Bản án số 180/2025/DS-ST ngày 26/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 5 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 180/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 180/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 180/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 180/2025/DS-ST ngày 26/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 5 - An Giang, tỉnh An Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 5 - An Giang, tỉnh An Giang |
| Số hiệu: | 180/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Công ty Sawad kiện anh D đòi tiền |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHU VỰC 5 –AN GIANG
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 180/2025/DS-ST
Ngày: 26 - 9 - 2025
V/v: “
Tranh chấp về hợp đồng
cầm cố tài sản và đòi tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 5 - AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có
:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
: Bà Nguyễn Thị Cẩm Hương
Các Hội thẩm nhân dân
:
1. Ông Trương Thanh Tuấn
2. Bà Phan Thị Triều Tiên
- Thư ký phiên tòa:
Bà Võ Thị Mỹ Nhan
–
Thư ký Tòa án nhân dân khu vực
5 – An Giang.
-
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 5 - An Giang tham gia phiên
tòa
: Bà Thị Xà Ly
- Kiểm sát viên.
Trong ngày 26 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 5 – An
Giang xử sơ thẩm công khai
vụ án dân sự thụ lý số: 62/2025/TLST-DS ngày 28
tháng 02 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng cầm cố tài sản và kiện đòi tài
sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2025/QĐXXST-DS, ngày 21 tháng
8 năm 2025. Giữa:
- Nguyên đơn
: Công ty cổ phần S
Địa chỉ: 128 Nguyễn D, phường Bến T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An (nay
là 128 Nguyễn D, phường Trường V, tỉnh Nghệ An)
Người đại diện theo pháp luật
: Ông Kanokwatpaisal N – Chức vụ: Giám đốc
(vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền
: Ông Huỳnh Văn L, sinh năm: 1984 – Chức
vụ: Nhân viên (có đơn xin vắng mặt)
- Bị đơn:
Anh Huỳnh Thanh D, sinh năm: 1984 (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (nay là ấp T, xã G,
tỉnh An Giang)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, ý kiến thể hiện trong hồ sơ vụ án, người đại diện theo uỷ
quyền của Công ty cổ phần S trình bày: Vào ngày 28/10/2022 anh Huỳnh Thanh D
có ký hợp đồng số KGM221001008NA21X để cầm cố tài sản là 01 xe máy biển số
68G1-939.41, loại xe Honda Wave 110cc, màu xanh đen bạc, số khung
RLHJA3924MY423324, số máy JA39E2448530 với Công ty cổ phần S với số tiền
cầm cố là 8.800.000 đồng, thời hạn cầm cố là 12 tháng, lãi suất thỏa thuận là

2
1,1%/tháng. Sau khi ký kết hợp đồng cầm cố tài sản, phía Công ty đã cho anh D
mượn lại xe để làm phương tiện đi lại, có làm giấy mượn xe. Tuy nhiên kể từ thời
điểm cầm cố tài sản đến nay, anh D không thanh toán cho Công ty cổ phần S khoản
tiền lãi và tiền gốc nào. Anh D đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán như thỏa thuận, phía
Công ty đã liên hệ qua điện thoại cho anh D nhiều lần nhưng không liên lạc được và
đã đến địa phương nơi cư trú của anh D để nhắc nhở nhưng anh D đã không còn cư
trú tại địa chỉ mà anh D đã cung cấp trong hợp đồng và không thông báo cho phía
Công ty được biết hiện anh D đi đâu làm gì. Xét thấy anh D đã vi phạm nghĩa vụ
thanh toán theo hợp đồng thỏa thuận làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của Công ty cổ phần S, nên công ty khởi kiện yêu cầu anh D phải thanh toán số tiền
gốc còn nợ là 8.800.000 đồng, lãi trong hạn là 2.449.040 đồng, lãi quá hạn 1.224.520
đồng, khoản tiền phí phạt vi phạm là 8.472.712 đồng, phí bảo dưỡng hao mòn xe là
6.679.200 đồng và buộc anh D giao trả lại xe đã mượn. Tuy nhiên, quá trình giải
quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần S xác định chỉ yêu
anh D trả số nợ gốc còn nợ là 8.800.000 đồng, lãi trong hạn là 2.449.040 đồng. Ngoài
ra, anh D còn phải tiếp tục thanh toán khoản nợ lãi phát sinh sau ngày xét xử sơ thẩm
(ngày 26-9-2025) theo mức lãi suất đã được các bên thỏa thuận tại hợp đồng cầm cố
tài sản đã ký kết cho đến khi thanh toán xong nợ cho phía Công ty.
Đối với yêu cầu buộc anh D trả chiếc xe máy biển số 68G1-939.41, loại xe
Honda Wave 110cc, màu xanh đen bạc, số khung RLHJA3924MY423324, số máy
JA39E2448530 đã cho anh D mượn lại để đi lại, lãi quá hạn 1.224.520 đồng, khoản
tiền phí phạt vi phạm là 8.472.712 đồng, phí bảo dưỡng hao mòn xe là 6.679.200
đồng phía Công ty cổ phần S rút lại yêu cầu này.
Bị đơn anh Huỳnh Thanh D không giao nộp văn bản thể hiện ý kiến đối với
yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần S.
Phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 5 –An
Giang
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử,
nguyên đơn trong vụ án được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự quy định. Riêng bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình
quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện
theo ủy quyền của Công ty cổ phần S rút lại yêu cầu anh D phải trả lại cho Công ty
chiếc xe máy đã cho mượn, lãi quá hạn 1.224.520 đồng, khoản tiền phí phạt vi phạm
là 8.472.712 đồng, phí bảo dưỡng hao mòn xe là 6.679.200 đồng. Việc rút lại yêu
cầu này là hoàn toàn tự nguyện không trái pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử áp
dụng khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu
này.
Đối với yêu cầu của Công ty cổ phần S về việc buộc anh D trả khoản tiền gốc
còn nợ là 8.800.000 đồng, khoản lãi trong hạn phát sinh theo hợp đồng là 2.449.040
đồng, tổng cộng các khoản gốc và lãi buộc anh D phải trả là 11.249.040 đồng. Ngoài
ra, anh D còn phải tiếp tục chịu khoản lãi phát sinh sau ngày xét xử theo mức lãi suất
đã được các bên thỏa thuận tại hHợp đồng cầm cố tài sản đã ký kết. Phía anh D
không có ý kiến phản đối, hợp đồng đã được các bên ký kết hợp pháp nên các bên

3
phải thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ đã được thỏa thuận ký kết tại hợp đồng, thời
điểm ký kết anh D đã cung cấp đúng địa chỉ cư trú nhưng hiện tại rời khỏi địa phương
mà không thông báo cho phía Công ty cổ phần S biết địa chỉ cư trú mới nên có căn
cứ cho rằng anh D cố tình giấu địa chỉ. Vì vậy, căn cứ vào khoản 4 Điều 11, Điều
309, Điều 310, Điều 311, Điều 312, Điều 313, Điều 314 của Bộ luật Dân sự năm
2015, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện này của Công
ty cổ phần S đối với anh Huỳnh Thanh D
Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều
26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn
giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị buộc anh D phải
chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về trình tự thủ tục tố tụng: Công ty S khởi kiện anh Huỳnh Thanh D về
việc buộc thực hiện nghĩa vụ trả tiền cầm cố tài sản theo hợp đồng đã ký kết nên đây
là tranh chấp về hợp đồng dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố
tụng dân sự và anh D có địa chỉ cư trú tại xã Giồng Riềng, tỉnh An Giang nên theo
quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân khu vực 5 - An Giang.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn có đơn xin vắng mặt. Anh D
với tư cách là bị đơn trong vụ kiện đã được Tòa án nhân dân khu vực 5 –An Giang
triệu tập hợp lệ tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng anh D đã vắng mặt tại nơi cư trú.
Tại thời điểm ký kết hợp đồng, anh D đã cung cấp địa chỉ cụ thể cho phía Công ty
cổ phần S nhưng sau khi rời khỏi địa phương, anh D không thông báo địa chỉ mới
cho phía Công ty biết để liên hệ nên đây được xác định là cố tình giấu địa chỉ. Do
đó Công ty cổ phần S đã cung cấp đúng địa chỉ của bị đơn và Tòa án tiến hành niêm
yết công khai các thủ tục tố tụng trên theo quy định của pháp luật. Toà án tiến hành
đưa vụ kiện ra xét xử vắng mặt các đương sự là có căn cứ phù hợp với quy định tại
khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố
tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Tại văn bản thể hiện ý kiến của người đại diện theo ủy quyền của Công
ty cổ phần S thể hiện trong hồ sơ vụ án xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối
với anh Huỳnh Thanh D về việc buộc anh D phải trả lại cho Công ty chiếc xe máy
đã cho mượn biển số 68G1-939.41, loại xe Honda Wave 110cc, màu xanh đen bạc,
số khung RLHJA3924MY423324, số máy JA39E2448530, lãi quá hạn 1.224.520
đồng, khoản tiền phí phạt vi phạm là 8.472.712 đồng, phí bảo dưỡng hao mòn xe là
6.679.200 đồng. Việc rút lại yêu cầu này của Công ty cổ phần S là hoàn toàn tự
nguyện xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, Hội đồng xét xử áp dụng
khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện Công ty cổ phần S về việc buộc anh Huỳnh Thanh
D giao trả số tiền cầm cố tài sản đã nhận và nợ lãi phát sinh từ hợp đồng cầm cố tài
sản đã được các bên thỏa thuận ký kết số KGM221001008NA21X ngày 28/10/2022,
tạm tính đến ngày xét xử là 11.249.040 đồng gồm tiền gốc còn nợ là 8.800.000 đồng,
khoản lãi trong hạn phát sinh theo hợp đồng là 2.449.040 đồng. Ngoài ra, anh D còn

4
phải trả cho Công ty cổ phần S khoản tiền lãi phát sinh sau ngày xét xử theo mức lãi
suất đã thỏa thuận tại hợp đồng số KGM221001008NA21X ngày 28/10/2022 cho
đến khi anh D thanh toán xong các khoản nợ trên.
Để chứng minh cho các yêu cầu khởi kiện trên, phía Công ty cổ phần S đã
cung cấp các tài liệu chứng cứ: Hợp đồng cầm cố số KGM221001008NA21X ngày
28/10/2022, giấy mượn xe, phiếu đăng ký yêu cầu giao dịch bảo đảm,... bản kê chi
tiết tính lãi phải trả và đã trả. Tính kể từ ngày 28/11/2022, kỳ trả nợ đầu tiên theo
thỏa thuận, phía anh D đã vi phạm hợp đồng, không thanh toán nợ theo thỏa thuận,
anh D đã vi phạm nghĩa vụ đối với Công ty cổ phần S. Phía Công ty cổ phần S cho
rằng cũng đã thông báo nhắc nhở cho anh D biết qua số điện thoại anh D đã cung
cấp và yêu cầu anh D thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền cầm cố tài sản theo thoả thuận
nhưng sau đó không liên lạc được và đã đến địa chỉ do anh D cung cấp để làm việc
nhưng anh D không có mặt tại nơi cư trú, đã rời khỏi địa phương nơi cư trú mà không
thông báo cho Công ty biết về nơi cư trú mới nên đối với việc vắng mặt trên của anh
D là cố tình giấu địa chỉ. Kể từ thời điểm thụ lý vụ án đến ngày mở phiên Tòa xét
xử, anh D không có giao nộp văn bản thể hiện ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện
của Công ty cổ phần S. Theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân
sự: “
Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng
văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho sự phản đối đó”
. Nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh D không
có ý kiến phản đối nào đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần S cũng như
chứng cứ do công ty cung cấp nên xem như anh D đã mặc nhiên thừa nhận.
[2.3] Xét thấy hợp đồng cầm cố tài sản số KGM221001008NA21X ký kết
ngày 28/10/2022 giữa các bên trên cơ sở tự nguyện thoả thuận, không vi phạm điều
cấm của luật và trái đạo đức xã hội. Hình thức của hợp đồng đảm bảo đúng trình tự
thủ tục do pháp luật quy định, việc thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng phù
hợp với các quy định của pháp luật nên hợp đồng cầm cố tài sản trên được xem là
hợp pháp. Theo các tài liệu chứng cứ phía Công ty cổ phần S cung cấp thể hiện
khoản tiền gốc mà anh D đã nhận 8.800.000 đồng. Tại hợp đồng cầm cố tài sản đã
ký kết thể hiện phương thức thanh toán gốc lãi phát sinh nhưng phía anh D đã vi
phạm nghĩa vụ thanh toán từ ngày 28/11/2022. Do anh D vi phạm nghĩa vụ thanh
toán nên phía Công ty cổ phần S yêu cầu anh D trả số nợ gốc còn lại là 8.800.000
đồng, khoản lãi trong hạn phát sinh theo hợp đồng là 2.449.040 đồng. Yêu cầu này
của Công ty cổ phần S là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 11, Điều
309, Điều 310, Điều 311, Điều 312, Điều 313, Điều 314 của Bộ luật Dân sự năm
2015. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp
nhận các yêu cầu khởi kiện này của Công ty cổ phần S.
Ngoài ra, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, anh D còn phải tiếp
tục trả khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất đã được các bên thỏa thuận tại hợp
đồng cầm cố tài sản số KGM221001008NA21X ngày 28/10/2022.
[3] Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, khoản
2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án;

5
Do yêu cầu của Công ty cổ phần S được chấp nhận nên buộc anh Huỳnh
Thanh D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch của số tiền 11.249.040 đồng
x 5% = 562.452 đồng (làm tròn 563.000 đồng)
Hoàn trả lại cho Công ty cổ phần S tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp
là 690.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0012942 ngày 28/02/2025 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Giồng Riềng (nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực 5- An
Giang)
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 - điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 - 3 Điều 228,
Điều 238, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng
dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu,
miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí.
Căn cứ vào khoản 4 Điều 11, Điều 309, Điều 310, Điều 311, Điều 312, Điều
313, Điều 314 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần S đối với anh
Huỳnh Thanh D
Buộc anh Huỳnh Thanh D giao trả khoản tiền cầm cố tài sản đã nhận gồm vốn
gốc, lãi phát sinh tạm tính đến ngày 26/9/2025 là 11.249.040 đồng (mười một hai
trăm bốn mươi chín nghìn không trăm bốn mươi đồng). Trong đó vốn gốc là
8.800.000 đồng (tám triệu tám trăm nghìn đồng), khoản lãi trong hạn phát sinh theo
hợp đồng là 2.449.040 đồng (hai triệu bốn trăm bốn mươi chín nghìn không trăm
bốn mươi đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, anh D còn phải tiếp tục trả
khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất nợ quá hạn đã được các bên thỏa thuận tại Hợp
đồng cầm cố tài sản số KGM221001008NA21X ngày 28/10/2022.
2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần S về việc
buộc anh Huỳnh Thanh D giao lại chiếc xe máy đã cầm cố biển số 68G2-033.18,
loại xe Yamaha Sirius110cc, màu xanh xám đen, số khung RLCUE3740NY169127,
số máy E32VE672039, lãi quá hạn 1.224.520 đồng (một triệu hai trăm hai mươi bốn
nghìn năm trăm hai mươi đồng), khoản tiền phí phạt vi phạm là 8.472.712 đồng (tám
triệu bốn trăm bảy mươi hai nghìn bày trăm mười hai đồng), phí bảo dưỡng hao mòn
xe là 6.679.200 đồng (sáu triệu sáu trăm bảy mươi chín nghìn hai trăm đồng) do
Công ty cổ phần S rút lại yêu cầu này.
3. Về án phí:
Buộc anh Huỳnh Thanh D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là
563.000 đồng (năm trăm sáu mươi ba nghìn đồng)
Hoàn trả lại cho Công ty cổ phần S tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp
là 690.000 đồng (sáu trăm chín mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0012942
ngày 28/02/2025 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng (nay là Phòng
thi hành án dân sự khu vực 5- An Giang)

6
Báo cho các bên đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định
là 15 (mười lăm) ngày được tính kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc án bản
án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b, 7d và Điều 9 của Luật
thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
-
TAND tỉnh AG;
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND tỉnh AG;
- VKSNDKV5 –AG;
- Phòng THADSKV5- AG;
- Các đương sự;
- Lưu.
Nguyễn Thị Cẩm Hương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 22/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 06/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 04/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm