Bản án số 170/2024/DS-PT ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 170/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 170/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 170/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 170/2024/DS-PT ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Nam Định |
Số hiệu: | 170/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Đặng Thị T - Nguyễn Văn V |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 170/2024/DS-PT
Ngày: 10-9-2024
V/v: Tranh chp lối đi chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lại Văn Tùng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Công
Ông Nguyễn Đức Cảnh
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Nam
Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa: Bà
Mai Thị Bích Huyên - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 171/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 7 năm 2024
về “Tranh chp lối đi chung”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 346/2024/QĐXXPT-DS
ngày 28 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị T, sinh năm 1976; Nơi thường trú: Xóm D, xã H,
huyện H, tỉnh Nam Định;
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1962 và bà Dương Thị Đ, sinh năm
1969; Cùng nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1959 và bà Phạm Thị S, sinh năm 1959; Cùng
nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định;
2. Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1963; Nơi thường trú: Xóm F, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
3. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị S1, sinh năm 1970;
Cùng nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định;
2
4. Ông Trần Nam D, sinh năm 1975; Nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
5. Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Người đại diện theo pháp
luật: Ông Nguyễn Hồng T2 - Chức vụ: Chủ tịch UBND xã H.
6. - Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn V là bị đơn trong vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Có mặt bà Đặng Thị T, ông Nguyễn Văn V, ông
Nguyễn Hồng T2. Vắng mặt bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn Q, ông Nguyễn
Văn N, bà Nguyễn Thị S1, bà Phạm Thị S, ông Trần Nam D, bà Dương Thị Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 01 tháng 11 năm 2023 và lời khai trong quá trình
Tòa án giải quyết vụ án nguyên đơn bà Đặng Thị T trình bày:
Năm 1998, vợ chồng bà T, ông D nhận chuyển nhượng từ ông L thửa đt số
217 diện tích 140m
2
và thửa đt số 177 diện tích 557m
2
(đều thuộc tờ bản đồ số 30
xã H). Bà T, ông D đã được cp Giy chứng nhận quyền sử dụng đt ngày 02-12-
2000 đối với cả hai thửa đt trên. Trước khi ông L chuyển nhượng, giữa các thửa đt
thuộc quyền sử dụng của hộ ông L, hộ ông V, hộ ông N, hộ ông Q, cụ T3 có lối đi
chung ở vị trí giữa, chia cắt thổ đt của các hộ sử dụng thành hai thửa riêng biệt. Vì
việc sử dụng đt lối đi như trên không thuận tiện nên các hộ sử dụng lối đi chung đã
thống nht chuyển lối đi giữa các thổ xuống phía nam. Việc thỏa thuận thống nht
đổi đt lối đi về phía nam được xóm, xã đồng ý. Hộ ông L, ông V, ông N, ông Q, cụ
T3 đã cùng nhau tự nguyện bỏ ra một phần đt làm lối đi trong đó phần đầu lối đi
giáp đường (dọc theo đt cụ T3) rộng 3,5m; đoạn còn lại qua các thổ đt thuộc quyền
sử dụng của hộ ông N, ông V, ông L ra đến bờ sông rộng 4m. Khi gia đình bà T nhận
bàn giao đt từ ông L, lối đi phía nam đã hình thành như trên, các hộ dân trong đó
có hộ ông V, hộ ông L sử dụng để đi lại không tranh chp. Phần lối đi giáp đt hộ
cụ T3, ông N, ông V các hộ đã đổ bê tông rộng 2m ở giữa lối đi. Phần lối đi còn lại
qua thửa ông V và thổ ông D vào đến giáp sông chưa đổ bê tông. Sau khi nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đt từ hộ ông L, gia đình bà T đi nam làm kinh tế đến
khoảng năm 2007 thì về đổ bê tông rộng 2m phần đt lối đi còn lại để gia đình bà T
và các hộ đi lại cho thuận tiện. Lối đi phía nam này không chỉ gia đình bà T sử dụng
mà tt cả các hộ trong đó có gia đình ông V, ông N, ông Q, cụ T3 đều sử dụng.
Khoảng từ năm 2009, hộ ông V và hộ ông D xảy ra tranh chp về quyền sử
dụng đt. Năm 2016, ông V khởi kiện tại Tòa án tranh chp với ông D, bà T về ranh
giới quyền sử dụng đt, không tranh chp về lối đi chung. Tòa án nhân dân hai cp
đã bác đơn khởi kiện của ông V. Cũng kể từ khi xảy ra tranh chp về ranh giới quyền
sử dụng đt, hộ ông V, hộ ông D luôn mâu thuẫn với nhau trong sinh hoạt, ông V
nhiều lần ngăn cản không cho hộ ông D sử dụng lối đi chung phía nam. Tháng 3
năm 2023, ông V xây tường rào cao khoảng 1,6m chắn ngang lối đi không cho gia
đình ông D, bà T đi lại. Ủy ban nhân dân xã H cùng đại diện cơ sở đã nhiều lần hòa
giải nhưng không thành.
3
Đến nay, bà T đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu công nhận Hợp đồng
đổi đt lối đi giữa các hộ từ năm 1996 đồng thời công nhận phần đt diện tích 213m
2
tại vị trí phía Nam các thửa đt số 217, 181, 182, 183 thuộc quyền sử dụng của lần
lượt các hộ ông D, ông V, ông N, cụ T3 là lối đi chung. Xác định diện tích đt lối đi
cũ theo bản đồ địa chính do UBND xã quản lý diện tích 51m
2
, phần diện tích còn lại
của các hộ đóng góp để làm lối đi chung như kết quả đo hiện trạng, cụ thể: Diện tích
61m
2
thuộc thửa đt số 217 tờ bản đồ số 30 xã H; diện tích 49 m
2
thuộc thửa đt số
181 tờ bản đồ số 30 xã H; diện tích 37 m
2
thuộc thửa đt số 182 tờ bản đồ số 30 xã
H; diện tích 15 m
2
thuộc thửa đt số 183 tờ bản đồ số 30 xã H. Buộc ông Nguyễn
Văn V, bà Dương Thị Đ phải tháo dỡ tường rào, cổng tôn dài 4m xây dựng trên phần
đt diện tích 49m
2
kể trên làm lối đi chung cho các hộ sử dụng.
* Tại bản tự khai ngày 12-12-2023 và lời khai trong quá trình tố tụng, bị đơn
ông Nguyễn Văn V, bà Dương Thị Đ cùng ý kiến trình bày:
Những năm trước đây, tại bản đồ địa chính, giữa các thửa đt thuộc quyền sử
dụng của hộ ông L, ông V, ông N, cụ T3 có lối đi rộng khoảng 2m từ giáp đường
vào đến giáp sông qua các thửa đt kể trên. Nhưng do việc sử dụng lối đi đó không
thuận tiện cho việc khai thác, sử dụng đt nên các hộ dân đã thống nht đổi đt lối
đi giữa thổ xuống lối đi phía nam các thửa để sử dụng cho thuận lợi. Các hộ dân gồm
hộ cụ T3, hộ ông N, hộ ông V, hộ ông L đều tự nguyện bỏ ra một phần đt để mở
rộng lối đi, cùng nhau đổ bê tông rộng 2m phần đt giữa lối đi để thuận tiện cho việc
đi lại. Gia đình ông V cũng nht trí việc chuyển lối đi như trên, thực tế có sử dụng
lối đi phía nam cùng các hộ dân khác đi lại từ đó cho đến nay.
Tuy nhiên, từ khoảng năm 2009, hộ ông D, bà T đã có hành vi làm thay đổi
ranh giới, ln chiếm quyền sử dụng đt của gia đình ông V, bà Đ. Gia đình ông V đã
nhiều lần làm đơn đề nghị Ủy ban nhân dân xã G. Ban địa chính xã cùng Ủy ban xã
đã đưa 33 m
2
đt đường dong xóm vào đt thổ gia đình ông V cho đủ diện tích đt
còn thiếu. Đến năm 2015, ông V khiếu nại UBND huyện giải quyết buộc gia đình
ông D trả lại đt cho gia đình ông V để ông V trả lại đt xã hội theo chỉ đạo của
UBND huyện. UBND xã giải quyết không trả đt cho gia đình ông V mà giải tỏa ra
sông. Ông V đã khởi kiện, bản án sơ thẩm, phúc thẩm và UBND huyện chỉ đạo giữ
nguyên mô mốc theo hiện trạng sử dụng từ năm 2009. Tòa án đã đo và đã kí biên
bản quyết định bổ sung sửa chữa bản án; thi hành án đã công nhận diện tích 33 m
2
đt lối đi giữa các thửa đt thuộc quyền sử dụng của ông V, bà Đ là đt của gia đình
ông V. UBND huyện đã chỉ đạo cho UBND xã cùng Văn phòng đt đai huyện làm
thủ tục đổi lại GCNQSDĐ cho gia đình ông V. Như vậy, diện tích đt lối đi cũ hộ
ông V đã được các cp chính quyền công nhận; phần đt lối đi mới phía nam bà T
khởi kiện cũng là đt thuộc quyền sử dụng của gia đình ông V. Lối đi phía nam chỉ
có hộ ông V cùng các hộ phía ngoài được quyền sử dụng. Ông V không cho hộ ông
D đi nhờ qua đt ông V nên đã xây tường cao 1,5m để vây thổ. Lối đi cũ theo hồ sơ
địa chính, các hộ khác cùng gia đình ông V đã xây dựng công trình kiên cố để sử
dụng nên ông V cũng xác nhận lối đi phía nam như hiện trạng dài từ đường xóm vào
4
đến giáp thửa đt số 178 (thuộc quyền sử dụng của hộ ông V, không kéo dài hết thửa
đt này) là lối đi chung. Đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà T.
* Tại văn bản ghi ngày 26-03-2024, UBND xã H trình bày: Năm 1998, gia
đình ông Trần Nam D và bà Đặng Thị T nhận chuyển nhượng thửa đt số 217, 177
cùng tờ bản đồ số 30, xã H của hộ gia đình ông L. Các thửa đt liên quan đến lối đi
tranh chp gồm: Thửa đt số 178, 181 thuộc quyền sử dụng của hộ ông V; thửa số
179, 182 thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình ông N, thửa số 180 thuộc quyền sử
dụng của hộ ông Q, thửa 183 thuộc quyền sử dụng của hộ cụ T3.
Bản đồ địa chính năm 1998 thể hiện: Giữa các thửa đt trên thuộc quyền sử
dụng của hộ ông L (D), hộ ông V, hộ ông Q, hộ ông N, hộ cụ T3 có lối đi chung
chạy dọc đông tây chia cắt thổ đt của các hộ thành 02 thửa. Do việc sử dụng lối đi
như trên bản đồ không thuận tiện nên các hộ sử dụng lối đi chung đã thống nht tự
nguyện cùng nhau bỏ ra một phần đt chuyển lối đi chung theo bản đồ (ở vị trí giữa
các hộ) đến phía nam thổ của các gia đình. Phần đt lối đi cũ theo bản đồ hiện các
gia đình trên đều sử dụng mục đích riêng, không sử dụng làm lối đi. Việc tự nguyện
bỏ một phần đt mở rộng lối đi chung như hiện nay của các hộ được sự nht trí của
cơ sở xóm và UBND xã. Từ đó, các hộ gia đình đã sử dụng lối đi phía nam từ giáp
đường qua các thổ đt thuộc quyền sử dụng hộ cụ T3, hộ ông N, hộ ông V, hộ ông
L vào đến giáp sông ra đồng.
Từ khi gia đình bà T, ông D nhận chuyển nhượng đt của hộ ông L năm 1998
thì các hộ gia đình trên đã đổ đường bê tông trên lối đi mới phía Nam để đi lại. Tuy
nhiên, từ khoảng năm 2000, hộ ông V và hộ ông D xảy ra tranh chp ranh giới quyền
sử dụng đt, mặc dù đã được Tòa án hai cp xét xử nhưng các bên vẫn thường xuyên
mâu thuẫn về ranh giới kéo theo tranh chp cả về lối đi chung. Ngày 07-5-2023, ông
V tự ý xây tường rào ngăn đường không cho gia đình ông D và bà con sử dụng lối
đi. UBND xã H đã làm việc, yêu cầu ông V tháo rỡ để nhân dân đi lại, nhưng ông V
không chp hành. Tại buổi làm việc ngày 08-10-2023, hộ bà T, ông Q, ông N vẫn
nht trí dành ra một phần đt làm lối đi chung như biên bản các bên đã thống nht
và hiện trạng sử dụng hiện nay. Ông V cũng nht trí lối đi như hiện trạng sử dụng
nhưng cho rằng các cp chính quyền đã công nhận các phần đt lối đi cũ (giữa 2
thửa đt thuộc quyền sử dụng hộ ông V) và phần đt lối đi phía nam hiện nay thuộc
thửa 181 đều thuộc quyền sử dụng của hộ ông V nên ông V không đồng ý dành lại
phần đt phía nam để bà T sử dụng làm lối đi như bà T yêu cầu.
Nay bà T yêu cầu Toà án công nhận Hợp đồng đổi đt lối đi giữa các hộ từ
năm 1996 đồng thời công nhận vị trí phía Nam các thửa đt số 217 của hộ ông D,
thửa số 181 của hộ ông V, thửa số 182 của hộ gia đình ông N, thửa số 183 của hộ
ông T3 là phần đt thuộc lối đi chung, buộc ông V phải tháo dỡ bức tường xây chắn
ngang lối đi (phần giáp đt hộ ông D) để hộ ông D và các hộ dân khác cùng sử dụng,
UBND xã H đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật, ổn định tình
hình an ninh trật tự tại địa phương. Do phải điều hành công việc nên UBND xã đề
nghị được vắng mặt tại các buổi làm việc, các phiên tòa của Tòa án các cp.
5
* Tại các bản tự khai ngày 16-4-2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn Q, bà Phạm Thị S, ông Nguyễn Văn N, bà
Nguyễn Thị S1 trình bày:
Hộ gia đình ông N, bà S1 sử dụng các thửa đt số 179,182; hộ gia đình ông
Q, bà S sử dụng thửa 180; bà T1, ông Q là các con cụ T3 (đã chết) đang quản lý thửa
đt số 183 (cụ T3). Thửa đt số 178, 181 thuộc quyền sử dụng của thửa ông V; thửa
đt số 177, 217 thuộc quyền sử dụng hộ ông D (nhận chuyển nhượng từ hộ ông L).
Các thửa đt trên đều cùng tờ bản đồ số 30, xã H.
Trước đây, giữa các thửa đt trên có lối đi chung chạy dọc đông tây chia cắt
thổ đt của các hộ thành 02 thửa, lối đi này đã được thể hiện trên bản đồ địa chính
năm 1998. Vì việc sử dụng đt như trên không thuận tiện nên các hộ sử dụng ngõ đi
chung đã thống nht chuyển lối đi chung theo bản đồ (ở vị trí giữa thổ của các hộ)
đến phía nam thổ của các gia đình, phần lối đi cũ theo bản đồ thẳng thổ đt của gia
đình nào thì gia đình đó sử dụng. Việc đổi đt lối đi chung như trên được sự nht trí
của cơ sở xóm 6 và UBND xã H (nay là xã H) và các hộ gia đình. Từ khi gia đình
bà T, ông D nhận chuyển nhượng đt của hộ ông L năm 1998 thì các hộ gia đình
trên đã đổ đường bê tông trên lối đi mới phía Nam để đi lại. Thời gian gần đây, ông
V xây tường rào cao 1,5m tại phần đt giáp ranh giới với các thửa đt của hộ ông
Dương n lối đi vào của thổ ông D, không cho gia đình bà T và người dân đi lại. Thực
tế, từ khoảng năm 1996 đến nay, các hộ gia đình vẫn sử dụng lối đi này như hiện
trạng để đi ra đường phía đông và ra đồng phía tây. Phần đt đã thống nht để lại
làm lối đi chung này theo kết quả đo hiện trạng các hộ gia đình ông Q, ông N, bà T1
không ý kiến thắc mắc gì, nht trí đề nghị Tòa án công nhận lối đi này là lối đi chung
như hiện trạng; không yêu cầu gì đối với các đương sự khác. Phần tranh chp giữa
hộ bà T và hộ ông V, ông Q, ông N, bà T1, bà S, bà S1 đề nghị Tòa án giải quyết
theo quy định pháp luật.
Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý số 173/TB-
TLVA ngày 22-11-2023; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Trần Nam D là người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan nhưng ông D không đến Tòa án làm việc, không đưa ra lý do của sự vắng
mặt và không gửi các văn bản trình bày ý của mình về yêu cầu khởi kiện của bà T.
Đồng thời, Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định cũng tống đạt hợp lệ
Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông D nhưng đến
nay ông D vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần 2 không lý do.
* Từ nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 20 tháng
5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu đã quyết định: Căn cứ Điều 254
Bộ luật Dân sự; khoản 10 Điều 12, Điều 166 Luật đt đai; Điều 227, Điều 228 Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Xử chp nhận một phần yêu cầu về “Tranh chp lối đi chung” của bà Đặng
Thị T đối với ông Nguyễn Văn V và bà Dương Thị Đ.
6
Tuyên bố Hợp đồng đổi đt lối đi giữa hộ ông Trần Văn D1, hộ ông Nguyễn
Văn V, hộ ông Nguyễn Văn Q, hộ ông Nguyễn Văn N, hộ cụ Nguyễn Văn T4 là vô
hiệu. Không giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Xác định phần đt diện tích 213m
2
(S,S3’,S7’,S7,S12,S18) là lối đi chung.
Trong đó: Phần đt lối đi theo bản đồ địa chính do Ủy ban nhân dân xã H quản lý
diện tích 51m
2
(ký hiệu S; giới hạn bởi các điểm 14,15,16,24,25,25’,16’,14); diện
tích 61m
2
đt NTS
thuộc thửa đt số 217 tờ bản đồ số 30 xã H (ký hiệu S3’; giới hạn
bởi các điểm 6’,6,7,35,6’); diện tích 19 m
2
đt NTS thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ
số 30 xã H (ký hiệu S7; giới hạn bởi các điểm 6,13,14,15,16,7’,6); diện tích 30 m
2
đt NTS thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ số 30 xã H (ký hiệu S7’; giới hạn bởi các
điểm 6’,7’,6,6’); diện tích 37 m
2
đt NTS thuộc thửa đt số 182 tờ bản đồ số 30 xã
H (ký hiệu S12; giới hạn bởi các điểm 7’,16,24,23,7’); diện tích 15 m
2
đt ONT
thuộc thửa đt số 183 tờ bản đồ số 30 xã H (ký hiệu S18; giới hạn bởi các điểm
23,24,25,26,23).
Buộc ông Nguyễn Văn V, bà Dương Thị Đ phải tháo dỡ tường rào cao 1,5m
dài 3,38 m và cổng tôn dài 0,62m và 02 cọc bê tông cao 2m xây dựng trên phần đt
diện tích 49m
2
thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ 30 xã H.
(Việc xác định quyền sử dụng đt lối đi có sơ đồ vẽ kèm theo).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và biện pháp đảm
bảo thi hành án của các đương sự.
* Ngày 20 tháng 5 năm 2024 ông Nguyễn Văn V là bị đơn trong vụ án có đơn
kháng cáo đối với bản án số 76/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Hải Hậu với nội dung: Không chp nhận bản án xét xử ngày 20-5-
2024 do bà Đặng Thị T khởi kiện lối đi chung. Quyết định lối đi chung của bản án
số 57 đã quyết đáp, phúc đáp quyền Tòa án tối cao, Tòa án sơ thẩm không có quyền
về bàn giao mô mốc đt thổ đt canh cũng như cho gia đình ông theo quyết định bổ
sung của Tòa án cũng như thi hành án đã có quyết định. Ông không chp nhận bản
án, không nộp bt cứ khoản tiền nào khác 33m
2
lối đi chung đã thuộc quyền sử dụng
đt của gia đình ông đã thể hiện trên biên bản hiện trạng sử dụng, biên bản bổ sung
của Tòa án cũng như thi hành án. Ông V kháng cáo toàn bộ bản án không nht trí
với bản án đã tuyên.
* Tại phiên toà phúc thẩm: Bà Đặng Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cp sơ thẩm, không chp nhận lý do kháng
cáo của ông V đề nghị cp phúc thẩm giải quyết giữ nguyên như bản án sơ thẩm,
ông Nguyễn Văn V vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cp sơ thẩm, giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo, không chp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, các đương
sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Về
tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án
7
cũng như tại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng chp hành đúng các
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, quyền lợi của các đương sự được bảo đảm.
Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thy rằng có cơ sở
chp nhận một phần yêu cầu của bà Đặng Thị T. Không công nhận Hợp đồng đổi
đt lối đi giữa các hộ lập năm 1996 có xác nhận của đại diện cơ sở xóm F xã H.
Công nhận phần đt diện tích 213m
2
tại vị trí phía Nam các thửa đt gồm: Thửa số
217 (thuộc quyền sử dụng hộ D1), thửa số 181 (thuộc quyền sử dụng hộ ông V),
thửa đt số 83 (thuộc quyền sử dụng của hộ cụ T4) và thửa đt số 182 (thuộc quyền
sử dụng của hộ ông N) là lối đi chung. Xác định diện tích đt lối đi cũ theo bản đồ
địa chính do UBND xã quản lý diện tích 51m
2
, phần diện tích còn lại của các hộ
đóng góp để làm lối đi chung như kết quả đo hiện trạng, cụ thể: Diện tích 61m
2
thuộc
thửa đt số 217 tờ bản đồ số 30 xã H; diện tích 49 m
2
thuộc thửa đt số 181 tờ bản
đồ số 30 xã H; diện tích 37 m
2
thuộc thửa đt số 182 tờ bản đồ số 30 xã H; diện tích
15 m
2
thuộc thửa đt số 183 tờ bản đồ số 30 xã H. Buộc ông Nguyễn Văn V, bà
Dương Thị Đ phải tháo dỡ tường rào và cổng tôn dài 4m xây dựng trên phần đt
diện tích 49m
2
kể trên làm lối đi chung cho các hộ sử dụng. Vì vậy, kháng cáo của
ông V là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ
luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm. Về án phí đề nghị giải quyết theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Dương Thị Đ đã ủy quyền cho ông Nguyễn Văn V. Bà
Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn Q, ông Nguyễn Văn N, bà Nguyễn Thị S1, bà
Phạm Thị S, ông Trần Nam D đã có ý kiến xin được vắng mặt tại phiên toà, họ không
có kháng cáo nên việc xét xử vắng mặt họ không ảnh hưởng gì đến quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án
tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ.
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn V làm trong thời hạn luật định phù
hợp với quy định tại khoản 1 Điều 272; khoản 1 Điều 273; Điều 276 Bộ luật Tố tụng
Dân sự nên được Hội đồng xét xử chp nhận xem xét giải quyết.
[3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Đặng Thị T khởi kiện ông Nguyễn
Văn V, bà Dương Thị Đ yêu cầu xác định lối đi chung giữa đt của gia đình bà T và
đt của các gia đình ông V, bà Đ, gia đình ông N, gia đình ông Q, gia đình cụ T4 có
địa chỉ tại xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Căn cứ quy định tại khoản 9
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân
sự thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh
Nam Định.
[4] Về quan hệ pháp luật: Bà Đặng Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
xác định cho gia đình bà có lối đi ra đường công cộng. Vì vậy, quan hệ pháp luật
8
được xác định là “Tranh chp về lối đi chung” với hộ ông Nguyễn Văn V. Toà án
cp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chp.
[5] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn V kháng cáo toàn bộ bản án không
nht trí với bản án đã tuyên thy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương
sự đều công nhận khoảng từ năm 1996, do việc sử dụng lối đi giữa các thửa đt mà
các hộ đang sử dụng không thuận lợi nên các hộ gồm cụ T4, ông Q, ông N, ông L
đã thỏa thuận tự nguyện bỏ ra một phần đt mở rộng lối đi phía nam thửa đt mà các
hộ đang sử dụng để làm lối đi chung. Mặc dù thỏa thuận này không lập thành văn
bản nhưng các hộ đều nht trí, tự nguyện để lại một phần đt thuộc quyền sử dụng
của gia đình mình để mở lối đi chung; quá trình sử dụng không xảy ra tranh chp.
Sau khi ông L chuyển nhượng các thửa đt số 177 và 217 cho hộ ông D có bàn giao
các thửa đt và lối đi như hiện trạng sử dụng; hộ ông D cũng sử dụng lối đi phía nam
qua các thửa đt thuộc quyền sử dụng của hộ ông V, hộ ông N, hộ cụ T4. Phần đt
lối đi giữa các thửa đt trên, tiếp giáp với thửa đt của hộ gia đình nào thì hộ gia
đình đó được sử dụng, hiện trạng các hộ đều đã xây dựng công trình, đổ bê tông, lợp
mái sử dụng. Từ khoảng năm 2009, hộ ông V và hộ ông D tranh chp về ranh giới
quyền sử dụng đt rồi dẫn đến tranh chp về lối đi phía nam như hiện nay.
[6] Đến thời điểm hiện nay bà T, hộ ông N, hộ ông Q, các đồng thừa kế của
cụ T4 đều đề nghị Tòa án công nhận việc đổi đt lối đi như trên. Ông V công nhận
có việc các hộ dân thỏa thuận đổi đt nhưng không nht trí yêu cầu mở lối đi cho hộ
ông D với lý do phần đt lối đi giữa thửa mà đương sự trình bày Tòa án hai cp và
chính quyền địa phương đã công nhận quyền sử dụng đt cho ông V nên không thuộc
đt đổi, ông V không sử dụng đt của Ủy ban, không phải để đt lại làm lối đi cho
hộ ông D.
[7] Xét thy mặc dù việc đổi đt lối đi như trên của các hộ dân được các hộ
dân công nhận, thực tế đã xảy ra nhiều năm nay. Tuy nhiên, phần đt lối đi giữa các
thửa đt mà hộ gia đình ông D, hộ ông V, hộ ông N, hộ ông Q, cụ T4 đang sử dụng
chủ thể quản lý là Nhà nước, các hộ dân đều được quyền sử dụng nhưng không có
các quyền khác của người sử dụng đt như quyền chuyển nhượng, chuyển đổi…. Vì
vậy, hợp đồng đổi đt lối đi mà bà T yêu cầu là không hợp pháp nên Hội đồng xét
xử không công nhận. Thông qua kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện: Phần
đt lối đi giữa các thửa 177 và 217 diện tích 62 m
2
(S2) hộ ông D đang sử dụng;
phần đt lối đi giữa các thửa 178 và 181 diện tích 56 m
2
(S5) hộ ông V đang sử dụng;
phần đt lối đi giữa các thửa 179 và 182 diện tích 57 m
2
(S10) hộ ông N đang sử
dụng; phần đt lối đi giữa các thửa 248 và 183 diện tích 43 m
2
hộ ông Q, cụ T4 đang
sử dụng (trong đó hộ ông Q sử dụng diện tích 36 m
2
; hộ cụ T4 sử dụng diện tích 7
m
2
). Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều không yêu cầu, không tranh chp
phần đt này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Xét yêu cầu công nhận phần đt diện tích 213m
2
là lối đi chung thì thy:
Đến nay tt cả các đương sự đều công nhận: Từ khoảng năm 1996 đến nay, các hộ
gồm hộ cụ T4, hộ ông N, hộ ông V, hộ ông L đã tự nguyện bỏ ra một phần đt giáp
9
với phần đt lối đi phía nam đt của các hộ để sử dụng làm lối đi chung. Kế quả đo
hiện trạng thể hiện: Lối đi phía nam các thửa đt số 183,182,181 tờ bản đồ số 30 xã
H có tổng diện tích 51m
2
, giới hạn bởi các điểm 14,15,16,24,25,25’,16’,14. Hiện
trạng sử dụng, lối đi này đã được mở rộng về phía bắc trong đó phần đt các thửa tự
nguyện dành ra để mở rộng lối đi như sau: diện tích 15 m
2
(S18) thuộc thửa 183
(Thoang); diện tích 37 m
2
(S12) thuộc thửa 182 (Ngũ); diện tích 49 m
2
thuộc thửa
181 (Viết); diện tích 61 m
2
thuộc thửa 217 (Dương). Các hộ đã cùng nhau đổ bê tông
rộng 2m phần giữa lối đi để đi lại, phần còn lại là đt trống. Trên phần đt lối đi này,
ông V đã xây tường cao 1,5m dài 3,38m và dựng cánh cổng bằng tôn rộng 0,62m
ngăn không cho hộ ông D và các hộ khác sử dụng. Bà T và các hộ dân khác đang sử
dụng lối đi chung đều đề nghị Tòa án buộc ông V, bà Đ tháo dỡ tường để các hộ sử
dụng lối đi theo hiện trạng sử dụng từ trước khi hộ ông V, ông D tranh chp. Ông V
xác định phần đt này là đt thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình ông V đã được
cp sổ đỏ, ông V có quyền tự ý xây công trình, có quyền cho hoặc không cho các hộ
dân khác sử dụng đi lại.
[9] Hội đồng xét xử xét thy: Mặc dù phần đt diện tích 49 m
2
hiện đang tranh
chp thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ số 30 xã H thuộc quyền sử dụng của hộ ông V.
Thửa đt hộ ông D sử dụng liền kề phía trong với thửa đt ông V sử dụng ngoài lối
đi đang tranh chp thì không còn lối đi nào khác. Lối đi do UBND xã quản lý các hộ
dân trong đó có cả hộ ông V đều đã xây công trình sử dụng hiện không thể làm lối
đi lại được. Mặc dù hợp đồng đổi đt lối đi giữa các hộ từ năm 1996 là vô hiệu nhưng
thực tế các hộ đều đã tự nguyện dành ra một phần đt từ năm 1996 đến nay để mở
và mở rộng lối đi phía nam như hiện trạng đã được Tòa án cp sơ thẩm xem xét thẩm
định ngày 24-01-2024. Ông V cho rằng phần đt lối đi diện tích 56m
2
giữa thửa số
178 và thửa 181 đã được Tòa án các cp và chính quyền công nhận thuộc đt hộ ông
V là không có căn cứ pháp lý. Hộ ông V đã sử dụng đt lối đi xây dựng công trình
kiên cố để sử dụng, tự nguyện để lại một phần đt diện tích 49 m
2
làm lối đi chung
cùng các hộ dân khác từ năm 1996 đến nay. Kể từ thời điểm các hộ dân tự nguyện
dành các phần đt trên làm lối đi chung thì các phần đt này đã là đt lối đi, việc
quản lý, sử dụng đt lối đi theo quy định pháp luật. Việc ông V thay đổi nguyện
vọng, không dành đt làm lối đi chung không được sự thỏa thuận nht trí của các hộ
dân đồng thời khiến hộ ông D không còn lối đi. Trong khi đó, quyền lối đi là quyền
của người sử dụng đt được quy định tại Điều 254 Bộ luật Dân sự. Việc ông V, bà
Đ tự ý xây tường chắn ngang lối các hộ dân đang sử dụng, cản trở việc sử dụng lối
đi là vi phạm quy định của pháp luật về quyền sử dụng lối đi chung. Do đó, có cơ sở
chp nhận yêu cầu của bà T, buộc ông V, bà Đ phải dành lại phần đt diện tích 49
m
2
làm đt lối đi chung và phải tháo dỡ tường xây, cánh cửa tôn, cọc bê tông xây
dựng trên phần đt kể trên để trả lại đt lối đi chung.
[10] Qua những phân tích nêu trên đã cho thy những kết luận trong bản án
sơ thẩm là hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật, quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên đương sự được pháp luật bảo vệ không bị xâm hại. Tòa án cp
sơ thẩm đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Tại phiên
10
tòa phúc thẩm ông Nguyễn Văn V cũng không đưa ra được các chứng cứ và lý lẽ để
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, yêu cầu kháng
cáo của ông V không được chp nhận cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[11] Về chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được
Tòa án chp nhận nên bị đơn phải nộp toàn bộ chi phí tố tụng và án phí dân sự sơ
thẩm theo quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã nộp tạm
ứng án phí, tạm ứng chi phí tố tụng, tự nguyện nộp chi phí tố tụng. Nguyên đơn đã
nộp đủ chi phí tố tụng. Bị đơn ông Nguyễn Văn V thuộc diện người cao tuổi, đề nghị
xét miễn án phí nên được miễn án phí phải nộp; bị đơn bà Dương Thị Đ phải nộp án
phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Nguyên đơn bà Đặng Thị T không phải
nộp án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại tiền án phí phải nộp.
[12] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của ông Nguyễn Văn V không
được chp nhận nên ông V phải nộp án phí dân sự phúc thẩm nhưng hiện nay ông V
là người cao tuổi theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì ông V
được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.
[13] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
Căn cứ các Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 10, Điều 12; Điều 166;
Điều 170 và Điều 203 Luật đt đai năm 2013; khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều
35; điểm c khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 148; khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26; Điều 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Giữ nguyên Quyết định bản án sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 20-5-2024
của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Văn
V. Buộc bà Dương Thị Đ phải nộp 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) án
phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại bà Đặng Thị T 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền
tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai số 0002944 ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí cho ông Nguyễn Văn V.
11
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, người phải thi hành án dân sự bị đơn có quyền thoả thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện Hải Hậu;
- TAND huyện Hải Hậu;
- Chi cục THADS huyện Hải Hậu;
- Lưu HS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lại Văn Tùng
12
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Thành Công
Nguyễn Đức Cảnh
THẨM PHÁN –
CHỦ TỌA PHIÊN
TÒA
Lại Văn Tùng
Tải về
Bản án số 170/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 170/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm