Bản án số 170/2024/DS-PT ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 170/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 170/2024/DS-PT ngày 10/09/2024 của TAND tỉnh Nam Định về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Nam Định
Số hiệu: 170/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Đặng Thị T - Nguyễn Văn V
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH NAM ĐỊNH
Bản án số: 170/2024/DS-PT
Ngày: 10-9-2024
V/v: Tranh chp lối đi chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Lại Văn Tùng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Công
Ông Nguyễn Đức Cảnh
- Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thảo - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Nam
Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định tham gia phiên tòa:
Mai Thị Bích Huyên - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024 tại trsở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 171/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 7 năm 2024
về “Tranh chp lối đi chung”.
Do Bản án dân sự thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 346/2024/QĐXXPT-DS
ngày 28 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Đặng Thị T, sinh năm 1976; Nơi thường trú: Xóm D, xã H,
huyện H, tỉnh Nam Định;
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1962 Dương ThĐ, sinh năm
1969; Cùng nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1959 Phạm Thị S, sinh năm 1959; Cùng
nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định;
2. Nguyễn Thị T1, sinh năm 1963; Nơi thường trú: Xóm F, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
3. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị S1, sinh năm 1970;
Cùng nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định;
2
4. Ông Trần Nam D, sinh năm 1975; Nơi thường trú: Xóm D, xã H, huyện H,
tỉnh Nam Định;
5. Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Người đại diện theo pháp
luật: Ông Nguyễn Hồng T2 - Chức vụ: Chủ tịch UBND xã H.
6. - Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn V là bị đơn trong vụ án.
Tại phiên tòa phúc thẩm: mặt Đặng Th T, ông Nguyễn Văn V, ông
Nguyn Hng T2. Vng mt Nguyn Th T1, ông Nguyễn Văn Q, ông Nguyn
Văn N, bà Nguyn Th S1, bà Phm Th S, ông Trn Nam D, bà Dương Thị Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 01 tháng 11 m 2023 lời khai trong quá trình
Tòa án giải quyết vụ án nguyên đơn bà Đặng Thị T trình bày:
Năm 1998, vợ chồng T, ông D nhận chuyển nhượng từ ông L thửa đt số
217 diện tích 140m
2
và thửa đt số 177 diện tích 557m
2
ều thuộc tờ bản đồ số 30
H). T, ông D đã được cp Giy chứng nhận quyền sdụng đt ngày 02-12-
2000 đối với cả hai thửa đt trên. Trước khi ông L chuyển nhượng, giữa các thửa đt
thuộc quyền sử dụng của hộ ông L, hộ ông V, hộ ông N, hộ ông Q, cụ T3 lối đi
chung ở vị trí giữa, chia cắt thổ đt của các hộ sử dụng thành hai thửa riêng biệt. Vì
việc sdụng đt lối đi ntrên không thuận tiện nên các hộ sử dụng lối đi chung đã
thống nht chuyển lối đi giữa các thổ xuống phía nam. Việc thỏa thuận thống nht
đổi đt lối đi về phía nam được xóm, xã đồng ý. Hộ ông L, ông V, ông N, ông Q, cụ
T3 đã cùng nhau tự nguyện bỏ ra một phần đt làm lối đi trong đó phần đầu lối đi
giáp đường (dọc theo đt cụ T3) rộng 3,5m; đoạn còn lại qua các thổ đt thuộc quyền
sử dụng của hộ ông N, ông V, ông L ra đến bờ sông rộng 4m. Khi gia đình T nhận
bàn giao đt từ ông L, lối đi phía nam đã hình thành như trên, các hộ dân trong đó
hộ ông V, hộ ông L sử dụng để đi lại không tranh chp. Phần lối đi giáp đt hộ
cụ T3, ông N, ông V các hộ đã đổ bê tông rộng 2m ở giữa lối đi. Phần lối đi còn lại
qua thửa ông V thổ ông D vào đến giáp sông chưa đổ tông. Sau khi nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đt từ hộ ông L, gia đình T đi nam làm kinh tế đến
khoảng năm 2007 thì về đổ bê tông rộng 2m phần đt lối đi còn lại để gia đình bà T
và các hđi lại cho thuận tiện. Lối đi phía nam này không chỉ gia đình bà T sử dụng
mà tt cả các hộ trong đó có gia đình ông V, ông N, ông Q, cụ T3 đều sử dụng.
Khoảng tnăm 2009, hộ ông V hộ ông D xảy ra tranh chp về quyền sử
dụng đt. Năm 2016, ông V khởi kiện tại Tòa án tranh chp với ông D, bà T về ranh
giới quyền sử dụng đt, không tranh chp về lối đi chung. Tòa án nhân dân hai cp
đã bác đơn khởi kiện của ông V. Cũng kể từ khi xảy ra tranh chp về ranh giới quyền
sử dụng đt, hộ ông V, hộ ông D luôn mâu thuẫn với nhau trong sinh hoạt, ông V
nhiều lần ngăn cản không cho hộ ông D sử dụng lối đi chung phía nam. Tháng 3
năm 2023, ông V xây tường rào cao khoảng 1,6m chắn ngang lối đi không cho gia
đình ông D, bà T đi lại. Ủy ban nhân dân xã H cùng đại diện cơ sở đã nhiều lần hòa
giải nhưng không thành.
3
Đến nay, bà T đề nghị Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu công nhận Hợp đồng
đổi đt lối đi giữa các hộ tnăm 1996 đồng thời công nhận phần đt diện tích 213m
2
tại vị trí phía Nam các thửa đt số 217, 181, 182, 183 thuộc quyền sử dụng của lần
lượt các hộ ông D, ông V, ông N, cụ T3 lối đi chung. Xác định diện tích đt lối đi
cũ theo bản đồ địa chính do UBND xã quản diện tích 51m
2
, phần diện tích còn lại
của các hộ đóng góp để làm lối đi chung nkết quả đo hiện trạng, cụ thể: Diện tích
61m
2
thuộc thửa đt số 217 tờ bản đồ số 30 xã H; diện tích 49 m
2
thuộc thửa đt số
181 tờ bản đồ số 30 xã H; diện tích 37 m
2
thuộc thửa đt số 182 tờ bản đồ số 30
H; diện tích 15 m
2
thuộc thửa đt số 183 tờ bản đồ số 30 H. Buộc ông Nguyễn
Văn V, Dương Thị Đ phải tháo dỡ tường rào, cổng tôn dài 4m xây dựng trên phần
đt diện tích 49m
2
kể trên làm lối đi chung cho các hộ sử dng.
* Tại bản tự khai ngày 12-12-2023 và lời khai trong quá trình tố tụng, bị đơn
ông Nguyễn Văn V, bà Dương Thị Đ ng ý kiến trình bày:
Những năm trước đây, tại bản đồ địa chính, gia các thửa đt thuc quyn s
dng ca h ông L, ông V, ông N, c T3 lối đi rộng khong 2m t giáp đường
vào đến giáp sông qua các thửa đt k trên. Nhưng do việc s dng lối đi đó không
thun tin cho vic khai thác, s dụng đt nên các h dân đã thống nht đổi đt li
đi giữa th xung lối đi phía nam các thửa đ s dng cho thun li. Các h dân gm
h c T3, h ông N, h ông V, h ông L đều t nguyn b ra mt phần đt để m
rng lối đi, cùng nhau đ tông rng 2m phần đt gia lối đi để thun tin cho vic
đi lại. Gia đình ông V cũng nht trí vic chuyn li đi như trên, thc tế s dng
lối đi phía nam cùng các hộ dân khác đi lại t đó cho đến nay.
Tuy nhiên, t khoảng năm 2009, h ông D, T đã hành vi làm thay đi
ranh gii, ln chiếm quyn s dụng đt ca gia đình ông V, Đ. Gia đình ông V đã
nhiu lần làm đơn đề ngh y ban nhân dân xã G. Ban địa chính xã cùng y ban xã
đã đưa 33 m
2
đt đường dong xóm vào đt th gia đình ông V cho đủ diện tích đt
còn thiếu. Đến năm 2015, ông V khiếu ni UBND huyn gii quyết buộc gia đình
ông D tr lại đt cho gia đình ông V để ông V tr lại đt hi theo ch đạo ca
UBND huyn. UBND xã gii quyết không tr đt cho gia đình ông V mà gii ta ra
sông. Ông V đã khởi kin, bản án sơ thm, phúc thm và UBND huyn ch đạo gi
nguyên mc theo hin trng s dng t năm 2009. a án đã đo đã biên
bn quyết định b sung sa cha bn án; thi hành án đã công nhận din tích 33 m
2
đt lối đi giữa các thửa đt thuc quyn s dng ca ông V, Đ là đt ca gia đình
ông V. UBND huyện đã chỉ đạo cho UBND xã cùng Văn phòng đt đai huyện làm
th tục đổi lại GCNQSDĐ cho gia đình ông V. Như vậy, diện tích đt lối đi hộ
ông V đã được các cp chính quyn công nhn; phần đt lối đi mới phía nam T
khi kiện cũng là đt thuc quyn s dng của gia đình ông V. Lối đi phía nam ch
có h ông V cùng các h phía ngoài được quyn s dng. Ông V không cho h ông
D đi nhờ qua đt ông V nên đã xây tường cao 1,5m đ vây th. Lối đi theo h
địa chính, các h khác cùng gia đình ông V đã xây dng công trình kiên c để s
dng nên ông V cũng xác nhận lối đi phía nam như hiện trng dài t đưng xóm vào
4
đến giáp thửa đt s 178 (thuc quyn s dng ca h ông V, không kéo dài hết tha
đt này) là lối đi chung. Đề ngh Tòa án bác đơn khởi kin ca bà T.
* Tại văn bản ghi ngày 26-03-2024, UBND H trình bày: Năm 1998, gia
đình ông Trần Nam D và bà Đặng Thị T nhận chuyển nhượng thửa đt số 217, 177
cùng tờ bản đồ số 30, xã H của hộ gia đình ông L. Các thửa đt liên quan đến lối đi
tranh chp gồm: Thửa đt số 178, 181 thuộc quyền sử dụng của hộ ông V; thửa số
179, 182 thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình ông N, thửa số 180 thuộc quyền sử
dụng của hộ ông Q, thửa 183 thuộc quyền sử dng của hộ cụ T3.
Bản đồ địa chính năm 1998 thể hiện: Giữa các thửa đt trên thuộc quyền sử
dụng của hộ ông L (D), hộ ông V, hộ ông Q, hộ ông N, hộ cụ T3 lối đi chung
chạy dọc đông tây chia cắt thổ đt của các hộ thành 02 thửa. Do việc sử dụng lối đi
như trên bản đồ không thuận tiện nên các hộ sử dụng lối đi chung đã thống nht tự
nguyện cùng nhau bỏ ra một phần đt chuyển lối đi chung theo bản đồ (ở vị trí giữa
các hộ) đến phía nam thổ của các gia đình. Phần đt lối đi cũ theo bản đhiện các
gia đình trên đều sử dụng mục đích riêng, không sử dụng làm lối đi. Việc tự nguyện
bỏ một phần đt mở rộng lối đi chung như hiện nay của các hộ được sự nht trí của
cơ sở xóm và UBND xã. Từ đó, các hộ gia đình đã sử dụng lối đi phía nam từ giáp
đường qua các thổ đt thuộc quyền sử dụng hộ cụ T3, hộ ông N, hộ ông V, hộ ông
L vào đến giáp sông ra đồng.
Từ khi gia đình bà T, ông D nhận chuyển nhượng đt của hộ ông L năm 1998
thì các hộ gia đình trên đã đổ đường bê tông trên lối đi mới phía Nam để đi lại. Tuy
nhiên, tkhoảng năm 2000, hộ ông V hộ ông D xảy ra tranh chp ranh giới quyền
sử dụng đt, mặc đã được Tòa án hai cp xét xử nhưng các bên vẫn thường xuyên
mâu thuẫn về ranh giới kéo theo tranh chp cả về lối đi chung. Ngày 07-5-2023, ông
V tự ý xây tường rào ngăn đường không cho gia đình ông D con sử dụng lối
đi. UBND xã H đã làm việc, yêu cầu ông V tháo rỡ để nhân dân đi lại, nhưng ông V
không chp hành. Tại buổi làm việc ngày 08-10-2023, hộ T, ông Q, ông N vẫn
nht trí dành ra một phần đt làm lối đi chung như biên bản c bên đã thống nht
hiện trạng sử dụng hiện nay. Ông V cũng nht trí lối đi như hiện trạng sử dụng
nhưng cho rằng các cp chính quyền đã công nhận các phần đt lối đi (giữa 2
thửa đt thuộc quyền sử dụng hộ ông V) và phần đt lối đi phía nam hiện nay thuộc
thửa 181 đều thuộc quyền sử dụng của hộ ông V nên ông V không đồng ý dành lại
phần đt phía nam để bà T sử dụng làm lối đi như bà T yêu cầu.
Nay T yêu cầu Toà án công nhận Hợp đồng đổi đt lối đi giữa các hộ từ
năm 1996 đồng thời công nhận vị trí phía Nam các thửa đt số 217 của hộ ông D,
thửa số 181 của hông V, thửa số 182 của hgia đình ông N, thửa số 183 của hộ
ông T3 phần đt thuộc lối đi chung, buộc ông V phải tháo dỡ bức tường xây chắn
ngang lối đi (phần giáp đt hộ ông D) để hộ ông D và các hộ dân khác cùng sử dụng,
UBND xã H đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật, ổn định tình
hình an ninh trật tự tại địa phương. Do phải điều hành công việc nên UBND đề
nghị được vắng mặt tại các buổi làm việc, các phiên tòa của Tòa án các cp.
5
* Tại các bản tự khai ngày 16-4-2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Nguyễn Thị T1, ông Nguyễn Văn Q, Phạm Thị S, ông Nguyễn Văn N,
Nguyễn Thị S1 trình bày:
Hộ gia đình ông N, S1 sdụng các thửa đt số 179,182; hgia đình ông
Q, S sử dụng thửa 180; T1, ông Q các con cụ T3 (đã chết) đang quản thửa
đt số 183 (cụ T3). Thửa đt số 178, 181 thuộc quyền sdụng của thửa ông V; thửa
đt số 177, 217 thuộc quyền sử dụng hộ ông D (nhận chuyển nhượng từ hộ ông L).
Các thửa đt trên đều cùng tờ bản đồ số 30, xã H.
Trước đây, giữa các thửa đt trên lối đi chung chạy dọc đông tây chia cắt
thổ đt của các hộ thành 02 thửa, lối đi này đã được thể hiện trên bản đồ địa chính
năm 1998. việc sử dụng đt như trên không thuận tiện nên các hộ sử dụng ngõ đi
chung đã thống nht chuyển lối đi chung theo bản đồ (ở vị trí giữa thổ của các hộ)
đến phía nam thổ của các gia đình, phần lối đi cũ theo bản đồ thẳng thổ đt của gia
đình nào thì gia đình đó sử dụng. Việc đổi đt lối đi chung như trên được sự nht trí
của sở xóm 6 UBND H (nay là H) các hộ gia đình. Từ khi gia đình
T, ông D nhận chuyển nhượng đt của hông L năm 1998 thì các hộ gia đình
trên đã đổ đường bê tông trên lối đi mới phía Nam để đi lại. Thời gian gần đây, ông
V xây tường rào cao 1,5m tại phần đt giáp ranh giới với các thửa đt của hộ ông
Dương n lối đi vào của thổ ông D, không cho gia đình T người dân đi lại. Thực
tế, từ khoảng năm 1996 đến nay, các hộ gia đình vẫn sử dụng lối đi này như hiện
trạng để đi ra đường phía đông ra đồng phía tây. Phần đt đã thống nht để lại
làm lối đi chung này theo kết quả đo hiện trạng các hộ gia đình ông Q, ông N, T1
không ý kiến thắc mắc gì, nht trí đề nghị Tòa án công nhận lối đi này lối đi chung
như hiện trạng; không yêu cầu gì đối với các đương sự khác. Phần tranh chp giữa
hộ T và hộ ông V, ông Q, ông N, T1, bà S, S1 đnghị Tòa án giải quyết
theo quy định pháp luật.
Toà án đã tống đạt các văn bản tố tụng gồm: Thông o thụ số 173/TB-
TLVA ngày 22-11-2023; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Trần Nam D người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan nhưng ông D không đến Tòa án làm việc, không đưa ra lý do của sự vắng
mặt và không gửi các văn bản trình bày ý của mình về yêu cầu khởi kiện của bà T.
Đồng thời, Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định cũng tống đạt hợp lệ
Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông D nhưng đến
nay ông D vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần 2 không lý do.
* Từ nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 20 tháng
5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu đã quyết định: Căn cứ Điều 254
Bộ luật n sự; khoản 10 Điều 12, Điều 166 Luật đt đai; Điều 227, Điều 228 B
luật Tố tụng dân sự.
Xử chp nhận mt phần yêu cầu về Tranh chp lối đi chung” của Đặng
Thị T đối với ông Nguyễn Văn V và bà Dương Thị Đ.
6
Tuyên bố Hợp đồng đổi đt lối đi giữa hộ ông Trần Văn D1, hộ ông Nguyễn
Văn V, hộ ông Nguyễn Văn Q, hộ ông Nguyễn Văn N, hộ cụ Nguyễn Văn T4 là vô
hiệu. Không giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu.
Xác định phần đt diện tích 213m
2
(S,S3’,S7’,S7,S12,S18) lối đi chung.
Trong đó: Phần đt lối đi theo bản đồ địa chính do Ủy ban nhân dân H quản
diện tích 51m
2
(ký hiệu S; giới hạn bởi các điểm 14,15,16,24,25,25’,16’,14); diện
tích 61m
2
đt NTS
thuộc thửa đt s217 tờ bản đồ số 30 xã H (ký hiệu S3’; giới hạn
bởi các điểm 6’,6,7,35,6’); diện tích 19 m
2
đt NTS thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ
số 30 xã H (ký hiệu S7; giới hạn bởi các điểm 6,13,14,15,16,7’,6); diện tích 30 m
2
đt NTS thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ số 30 xã H (ký hiệu S7’; giới hạn bởi các
điểm 6’,7’,6,6’); diện tích 37 m
2
đt NTS thuộc thửa đt số 182 tờ bản đồ số 30
H (ký hiệu S12; giới hạn bởi các điểm 7’,16,24,23,7’); diện tích 15 m
2
đt ONT
thuộc thửa đt số 183 tbản đồ số 30 H (ký hiệu S18; giới hạn bởi các điểm
23,24,25,26,23).
Buộc ông Nguyễn Văn V, Dương Thị Đ phải tháo dỡ tường rào cao 1,5m
dài 3,38 m và cổng tôn dài 0,62m và 02 cọc bê tông cao 2m xây dựng trên phần đt
diện tích 49m
2
thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ 30 xã H.
(Việc xác định quyền sử dụng đt lối đi có sơ đồ vẽ kèm theo).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và biện pháp đảm
bảo thi hành án của các đương sự.
* Ngày 20 tháng 5 năm 2024 ông Nguyễn Văn V bđơn trong vụ án có đơn
kháng cáo đối với bản án số 76/2024/DS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Hải Hậu với nội dung: Không chp nhận bản án xét xử ngày 20-5-
2024 do Đặng Thị T khởi kiện lối đi chung. Quyết định lối đi chung của bản án
số 57 đã quyết đáp, phúc đáp quyền Tòa án tối cao, Tòa án sơ thẩm không có quyền
về bàn giao mô mốc đt thổ đt canh cũng như cho gia đình ông theo quyết định bổ
sung của Tòa án cũng như thi hành án đã có quyết định. Ông không chp nhận bản
án, không nộp bt cứ khoản tiền nào khác 33m
2
lối đi chung đã thuộc quyền sử dụng
đt của gia đình ông đã thể hiện trên biên bản hiện trạng sử dụng, biên bản bổ sung
của Tòa án cũng như thi hành án. Ông V kháng cáo toàn bộ bản án không nht trí
với bản án đã tuyên.
* Tại phiên toà phúc thẩm: Bà Đặng ThT vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,
giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cp thẩm, không chp nhận do kháng
cáo của ông V đề nghị cp phúc thẩm giải quyết giữ nguyên như bản án sơ thẩm,
ông Nguyễn Văn V vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình bày tại Toà án cp sơ thẩm, gi
nguyên yêu cầu kháng cáo, không chp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, các đương
sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Về
tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá tnh giải quyết vụ án
7
cũng ntại phiên tòa phúc thẩm, những người tham gia tố tụng chp hành đúng các
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, quyền lợi của các đương sự được bảo đảm.
Về nội dung: Căn cứ vào tài liệu trong hồ vụ án thì thy rằng sở
chp nhận một phần yêu cầu của Đặng Thị T. Không công nhận Hợp đồng đổi
đt lối đi giữa các hộ lập năm 1996 xác nhận của đại diện sở xóm F H.
Công nhận phần đt diện tích 213m
2
tại vị trí phía Nam các thửa đt gồm: Thửa số
217 (thuộc quyền sử dụng hộ D1), thửa số 181 (thuộc quyền sử dụng hộ ông V),
thửa đt số 83 (thuộc quyền sử dụng của hộ cụ T4) và thửa đt số 182 (thuộc quyền
sử dụng của hộ ông N) lối đi chung. Xác định diện tích đt lối đi theo bản đồ
địa chính do UBND quản diện tích 51m
2
, phần diện tích còn lại của các hộ
đóng góp để làm lối đi chung như kết quả đo hiện trạng, cụ thể: Diện tích 61m
2
thuộc
thửa đt số 217 tờ bản đồ số 30 H; diện tích 49 m
2
thuộc thửa đt số 181 tờ bản
đồ số 30 H; diện tích 37 m
2
thuộc thửa đt số 182 tờ bản đồ số 30 xã H; diện tích
15 m
2
thuộc thửa đt số 183 tờ bản đồ số 30 H. Buộc ông Nguyễn Văn V,
Dương Thị Đ phải tháo dtường rào cổng tôn dài 4m xây dựng trên phần đt
diện tích 49m
2
kể trên làm lối đi chung cho các hộ sử dụng. Vì vậy, kháng cáo của
ông V không căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ
luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án thẩm. Về án phí đề nghị giải quyết theo
quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Dương Thị Đ đã y quyn cho ông Nguyễn Văn V. Bà
Nguyn Th T1, ông Nguyễn Văn Q, ông Nguyễn Văn N, Nguyn Th S1,
Phm Th S, ông Trn Nam D đã ý kiến xin được vắng mặt tại phiên toà, họ không
có kháng cáo nên việc xét xử vắng mặt họ không ảnh hưởng gì đến quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. vậy, căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án
tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ.
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn V m trong thời hạn luật định phù
hợp với quy định tại khoản 1 Điều 272; khoản 1 Điều 273; Điều 276 Bộ luật Tố tụng
Dân sự nên được Hội đồng xét xử chp nhận xem xét giải quyết.
[3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Đặng Thị T khởi kiện ông Nguyễn
Văn V, Dương Thị Đ yêu cầu xác định lối đi chung giữa đt của gia đình bà T và
đt của các gia đình ông V, Đ, gia đình ông N, gia đình ông Q, gia đình cụ T4
địa chỉ tại xóm D, xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. Căn cứ quy định tại khoản 9
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân
sự thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh
Nam Định.
[4] Về quan hệ pháp luật: Đặng Thị T đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
xác định cho gia đình lối đi ra đường công cộng. Vì vậy, quan hệ pháp luật
8
được xác định là “Tranh chp về lối đi chung” với hộ ông Nguyễn Văn V. Toà án
cp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chp.
[5] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn V kháng cáo toàn bộ bản án không
nht trí với bản án đã tuyên thy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương
sự đều công nhận khoảng từ năm 1996, do việc sử dụng lối đi giữa các thửa đt mà
các hộ đang sử dụng không thuận lợi n các hộ gồm cụ T4, ông Q, ông N, ông L
đã thỏa thuận tự nguyện bỏ ra mt phần đt mở rộng lối đi phía nam thửa đt các
hộ đang sử dụng đlàm lối đi chung. Mặc dù thỏa thuận này không lập thành văn
bản nhưng các hộ đều nht trí, tự nguyện để lại một phần đt thuộc quyền sử dụng
của gia đình mình để mlối đi chung; quá trình sử dụng không xảy ra tranh chp.
Sau khi ông L chuyển nhượng các thửa đt số 177 và 217 cho hộ ông D có bàn giao
các thửa đt lối đi như hiện trạng sử dụng; hộ ông D cũng sử dụng lối đi phía nam
qua các thửa đt thuộc quyền sử dụng của hộ ông V, hộ ông N, hộ cụ T4. Phần đt
lối đi giữa các thửa đt trên, tiếp giáp với thửa đt của hộ gia đình nào thì hộ gia
đình đó được sử dụng, hiện trạng các hộ đều đã xây dựng công trình, đổ tông, lợp
mái sử dụng. Từ khoảng năm 2009, hộ ông V hông D tranh chp về ranh giới
quyền sử dụng đt rồi dẫn đến tranh chp về lối đi phía nam như hiện nay.
[6] Đến thời điểm hiện nay T, hộ ông N, hộ ông Q, các đồng thừa kế của
cụ T4 đều đề nghị Tòa án công nhận việc đổi đt lối đi như trên. Ông V công nhận
có việc các hộ dân thỏa thuận đi đt nhưng không nht trí yêu cầu mở lối đi cho hộ
ông D với do phần đt lối đi giữa thửa mà đương sự trình bày Tòa án hai cp
chính quyền địa phương đã công nhận quyền sử dụng đt cho ông V nên không thuộc
đt đổi, ông V không sử dụng đt của Ủy ban, không phải để đt lại làm lối đi cho
hộ ông D.
[7] Xét thy mặc việc đổi đt lối đi như trên của các hộ dân được các hộ
dân công nhận, thực tế đã xảy ra nhiều năm nay. Tuy nhiên, phần đt lối đi giữa các
thửa đt mà hộ gia đình ông D, hộ ông V, hộ ông N, hộ ông Q, cụ T4 đang sử dụng
chủ thể quản Nhà nước, các hộ dân đều được quyền sử dụng nhưng không
các quyền khác của người sử dụng đt như quyền chuyển nhượng, chuyển đổi….
vậy, hợp đồng đổi đt lối đi mà bà T yêu cầu không hợp pháp nên Hội đồng xét
xử không ng nhận. Thông qua kết quả xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện: Phần
đt lối đi giữa các thửa 177 217 diện tích 62 m
2
(S2) hộ ông D đang sử dụng;
phần đt lối đi giữa các thửa 178 181 diện tích 56 m
2
(S5) hộ ông V đang sử dụng;
phần đt lối đi giữa các thửa 179 182 diện tích 57 m
2
(S10) hộ ông N đang sử
dụng; phần đt lối đi giữa các thửa 248 183 diện tích 43 m
2
hông Q, cụ T4 đang
sử dụng (trong đó hộ ông Q sử dụng diện tích 36 m
2
; hộ cụ T4 sử dụng diện tích 7
m
2
). Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều không yêu cầu, không tranh chp
phần đt này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[8] Xét yêu cầu công nhận phần đt diện tích 213m
2
lối đi chung thì thy:
Đến nay tt cả các đương sự đều công nhận: Từ khoảng năm 1996 đến nay, các hộ
gồm hộ cụ T4, hộ ông N, hộ ông V, hộ ông L đã tự nguyện bỏ ra một phần đt giáp
9
với phần đt lối đi phía nam đt của các hộ để sử dụng làm lối đi chung. Kế quả đo
hiện trạng thể hiện: Lối đi phía nam các thửa đt số 183,182,181 tờ bản đồ số 30
H tổng diện tích 51m
2
, giới hạn bởi các điểm 14,15,16,24,25,25’,16’,14. Hiện
trạng sử dụng, lối đi này đã được mở rộng về phía bắc trong đó phần đt các thửa tự
nguyện dành ra để mở rộng lối đi như sau: diện tích 15 m
2
(S18) thuộc thửa 183
(Thoang); diện tích 37 m
2
(S12) thuộc thửa 182 (Ngũ); diện tích 49 m
2
thuộc thửa
181 (Viết); diện tích 61 m
2
thuộc thửa 217 (Dương). Các hộ đã cùng nhau đổ tông
rộng 2m phần giữa lối đi để đi lại, phần còn lại là đt trống. Trên phần đt lối đi này,
ông V đã xây tường cao 1,5m dài 3,38m và dựng cánh cổng bằng tôn rộng 0,62m
ngăn không cho hộ ông D các hộ khác sử dụng. Bà T và các hộ dân khác đang sử
dụng lối đi chung đều đề nghị Tòa án buộc ông V, bà Đ tháo dỡ tường để các hộ sử
dụng lối đi theo hiện trạng sử dụng từ trước khi hộ ông V, ông D tranh chp. Ông V
xác định phần đt này đt thuộc quyền sử dụng của hgia đình ông V đã được
cp sđỏ, ông V có quyền tự ý xây công trình, có quyền cho hoặc không cho các hộ
dân khác sử dụng đi lại.
[9] Hội đồng xét xử xét thy: Mặc phần đt diện tích 49 m
2
hiện đang tranh
chp thuộc thửa đt số 181 tờ bản đồ số 30 H thuộc quyền sdụng của hộ ông V.
Thửa đt hộ ông D sử dụng liền kề phía trong với thửa đt ông V sử dụng ngoài lối
đi đang tranh chp thì không còn lối đi nào khác. Lối đi do UBND quản các hộ
dân trong đó cả hộ ông V đều đã xây công trình sử dụng hiện không thể làm lối
đi lại được. Mặc hợp đồng đổi đt lối đi giữa các hộ từ năm 1996 là hiệu nhưng
thực tế các hộ đều đã tự nguyện dành ra một phần đt từ năm 1996 đến nay để m
mở rộng lối đi phía nam như hiện trạng đã được Tòa án cp thẩm xem xét thẩm
định ngày 24-01-2024. Ông V cho rằng phần đt lối đi diện tích 56m
2
giữa thửa số
178 và thửa 181 đã được Tòa án các cp chính quyền công nhận thuộc đt hộ ông
V không có căn cứ pháp lý. Hộ ông V đã sử dụng đt lối đi xây dựng công trình
kiên cố để sử dụng, tự nguyện để lại một phần đt diện tích 49 m
2
làm lối đi chung
cùng các hộ dân khác từ m 1996 đến nay. Kể từ thời điểm các hộ dân tự nguyện
dành các phần đt trên làm lối đi chung thì các phần đt này đã đt lối đi, việc
quản lý, sử dụng đt lối đi theo quy định pháp luật. Việc ông V thay đổi nguyện
vọng, không dành đt làm lối đi chung không được sự thỏa thuận nht trí của các h
dân đồng thời khiến hộ ông D không còn lối đi. Trong khi đó, quyền lối đi là quyền
của người sử dụng đt được quy định tại Điều 254 Bộ luật Dân sự. Việc ông V,
Đ tự ý xây tường chắn ngang lối các hộ dân đang sử dụng, cản trở việc sử dụng lối
đi là vi phạm quy định của pháp luật về quyền sử dụng lối đi chung. Do đó, có cơ s
chp nhận yêu cầu của T, buộc ông V, Đ phải dành lại phần đt diện tích 49
m
2
làm đt lối đi chung phải tháo dờng xây, cánh cửa tôn, cọc tông xây
dựng trên phần đt kể trên để trả lại đt lối đi chung.
[10] Qua những phân tích nêu trên đã cho thy những kết luận trong bản án
thẩm hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật, quyền lợi ích
hợp pháp của các bên đương sự được pháp luật bảo vệ không b xâm hại. Tòa án cp
sơ thẩm đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Tại phiên
10
tòa phúc thẩm ông Nguyễn Văn V ng không đưa ra được các chứng cứ và lý lẽ để
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp. vậy, yêu cầu kháng
cáo của ông V không được chp nhận cần giữ nguyên quyết định của bản án thẩm.
[11] Về chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được
Tòa án chp nhận nên bị đơn phải nộp toàn bchi phí tố tụng án phí dân sự
thẩm theo quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã nộp tạm
ứng án phí, tạm ứng chi phí tố tụng, tự nguyện nộp chi phí tố tụng. Nguyên đơn đã
nộp đchi phí tố tụng. Bị đơn ông Nguyễn Văn V thuộc diện người cao tuổi, đề nghị
xét miễn án phí nên được miễn án phí phải nộp; bđơn bà Dương Thị Đ phải nộp án
phí dân ssơ thẩm theo quy định pháp luật. Nguyên đơn Đặng Thị T không phải
nộp án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại tiền án phí phải nộp.
[12] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của ông Nguyễn Văn V không
được chp nhận nên ông V phải nộp án phí dân sự phúc thẩm nhưng hiện nay ông V
là người cao tuổi theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì ông V
được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.
[13] Những quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật ktngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 B luật tố tụng dân sự. Giữ nguyên bản án
thẩm.
Căn cứ các Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 10, Điều 12; Điều 166;
Điều 170 Điều 203 Luật đt đai năm 2013; khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều
35; điểm c khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 148; khoản 2 Điều 296 B luật tố tụng
dân sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 26; Điều 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Giữ nguyên Quyết định bản án sơ thẩm số 76/2024/DS-ST ngày 20-5-2024
của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu.
2. Án phí dân sự thẩm: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Nguyễn Văn
V. Buộc Dương Thị Đ phải nộp 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) án
phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại bà Đặng Thị T 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền
tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai số 0002944 ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Hải Hậu.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí cho ông Nguyễn Văn V.
11
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, người phải thi hành án dân sự bị đơn quyền thoả thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo
quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND tỉnh Nam Định;
- VKSND huyện Hải Hậu;
- TAND huyện Hải Hậu;
- Chi cục THADS huyện Hải Hậu;
- Lưu HS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lại Văn Tùng
12
THẨM PHÁN –
CHỦ TỌA PHIÊN
TÒA
Lại Văn Tùng
Tải về
Bản án số 170/2024/DS-PT Bản án số 170/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 170/2024/DS-PT Bản án số 170/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất