Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST ngày 25/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 2 - Điện Biên, tỉnh Điện Biên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 17/2025/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 17/2025/HNGĐ-ST ngày 25/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 2 - Điện Biên, tỉnh Điện Biên về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 2 - Điện Biên, tỉnh Điện Biên |
| Số hiệu: | 17/2025/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 25/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Cho ly hôn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 2 - ĐIỆN BIÊN
Bản án số: 17/2025/HNGĐ - ST
Ngày: 26/9/2025
V/v: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 2 - ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thương Huyền.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Quàng Văn Minh
Bà Nguyễn Thị Phương
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thi Tuyết Nhung - Thư ký Tòa án nhân dân
Khu vực 2 - Điện Biên;
Ngày 26 tháng 9 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 2 - Điện
Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ L số: 12/2025/TLST- HNGĐ
ngày 24 tháng 7 năm 2025 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ”; theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2025/QĐXXST- HNGĐ, ngày 25 tháng 8 năm
2025; Quyết định hoãn phiên toà số 08/2026/QĐST-HNGĐ, ngày 10 tháng 9 năm
2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị L - sinh năm: 1989
Nơ đăng ký NKTT: SN 88, tổ 01, phường N, thành phố Đ, tỉnh B (nay là SN 88,
tổ 01, phường M, tỉnh Đ); chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố H, xã Ph, tỉnh L (có đơn xin xét
xử vắng mặt)
- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá Đ - sinh năm: 1982
Nơi đăng ký NKTT và chỗ ở hiện nay: SN 88, tổ 01, phường N, thành phố Đ,
tỉnh B (nay là SN 88, tổ 01, phường M, tỉnh Đ). (vắng mặt không L do)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết, xét xử
nguyên đơn chị Đặng Thị L trình bày:
* Về quan hệ hôn nhân: Tôi và anh Đ lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, không bị
ép buộc, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Na Lay, thị xã Mường Lay,
tỉnh Điện Biên (nay là phường Mường Lay, tỉnh Điện Biên) vào ngày 23 tháng 3
năm 2012. Sau khi đăng ký kết hôn nhưng gia đình anh Đ không tổ chức cưới hỏi
cho tôi và anh Đ, sau đó tôi đã theo anh Đ về ở tại SN 88, tổ 01, phường Noong Bua,
thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (nay là SN 88, tổ 01, phường Mường
Thanh, tỉnh Điện Biên). Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc được
thời gian đầu, sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hoà
2
hợp, anh Đ mải chơi không chịu làm kinh tế, không quan tâm đến tôi và 3 người
con, đến đầu tháng 6 năm 2025 anh Đ đã đánh tôi rất nhiều lần và còn cầm dao doạ
giết tôi dưới sự chứng kiến của các con sau đó hai gia đình đã gặp nhau để hoà giải
nhưng không thành. Sau thời gian mâu thuẫn tôi đã về ở với bố mẹ đẻ của tôi và tôi
đã xin đi làm để có lương nuôi các con. Tôi và anh Đ không còn quan tâm đến nhau
nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy tôi đã làm đơn này yêu cầu
Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Nguyễn Bá Đ.
2. Về con chung: Tôi và anh Đ có 03 con chung: Cháu thứ nhất Nguyễn Thị H
N, sinh ngày 22/3/2011; Cháu thứ hai: Nguyễn T C, sinh ngày 24/02/2014; Cháu
thứ ba: Nguyễn B L, sinh ngày 19/8/2017
Nay ly hôn chị L xin nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn Thị H N, sinh ngày
22/3/2011 và cháu Nguyễn T C, sinh ngày 24/2/2014. Anh Đ nuôi cháu Nguyễn B
L, sinh ngày 19/8/2017 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Về tài sản: Tài sản riêng; tài sản chung; nợ phải trả; nợ lấy về và diện tích
ruộng: Chị Đặng Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Tại văn bản trình bày ý kiến Toà án nhận ngày 14/7/2025, ngày
15/7/2025 và đơn ngày 31/7/2025 của bị đơn anh Nguyễn Bá Đ trình bày:
* Về quan hệ hôn nhân: Tôi và chị L lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, không bị ép
buộc, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Na Lay, thị xã Mường Lay, tỉnh
Điện Biên (nay là phường Mường Lay, tỉnh Điện Biên) vào ngày 23 tháng 3 năm 2012.
Tôi và chị L có đăng ký kết hôn nhưng do gia đình tôi không có đủ Đ kiện nên không
tổ chức cưới hỏi cho tôi và chị L được đến giờ tôi vẫn nợ cô ấy 1 cái đám cưới, tôi vẫn
muốn cho cô ấy cái đám cưới như bao người phụ nữ khác. Tôi thành thật xin lỗi cô ấy.
Sau đó chúng tôi về ở với nhau tại SN 88, tổ 01, phường Noong Bua, thành phố Điện
Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (nay là SN 88, tổ 01, phường Mường Thanh, tỉnh Điện Biên).
Trong quá trình chung sống vợ chồng sống hạnh phúc, mãi đến thời gian gần đây tôi
thấy chị L thay đổi rất nhiều, không quan tâm đến gia đình, chồng và các con cứ về đến
nhà là cầm chiếc điện thoại có hôm đến 2 hoặc 3 giờ sáng, tôi cũng nói chuyện và tâm
sự với cô ấy nhưng chỉ được đúng 1 hôm, sau đó dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng to tiếng
với nhau. Nhưng tôi vẫn quan tâm, đến vợ và 3 đứa con của tôi. Sau đó gia đình 2 bên
cũng nói chuyện với nhau và 2 vợ chồng đã không còn vấn đề gì nữa. Sau đó cô ấy bảo
cho 3 đứa con về ông bà ngoại chơi, tôi và cô ấy chưa hề sống ly thân, cô ấy về ngoại
được khoảng 1 tuần thì điện cho tôi bảo gửi các con về Điện Biên và cô ấy không về
sống với tôi nữa, cô ấy tự đi làm ở Hà Nội và không hề nói với tôi gì cả. Tôi vẫn còn
tình cảm yêu và thương cô ấy cùng các con tôi. Vì vậy nay tôi đã làm đơn này mong
Tòa án xem xét và là cầy cầu hàn gắn cho vợ chồng tôi.
* Về con chung: Anh Đ và chị L có 03 con chung: Cháu thứ nhất: Nguyễn Thị
H N, sinh ngày 22/3/2011; Cháu thứ hai: Nguyễn T C, sinh ngày 24/02/2014; Cháu
thứ ba: Nguyễn B L, sinh ngày 19/8/2017. Anh Đ không muốn ly hôn với chị Đặng
Thị L. Nay anh Đ làm đơn này kính mong các Cơ quan tạo mọi Đ kiện giúp xác nhận
để tôi có căn cứ nộp cho Toà án xem xét đảm bảo quyền lợi theo quy định của pháp
luật.

3
- Về cấp dưỡng: Anh Đ không có ý kiến gì về việc cấp dưỡng nuôi con chung
* Về tài sản: Tài sản riêng; tài sản chung; nợ phải trả; nợ lấy về và diện tích
ruộng, nương: Anh Nguyễn Bá Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chị Đặng Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên quan điểm đề
nghị Tòa án nhân dân Khu vực 2 - Điện Biên giải quyết cho chị được ly hôn với anh
Nguyễn Bá Đ và nuôi hai con chung là cháu Nga và cháu Chi, còn cháu Lộc để anh
Đ nuôi con chung theo nội dung đơn chị xin xét xử vắng mặt gửi Toà án ngày
03/8/2025.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng: Chị Đặng Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly
hôn anh Nguyễn Bá Đ. Đây là vụ án về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.
Điền có địa chỉ tại SN 88, tổ 01, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh
Điện Biên (nay là SN 88, tổ 01, phường Mường Thanh, tỉnh Điện Biên) nên theo
quy định tại khoản 1 Đ 28; Điểm a khoản 1 Đ 35; Khoản 1 Đ 39 Bộ luật tố tụng dân
sự, tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Khu vực 2 -
Điện Biên.
Nguyên đơn chị Đặng Thị L đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến
hành xét xử vắng mặt chị L theo quy định tại khoản 1 Đ 227 và khoản 1 Đ 228 Bộ
luật tố tụng Dân sự.
Bị đơn anh Nguyễn Bá Đ; đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt nên căn cứ khoản 2 Đ 227; khoản 1, 3 Đ 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án
căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để xét xử vắng mặt.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét về hôn nhân:
[2]. Về nội dung yêu cầu của các đương sự:
2.1. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân chị Đặng Thị L và anh Nguyễn Bá Đ
được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban
nhân dân phường Na Lay, thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên (nay là phường Mường
Lay) vào ngày 23/3/2012; khi đăng ký kết hôn, chị L và anh Đ đều đã trên 18 tuổi
nên xác định quan hệ hôn nhân của chị L và anh Đ là hợp pháp.
Quá trình chung sống, chị L cho rằng vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh
phúc được mấy năm đầu sau đó do tính tình vợ chồng không hợp và nguyên nhân
mâu thuẫn chủ yếu là do anh Đ mải chơi không chịu làm kinh tế, không quan tâm
đến chị L và 3 người con, đến đầu năm 2025 anh Đ đã đánh chị L rất nhiều lần và
còn cầm dao doạ giết chị L dưới sự chứng kiến của các con sau đó hai gia đình đã
gặp nhau để hoà giải nhưng không thành. Sau thời gian mâu thuẫn chị L đã về ở với
bố mẹ đẻ của chị L ở và chị đã xin đi làm để có lương nuôi các con. Trong quá trình
giải quyết vụ án và đơn xin xét xử vắng mặt chị L vẫn kiên quyết xin được ly hôn
với anh Đ. Tại đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân của chị Đặng Thị L được chính
quyền địa phương, nơi chị L – anh Đ sinh sống đã xác nhận: Chị L và anh Đ có đăng
4
ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Na Lay, thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên
vào ngày 23/3/2012. Sau khi kết hôn, hai người cùng về sống chung tại SN 88, tổ
01, phường Noong Bua, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên (nay là SN 88, tổ
01, phường Mường Thanh, tỉnh Điện Biên). Quá trình chung sống, vợ chồng có xảy
ra mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp. Chị L và anh Đ đã sống L thân từ
tháng 6/2025 cho đến nay. Trong quá trình thụ L Tòa án đã thông báo, tống đạt hợp lệ
cho anh Đ và chị L Tòa án tổ chức Toà giải nhưng không hòa giải được, anh Đ mong
muốn vợ chồng quay về đòn tụ, anh Đ không nhất trí L hôn. Xét thấy, là vợ chồng lẽ ra
anh Đ và chị L phải có nghĩa vụ quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, phải có
thái độ tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Tuy nhiên, chị L và anh Đ đã
không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân dẫn đến các bên bất đồng
quan điểm sống, vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau;
bên cạnh đó, quá trình giải quyết vụ án và đơn xin xét xử vắng mặt, chị L vẫn cương
quyết xin ly hôn nên có cơ sở xác định cuộc hôn nhân giữa chị L và anh Đ không
còn hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt
được, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đặng Thị L đối với
anh Nguyễn Bá Đ theo quy định tại Đ 51, Đ 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm
2014.
[2.2] Xét về con chung:
Quá trình chung sống, giữa chị L và anh Đ có có 03 người con chung là: Cháu
thứ nhất Nguyễn Thị H N, sinh ngày 22/3/2011; Cháu thứ hai: Nguyễn T C, sinh
ngày 24/2/2014; Cháu thứ ba: Nguyễn B L, sinh ngày 19/8/2017. Nay ly hôn chị L
nguyện vọng xin nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn Thị H N, sinh ngày 22/3/2011
và cháu Nguyễn T C, sinh ngày 24/2/2014. Anh Đ nuôi cháu Nguyễn B L, sinh ngày
19/8/2017 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc đến khi có
thay đổi khác. Tại bản tự khai anh Đ không có quan điểm về việc nuôi con chung. Tại
các bản tự khai của cháu Nga, cháu Chi có nguyện vọng xin ở với chị L, hiện nay hai
cháu đang ở với chị L. Cháu Lộc xin ở với anh Đ, hiện nay cháu Lộc đang ở với anh
Đ (tại các bản tự khai của các cháu đều có chữ ký của anh Đ và chị L). Do vậy HĐXX
có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị L và anh Đ, giao con chung Nguyễn Thị H N,
sinh ngày 22/3/2011 và cháu Nguyễn T C, sinh ngày 24/2/2014 cho chị L trực tiếp
nuôi dưỡng đến khi hai cháu trưởng thành đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc
đến khi có thay đổi khác. Giao cháu Nguyễn B L, sinh ngày 19/8/2017 cho anh Đ
trực tiếp nuôi dững đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động hoặc
đến khi có thay đổi khác là hoàn toàn phù hợp với quy định tại các Đ 69 và Đ 81; Đ
82; Đ 83; Đ 84 Luật Hôn nhân và gia đình.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm con chung không ai được
cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L và anh Đ đều không yêu cầu Toà án giải
quyết.
[2.3] Xét về tài sản và công nợ: Chị L và anh Đ đều khai và công nhận không
có và không yêu cầu Toà án giải quyết, do vậy HĐXX không có căn cứ giải quyết trong
vụ án.
5
[3] Về nghĩa vụ chịu án phí: Theo quy định tại khoản 4 Đ 147/BLTTDS; Điểm
a khoản 5 Đ 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản L và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Đặng Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân
sự sơ thẩm án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền nộp tạm ứng án phí theo
thông báo số 08 ngày 24/7/2025 (mã thông báo: 60Q5UCWE5T ngày 24/7/2025)
biên lai số 0000015 chị L đã nộp đủ án phí DSST.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Khoản 1 Đ 28; Điểm a Khoản 1 Đ 35, Điểm a Khoản 1 Đ 39, Khoản 1 Đ 273,
Khoản 1, 2 Đ 227; Khoản 1, 3 Đ 228 và Khoản 4 Đ 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Đ 5, 8, 9, Khoản 1 Đ 51, Đ 53, Khoản 1 Đ 56; Đ 58, Đ 81, 82, 83, 84 Luật Hôn
nhân và gia đình;
Điểm a khoản 5 Đ 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp,
quản L và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đặng Thị L với anh Nguyễn Bá Đ.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung là Nguyễn Thị H N, sinh ngày 22/3/2011 và cháu Nguyễn
T C, sinh ngày 24/2/2014 cho chị Đặng Thị L được trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng giáo dục cho đến khi hai con chung đủ tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và
có khả năng lao động hoặc cho đến khi có thay đổi khác.
2.2. Giao con chung là Nguyễn B L, sinh ngày 19/8/2017 cho anh Nguyễn Bá
Đ được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung cho đến khi
cháu Lộc đủ tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động hoặc cho đến khi
có thay đổi khác.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L và anh Đ không yêu cầu Toà án giải quyết
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở
người không trực tiếp nuôi con thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ
chức quy định tại khoản 5 Đ 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định
thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con
3. Về tài sản: Tài sản riêng; Tài sản chung; Nợ phải trả; Nợ lấy về; diện tích
ruộng: Tòa án không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Đặng Thị L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân
sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm
nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo (mã thông báo: 60Q5UCWE5T ngày
24/7/2025) biên lai số 0000015 ngày 24/7/2025 Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên chị
L đã nộp đủ án phí DSST.
6
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Đ 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị
Đặng Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
án hoặc bản án được niêm yêu theo quy định. Anh Nguyễn Bá Đ có quyền kháng cáo
bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 26/9/2025./.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSNDKV2 - ĐB;
- UBND phường Mường Lay,
tỉnh ĐB (nơi Đ.ký kết hôn);
- Tòa án ND tỉnh ĐB;
- Thi hành án DS tỉnh Điện Biên;
- Lưu VP;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẦM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thương Huyền
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
7
Trần Thị Thương Huyền
8
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSNDKV2 - ĐB;
- UBND phường Mường Lay,
tỉnh ĐB (nơi Đ.ký kết hôn);
- Tòa án ND tỉnh ĐB;
- Thi hành án DS tỉnh Điện Biên;
- Lưu VP;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẦM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thương Huyền
9
10
11
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm