm sóc,
phụng dưỡng. qua i chuyện với C về số tiền này, C nói khi o
mãn hụi ngày 10/8/2024 thì bà C trả lại số tiền này cho bà, nhưng đến nay không
trả. Nay yêu cầu C phải nga vụ trlại cho bà số tiền 42.000.000 đồng.
3
Vụ án được Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng thụ lý, giải
quyết theo trình tự thẩm. Tại Bản án số 25/2025/DS-ST ngày 31/3/2025, Tòa
án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, Điều 244 của Bộ luật Ttụng dân sự
năm 2015; Điều 117, Điều 166, Điều 280, Điều 281, Điều 284, Điều 351, Điều
415, khoản 2 Điều 468, Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các điều 5, 6,
7, 8 khoản 2 Điều 15, Điều 23, khoản 1 Điều 25 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP,
ngày 19/02/2019 của Chính phủ, về họ, hụi, biêu, phường; khoản 2, khoản 5
Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Loan C. Buộc
Nguyễn Mộng L nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Loan C số tiền hụi còn thiếu
39.000.000 đồng.
Khi bản án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Nguyễn ThLoan C
đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng, Nguyễn Mộng L phải trả lãi cho
Nguyễn Thị Loan C đối với số tiền còn phải thi nh án theo mức i suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của Nguyễn Mộng L. Buộc Nguyễn
Thị Loan C có nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Mộng L số tiền 42.000.000 đồng.
Khi bản án hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Nguyễn Mộng L đơn
yêu cầu thi nh án thì hàng tháng, Nguyễn Thị Loan C phải trả i cho
Nguyễn Mộng L đối với số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí quyền kháng cáo
của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 14/4/2025, C đơn kháng một phần bản án thẩm, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết không chấp nhận yêu cầu phản tố của
bà L.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện hợp pháp của C không rút đơn khởi kiện, không rút
kháng cáo; L không rút đơn phản tố các đương sự cũng không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm. Đối với yêu cầu kháng cáo của
C không căn cứ nên đnghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận
áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
4
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Vtính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của Nguyễn
Thị Loan C đảm bảo về hình thức và nội dung, đúng người có quyền kháng cáo,
còn trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại các Điều 271, Điều 272 Điều
273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên hợp lệ, đủ điều kiện để giải quyết, xét
xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bà C, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của C
thừa nhận C nhận của L số tiền 42.000.000 đồng để chăm sóc mẹ của
bà C, bà L khi đau bệnh, nằm viện. Căn cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, đây là tình tiết mà bà L không phải chứng minh.
[4] Theo C, số tiền 42.000.000 đồng tiền bán đất của mẹ (cụ H)
trước đây, giao lại cho L quản giùm, sau đó L giao lại cho để chăm
sóc mẹ ruột, đã sử dụng làm nhà vệ sinh tại nhà mẹ ruột hết 2.400.000 đồng,
trong thời gian mẹ sống chung với thì 02 người thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn, không thuận thảo, đã đưa mẹ ruột đến nhà Nguyễn Mộng L1 (em
ruột bà) để chăm sóc, tiền thuê xe đưa mẹ đến nhà L1 hết 600.000 đồng, còn
lại 39.000.000 đồng đã giao lại cho L1; còn bà L thì cho rằng, số tiền trên
là dùng để chăm sóc mẹ khi đau bệnh, nằm viện cần chăm sóc y tế, bà C cam kết
phụng dưỡng mẹ cho đến cuối đời nhưng được khoảng 01 tháng thì không chăm
sóc nữa, bỏ mặc mẹ ruột khi đau bệnh nên đưa mẹ ruột về chăm sóc, phụng
dưỡng. Như vậy, C không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh số
tiền 42.000.000 đồng là tiền mẹ ruột bán đất, L quản giùm, không phải
tiền cá nhân của bà L; bà C tự ý dùng số tiền 2.400.000 đồng để sửa chữa nhà vệ
sinh cho mẹ, 600.000 đồng thuê xe đưa mẹ đến nhà L1, đưa số tiền còn lại
39.000.000 đồng cho L1 không đúng như thỏa thuận ban đầu với L, cũng
không được sự đồng ý của L, hiện nay C không còn chăm sóc, phụng
dưỡng mẹ ruột nữa. Do đó, bà L đòi bà C trả lại số tiền 42.000.000 đồng đã giao
cho C Hội đồng xét xử thẩm chấp nhận yêu cầu này của L căn
cứ, đúng quy định tại các điều 284, 351, 415 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[5] Bà C kháng cáo cho rằng số tiền 42.000.000 đồng là tiền của cụ H bán
đất giao cho L, số tiền này đã đưa cho L1 chi phí hết 01 phần để chăm
sóc cụ H, nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh ngoài
lời trình bày của bà cũng như người đại diện hợp pháp của bà. Do đó, kháng cáo
của bà không có cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[6] Đối với việc C giao tiền cho bà L1 không được sự đồng ý của
L thì phải chịu trách nhiệm, được quyền khởi kiện để đòi bà L1 trả số
tiền mà bà đã giao cho bà L1 thành một vụ án dân sự khác nếu có tranh chấp.
[7] Các phần khác trong quyết định của bản án thẩm không kháng
cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
5
[8] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề
nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà C, căn cứ
khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên bản án dân
sự sơ thẩm.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa
án quy định: “Đương sự kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nếu Tòa
án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định thẩm bị kháng cáo, trừ
trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí phúc thẩm. Như vậy, bà C
người kháng cáo không được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận, giữ nguyên
bản án sơ thẩm bị kháng cáo, bà không thuộc trường hợp được miễn hoặc không
phải chịu án phí phúc thẩm nên phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng
và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị Loan
C.
1. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3
năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, cụ thể:
Tuyên xử:
1.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị Loan C.
Buộc Nguyễn Mộng L có nghĩa vụ trả cho Nguyễn Thị Loan C số tiền hụi
còn thiếu 39.000.000 đồng (Ba ơi chín triệu đồng).
Ktừ ngày đơn yêu cầu thi hành án của Nguyễn Thị Loan C thì
hàng tháng, Nguyễn Mộng L còn phải chịu khoản tiền lãi trên số tiền chậm
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.
1.2. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của Nguyễn Mộng L. Buộc
Nguyễn Th Loan C nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Mộng L số tiền
42.000.000 đồng (Bốn mươi hai triệu đồng).
Ktừ ngày đơn yêu cầu thi hành án của Nguyễn Mộng L thì hàng
tháng, Nguyễn Thị Loan C còn phải chịu khoản tiền lãi trên số tiền chậm thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.
1.3. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyễn Thị Loan C phải chịu 2.100.000 đồng (Hai triệu một trăm
nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.075.000 đồng
6
(Một triệu không trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án
phí, lphí Tòa án số 0006692 ngày 30 tháng 9 năm 2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện L, tỉnh Sóc Trăng như vậy, bà còn phải nộp thêm án phí dân
sự sơ thẩm là 1.025.000 đồng (Một triệu không trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
- Nguyễn Mộng L phải chịu là 1.950.000 đồng (Một triệu chín trăm
năm mươi nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
1.050.000 đồng (Một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng), theo biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006806 ngày 02 tháng 12 năm 2024 của Chi
cục Thi hành án dân shuyện L, tỉnh Sóc Trăng như vậy, còn phải nộp
thêm án phí dân sự sơ thẩm là 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng).
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Nguyễn Thị Loan C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng),
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009340
ngày 18 tháng 4 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Sóc
Trăng và như vậy, bà đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND huyện Long Phú;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- VKSND huyện Long Phú;
- Chi cục THADS huyện L;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Hoàng Lâm
Tải về
Bản án số 184/2025/DS-PT Bản án số 184/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 184/2025/DS-PT Bản án số 184/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất