Bản án số 161/2025/DS-PT ngày 10/07/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 161/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 161/2025/DS-PT ngày 10/07/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 161/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Võ Văn Đua kiện Bà Huỳnh Thị Vân Thy yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng ủy quyền,..
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 161/2025/DS-PT
Ngày: 10 - 7 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng uỷ
quyền, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê
tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Rẻn
Các Thẩm phán:Ông Huỳnh Ngọc Dũng
Ông Nguyễn Chí Đức
- Thư phiên tòa: Ông Huỳnh Vũ Duy Thanh - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh
Long xét xử phúc thẩm ng khai vụ án thụ số: 291/2024/TLPT-DS ngày 01
tháng 10 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê tài sản.
Do Bản án dân sự thẩm số: 77/2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre (nay Tòa án nhân dân Khu vực 5 -
Vĩnh Long) bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3893/2025/QĐ-PT
ngày 04 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Võ Văn Đ, sinh năm: 1964 (chết ngày 21/8/2024)
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ gồm:
1.1.1. Bà Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1969
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 37A1, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
2
1.1.2. Bà Võ Thị Thúy D, sinh năm 1985
1.1.3. Bà Võ Thị D1, sinh năm 1987
Cùng địa chỉ: 2 ấp A, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Cùng địa chỉ hiện nay: 20/4 ấp A, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
1.1.4. Ông Võ Hoàng L, sinh năm 1989
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 37A1, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
1.2. Bà Nguyễn Thị Bích P, sinh năm: 1969
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 37A1, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P, ông L : Ông Nguyễn Văn P1, sinh
năm: 1976
Địa chỉ: Khu phố E, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Khu phố E, xã M, tỉnh Vĩnh Long.
2. Bị đơn:
Huỳnh Thị Vân T, sinh năm: 1971
Địa chỉ: A, khu phố B, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 148D1, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Mai Dũng M, sinh năm: 1970
Địa chỉ: A, khu phố B, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 148D1, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Mai Dũng M: Bà Huỳnh Thị Vân
T, sinh năm: 1971
Địa chỉ: A, khu phố B, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 148D1, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
3.2. Ông Nghiêm Thanh T1, sinh năm: 1983
Địa chỉ: 8, ấp B, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ: 8, ấp B, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
3.3. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm: 1983
Địa chỉ: G, ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ: G, ấp B, phường B, tỉnh Vĩnh Long.
3.4. Bà Đặng Thị Kiều H, sinh năm: 1987
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ: C, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đặng Thị Kiều H: Ông Nguyễn Văn
L2, sinh năm: 1962
Địa chỉ: A, Khu phố E, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3
Địa chỉ hiện nay: 162B3, Khu phố E, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
3.5. Ông Lữ Phúc N, sinh năm: 1985
Địa chỉ: B, Khu phố C, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 271A3, Khu phố C, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
3.6. Ông Nguyễn Khải V, sinh năm: 1975
Địa chỉ: F, ấp N, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 624A, ấp N, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Khải V: Bà Trần Thị Ngọc
Như Ý, sinh năm: 1992
Địa chỉ: ấp M, xã M, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: ấp M, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
4. Người kháng cáo, kháng nghị: Nguyên đơn ông Võ Văn Đ, Nguyễn
Thị Bích P; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (nay là Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm;
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa nguyên
đơn ông Văn Đ, Nguyễn Thị Bích P cùng ủy quyền cho ông Nguyễn
Văn P1 trình bày:
Ngày 23/07/2020, ông Đ, P vay tiền của Huỳnh Thị Vân T
ông Mai Dũng M 02 lần (lần 1: vay 3.000.000.000 đồng, lãi suất 2,6%/tháng;
lần 2: vay 200.000.000đồng, lãi suất 3%/tháng), tổng cộng hai lần vay tin là
3.200.000.000 đồng (Ba tỷ hai trăm triệu đồng); ông Đ, P đã đóng lãi cho
Vân T, ông M 12 tháng lãi với số tiền 1.008.000.000 đồng (Một tỷ lẻ tám triệu
đồng), việc đóng lãi ông Đ, P chứng từ kèm theo. Vợ chồng Vân T
buộc ông Đ, bà P phải hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
23/7/2020 với nội dung chuyển nhượng các thửa đất của ông Đ, P cho T
gồm:
+ Thửa đất số 162, tờ bản đồ số 8, diện tích 147m
2
theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số phát
hành B 439212, số vào sổ cấp GCN CH00585 do Ủy ban nhân dân thành phố B,
tỉnh Bến Tre cấp ngày 31/10/2011 với giá 100.000.000đồng.
+ Thửa 105, tờ bản đồ số 8, diện tích 5.357,3m
2
theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số phát
hành B 439211, số vào sổ cấp GCN CH00584 do Ủy ban nhân dân thành phố B,
tỉnh Bến Tre cấp ngày 31/10/2011 với giá 300.000.000đồng.
Việc hợp đồng chuyển nhượng trên nhằm đlàm tin cho khoản vay
của ông Đ, P, không phải thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đt thật.
Ngày 08/4/2021, bà Vân T được cấp giấy chứng nhận quyền s dụng đất đối với
thửa 105 và 162 cùng tờ bản đồ số 08 tại P, thành phố B. Ngày 23/9/2021, bà
Vân T ủy quyn hai thửa đất 105 162 cho Nguyễn Thị Bích P. ng ngày
4
này, Vân T tiếp tục ủy quyền hai thửa đất 105 162 cho ông Lữ Phúc N.
Mặc dù ủy quyền cho ông N nhưng lại chuyển nhượng cho ông Nghiêm Thanh
T1 đối với hai thửa đất 105, 162 nêu trên.
Ngày 08/11/2021, ông T1 và bà L1 đặt cọc bán nhà cho ông Nguyễn Khải
V. Cùng ngày này, ông T1, bà L1 lại ủy quyền 02 thửa đất trên cho bà Đng Thị
Kiều H. Ngày 09/11/2021, bà H lp thủ tục chuyển nhượng hai thửa đt trên cho
ông Nguyễn Khải V.
Ngoài việc lập thủ tục chuyển nhượng cho Vân T để làm tin vay tiền
thì ông Đ, P hn toàn không chuyển nhượng hai thửa đất nêu trên
nhà, đất đều do ông Đ, bà P quản lý sử dụng, đến cuối tháng 11/2021, ông Đ, bà
P đi Long An công việc giao nhà đất cho Kiều H trông coi thì ông V
lừa dối bà Kiều H lấy chìa khóa nhà vào chiếm nhà, đất của ông Đ, bà P. Ông V
nhiều lần thương lượng với ông Đ, P để nhận chuyển nhượng hai thửa đất
nêu trên nhưng ông Đ, bà P không đồng ý.
Việc vay tiền, đóng lãi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất để hp thức
hoá số tiền vay sang ông T1, L1 đã được Vân T thừa nhận trong các cuộc
nói chuyện giữa bà H và bà T được bà H ghi âm lại.
Do ông Đ, P không chuyển nhượng đất cho ông V nên đơn gửi
Ủy ban nhân dân xã P hòa giải buộc ông V trả lại hai thửa đất và hai căn nhà cho
ông Đ, bà P. Ti cuộc hòa giải do Ủy ban nhân dân xã P kết hợp với cơ sở ấp A,
vợ chồng ông V thừa nhận cầm đất, thương lượng, mua với giá 9.000.000
đồng/m
2
nhưng ông Đ, bà P không đồng ý, cho thấy bản chất thật sự ông Đ, bà P
hoàn toàn không chuyển nhượng đất cho Vân T, các giao dịch tiếp theo
giữa T, ông T1 và ông V đều giả to nhằm che đậy hợp đồng cầm cố i sản
để vay số tiền 3.200.000.000 đồng giữa ông Đ, bà P với bà Vân T. Từ cơ sở trên,
ông Đ, bà P khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre giải quyết:
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đt giữa ông Đ, P với
Huỳnh Thị Vân T đối với hai thửa đất 105, 162; tờ bn đồ 08, tọa lạc tại ấp
A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre lập ngày 23/7/2020.
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Huỳnh Thị
Vân T, ông Mai Dũng M với ông Nghiêm Thanh T1 đối với hai thửa đất 105,
162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, P, thành phố B, tỉnh Bến Tre lập ngày
23/9/2021.
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất gia ông Nghiêm
Thanh T1, Nguyễn Thị L1 (ủy quyền cho Đặng Thị Kiều H) với ông
Nguyễn Khải V đối với hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A,
P, thành phố B, tỉnh Bến Tre lập ngày 09/11/2021.
- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M
cho bà Nguyễn Thị Bích P ngày 23/9/2021.
- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M
cho ông Lữ Phúc N ngày 23/9/2021.
- Hy hợp đồng ủy quyền giữa ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1
cho bà Đặng Thị Kiều H ngày 08/11/2021.
5
- Hủy văn bn thỏa thuận giữa ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1
với bà Nguyễn Thị Bích P và bà Đặng Thị Kiều H.
- Hủy văn bản thỏa thuận giữa ông Nguyễn Khải V với bà Đặng Thị Kiều
H.
- Kiến nghị quan chức năng điều chỉnh quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật.
Trường hợp xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, ông Đ và bà P đồng ý trả
lại ông V số tiền 4.241.000.000đồng và tiền lãi phát sinh theo lãi suất 0,83% đến
khi Tòa án giải quyết xong vụ việc. Không đồng ý bồi thường các công trình
cây trồng do ông V xây dựng. Đồng thời, yêu cầu ông Nguyễn Khải V trả li
nhà và đất cho ông Đ với bà P.
Đối với số tiền lãi đã đóng vượt quá cho Vân T, đề nghị Toà án ghi
nhận việc bà Vân T thừa nhận nguyên đơn đã đóng lãi cho bà T số tiền
1.176.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Huỳnh Thị Vân T,
đồng thời người đại diện theo ủy quyền của người quyền li nghĩa vụ
liên quan ông Mai Dũng M trình bày:
Ngày 23/07/2020, T cho Nguyễn Thị Bích P vay 3.000.000.000
đồng, lãi suất 2,6%/tháng. Sau đó vài tháng, không nhớ thời gian, cho
P vay tiếp 200.000.000đồng, lãi suất 3%/tháng, tổng cộng 3.200.000.000
đồng. Để đảm bảo khoản vay, P ông Đ hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thửa đất số 162 và 105 tờ bản đồ số 08 tọa lạc tại xã P cho bà
để làm tin. Bà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất
trên vào ngày 08/4/2021. P thỏa thuận P đóng lãi hàng tháng, khi
nào P trả tiền thì chuyển trả li đất cho P. không nhớ bà P đóng i
cho được bao nhiêu do đóng bằng tiền mặt, P giao tiền lãi cho D2
(người nhờ thu tiền lãi dùm). chỉ biết D2 P, G, Bến Tre, không biết
địa chỉ cụ thể.
Ngày 23/9/2021, P đã trả hết tiền cho bà. Cùng ngày, bà ủy quyền lại
cho bà P được trọn quyền đối với hai thửa đất số 162 và 105 tờ bản đồ số 08 tọa
lạc tại xã P. Lý do bà không chuyển nhượng lại đất cho bà P mà làm theo thủ tục
ủy quyền cho bà P do bà P đang có thỏa thuận chuyển nhượng phần đất trên cho
ông Nghiêm Thanh T1, để rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục chuyển nhượng,
nên bà mới làm ủy quyền cho P. ông Mai Dũng M chỉ có ký hợp đồng
ủy quyền ngày 23/9/2021 cho Nguyễn Thị Bích P, ngoài ra không hợp
đồng gì khác. Bà P trả tiền mặt cho bà, bà có ký giấy nhận tiền hay không thì
không nhớ. Bà nhận tiền trực tiếp từ bà P và bà Kiều H, không phải nhn tiền t
ông N như nguyên đơn trình bày. Bà không biết các giao dịch bà P thực hiện sau
khi bà ký ủy quyền 02 thửa đất trên lại cho bà P.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 162, 105 ngày 23/7/2020 giữa ông Đ, bà
P với bà bà đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
6
Đối với yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền ngày 23/9/2021 giữa bà, ông Mai
Dũng M cho Nguyễn Thị ch P không đồng ý do hợp đồng y giao
đất lại cho P, ông Đ, kết thúc hợp đồng vay giữa bà P, ông Đ với bà.
Đối với các hợp đồng sau khi ủy quyền cho P do không biết
về các hợp đồng này nên không có ý kiến.
Đối với số tiền lãi, do khi đại diện nguyên đơn hỏi không nhớ n
xác định số tiền lãi đã nhận 1.176.000.000đồng, nhưng do cho vay nhiều
lần không phải một lần, các giấy tờ đóng lãi do nguyên đơn cung cấp cũng
không thể hiện mỗi tháng đều đóng 84.000.000 đồng tiền lãi nên số tiền lãi
nguyên đơn đã đóng cho trong 14 tháng không phải 1.176.000.000 đồng, tuy
nhiên bao nhiêu tiền thì bà không nhớ rõ. Vào ngày 23/9/2021 ông ĐP có tr
02 tháng tiền lãi 168.000.000đồng, bớt 8.000.000đồng cho con
Kiều H mua sữa.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Thị Kiều H ông
Nguyễn Văn L2 trình bày:
Đng Thị Kiều H được ông Đ, P (ba mẹ chồng H) giao quản
toàn bộ hai thửa đất 162, 105 tờ bản đồ số 08 02 căn ntọa lạc tại C, ấp L,
P, thành phố B, tỉnh Bến Tre khi ông Đ, P đi công việc Long An. Việc
ông Nghiêm Thanh T1 Nguyễn Thị L1 ủy quyền cho H hợp đồng
chuyển nhượng cho ông V chỉ hợp thức hóa hồ sơ, do: năm 2020 cha mẹ
chồng H cầm hai thửa đt trên cho Huỳnh Thị Vân T để vay số tiền
3.200.000.000 đồng nhưng mất khả năng thanh toán nên bà T bán nợ lại cho ông
T1, bà L1, sau đó ông T1, bà L1 bán nợ cho ông Nguyễn Khải V.
Tất cả các giai đoạn cầm cnày đều hợp thức hóa bằng hp đồng chuyển
nhượng quyền s dụng đất, khi H đi phụ xe với chồng không nhà thì ông
V đến nhà cha mẹ nuôi bà H để lừa dối lấy chìa khóa để chiếm nhà, đt từ tháng
11/2021 cho đến nay. Đặng Thị Kiều H khẳng định không việc chuyển
nhượng đất của gia đình nhà chồng của với T, ông T1, L1 ông V.
Tất cả chứng cứ gia đình H đang lưu giữ là chứng từ đóng lãi, ghi âm... thể
hiện chỉ vay tiền không có chuyển nhượng đất.
Bà H khẳng định việc ông V thỏa thuận cho bà H thuê nhà là không có, vì
thực tế căn nhà gia đình H đang ở. H cho rằng gia đình chỉ cầm cố,
không có chuyển nhượng đất, ông V chiếm giữ hai thửa đất, hai căn nhà của gia
đình trái với qui định của pháp luật nên đề nghị quan chức năng buộc
ông V giao trả tài sản lại cho cha mẹ chồng quản lý sử dụng. đồng ý hủy
văn bản thỏa thuận, hợp đồng ủy quyền hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất do bà tham gia giao kết.
Quá trình giải quyết vụ án người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Khải V ủy quyền cho bà Trần Thị Ngọc Như Ý trình bày:
Ngày 08/11/2021, giữa ông V ông T1, L1 tiến hành kết Hợp
đồng đặt cọc để thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất 105 162 với tổng giá trị
chuyển nhượng 4.241.000.000đ. Sau khi kết hợp đồng đặt cọc với ông T1,
7
L1, ông V đã giao đủ số tiền 4.241.000.000đ cho ông T1, L1 để ông T1,
L1 đến Ngân hàng TMCP S1 tt nợ Ngân hàng lấy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa 105 162 để làm thủ tục chuyển nhượng cho ông V.
Cùng ngày 08/11/2021, ông T1, L1 đã ủy quyền cho Đặng Thị Kiều H (là
con dâu của ông Đ, P) để H toàn quyền định đoạt đối với thửa đất 105 và
162. Ngày 09/11/2021, bà H người hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng hai thửa đất trên cho ông V, giá chuyển nhượng mỗi thửa 50.000.000đồng.
Ông T1 yêu cầu giảm tiền chuyển nhượng trong hợp đồng để giảm bớt tin thuế.
Theo thỏa thuận ông V người đóng thuế trước bạ, ông T1 người đóng thuế
thu nhập cá nhân. Ngày 24/11/2021, ông V được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Từ khi nhận chuyển nhượng đến nay ông V người trực tiếp quản
sử dụng phần đất này.
Sau đó, giữa ông V và bà H tiến hành ký kết hợp đồng thuê với mục đích
để bà H đại diện ông Đ, bà P thuê lại toàn bộ phần điện tích đất 105 và 162 cùng
với tài sản trên đất. Hợp đồng thuê không để ngày tháng năm lập. Nhưng do
H không thuê nên ông V đã vào quản lý từ khi chuyển nhượng đến nay.
Ngày 17/01/2022, ông V thế chấp 02 thửa đất 105 162 cho Ngân hàng
N1- Chi nhánh thành phố B để vay số tiền 2.800.000.000đ (Hai tỷ tám trăm triệu
đồng), hiện đã tất nợ, đã cung cấp hsơ cho Tòa án. Ông V không biết việc vay
tiền giữa P, ông Đ với bà T.
Trước khi ông V nhận chuyển nhượng phần đất này ông Đ, P cầm
cho ông V một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay 500.000.000đồng,
nhưng sau đó ông V phát hiện Giấy chứng nhận này là giấy giả. vậy, ông Đ
và bà P mới giới thiệu cho ông V nhận chuyển nhượng thửa đt 162, 105 với giá
1.900.000đồng/m
2
. Sau đó, ông V được biết thửa đất trên do ông T1 L1
đứng tên nên mới ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông T1
L1. Khi ký hợp đồng chuyển nhượng là chuyển nhượng cả nhà và đất, do nhà
không giấy đăng nên không thể hiện được vào hợp đồng. Tuy nhiên, ông
T1 đã giao nhà đất cho ông quản từ ngày 09/11/2021 đến nay nên chứng tỏ
ông V nhận chuyển nhượng cả nhà và đất.
Việc ông V thương lượng mua đất với ông Đ, P do ông Đ P
quan hệ bà con với ông V và giới thiệu ông V nhận chuyển nhượng phần đất với
giá rẻ nên ông V đồng ý hỗ trợ thêm tiền cho ông Đ, P. Tuy nhiên do sau đó
ông Đ P không đồng ý với số tiền ông V đưa ra nên ông V không hỗ tr
nữa. Ông V không lừa lấy chìa khóa như H nguyên đơn trình bày. Chng
cứ trong tin nhắn Zalo do phía H cung cấp thhiện vic H xin ông V
vào nhà ở do không có nhà ở, không thể hiện việc đòi lại ndo ông V tự ý vào
nhà
Ông V khẳng định ông nhận chuyển nhượng nhà đất hợp pháp nên
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Quá trình giải quyết vụ án người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Lữ Phúc N trình bày:
8
Ông quen biết t trước với ông Nghiêm Thanh T1 bà Nguyễn Thị
L1 (vợ ông Nghiêm Thanh T1). Khoảng tháng 9/2021, ông T1 L1 đề
nghị vay của ông số tiền 4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng) đnhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với 02 (hai) thửa đất số 105, 162 cùng tờ bản đồ
số 8, địa chỉ thửa đất tại P, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Do số tiền lớn
ông T1, L1 không tài sản đảm bo nên ông đề nghị ông T1, L1
không thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trực tiếp từ chủ sử dụng
đất phải thông qua hợp đồng ủy quyền toàn quyền cho ông để hợp đồng
chuyển nhượng cho ông T1, L1; ông T1, L1 đồng ý và đã trao đổi với chủ
sử dụng đất thống nhất thực hiện theo đề nghị của ông.
Ngày 23/9/2021, tại Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre, ông tham gia giao
kết các hợp đồng như sau:
+ Ông T1, L1 yêu cầu ông kết hp đồng nhận ủy quyền lại đối với
02 (hai) thửa đất nêu trên từ Nguyễn Thị Bích P theo hợp đồng ủy quyn số
công chứng 1156 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD do Công chứng viên
Huỳnh Đoàn Ngọc H1 của Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày
23/9/2021.
+ Ông và ông T1, bà L1 đã ký kết hợp đồng vay tiền số công chứng 1157
quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD do ng chứng viên Huỳnh Đoàn Ngọc
H1 của Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày 23/9/2021; ngay sau khi
hợp đồng vay tiền được kết, ông đã hoàn tt việc bàn giao đầy đủ cho ông
T1, bà L1 số tiền theo hợp đồng vay. Việc ông T1, bà Linh C sử dụng số tiền đó
như thế nào ông không rõ.
+ Ông ông T1 đã kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với 02 (hai) thửa đất nêu trên số công chứng 1158 quyển số 01/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD do Công chứng viên Huỳnh Đoàn Ngọc H1 của Văn phòng C2,
tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày 23/9/2021. Tn bộ hsơ, thủ tục đề nghị cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông T1, L1 thực hiện, ông không
tham gia thực hiện.
Ngày 11/10/2021, ông T1, L1 đã hoàn trả đầy đủ cho ông số tiền, ông
ông T1, bà L1 thống nhất hủy bỏ toàn bộ điều kiện đối với hợp đồng
vay tiền số công chứng 1157 bằng hợp đồng hủy bsố công chứng 1450 quyển
số 01/2021 TP/CC- SCC/HĐGD do Công chứng viên Huỳnh Đoàn Ngọc H1 của
Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày 11/10/2021.
Ông N xác định không quen biết, không bt kỳ thỏa thuận nào với
ông Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P, Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M,
Đặng Thị Kiều H, ông Nguyễn Khải V. Ông ông T1, L1 chỉ thỏa
thuận kết hợp đồng vay tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
việc ông nhận ủy quyền lại kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
02 (hai) thửa đất nêu trên cho ông T1 một phương thức để đảm bảo quyền lợi
của ông trong việc cho vay. Do đó, ông không thể biết không nghĩa vụ
phải biết các thỏa thuận hoặc tranh chấp liên quan đến 02 (hai) thửa đất nêu
trên.
9
những ltrên, ông nhận thấy ông không quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong tranh chấp các hợp đồng nêu trên nên đề nghị Tòa xem xét cho ông
được phép không tham gia trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
Tòa án đã tống đt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải, giấy triệu
tập đương sự, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa để
triệu tập ông Nghiêm Thanh T1 Nguyễn Thị L1 ti Tòa án để tham gia
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham
gia phiên tòa xét xử nhưng ông Nghiêm Thanh T1 bà Nguyễn Thị L1 không
đến, do đó Tòa án không thể lấy lời khai của ông Nghiêm Thanh T1
Nguyễn Thị L1, cũng như không tiến hành hòa giải giữa các đương sự với nhau
được.
Do hoà giải không thành, Toà án nhân dân thành phố Bến Tre đã đưa vụ án
ra xét xử. Tại quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số: 77/2024/DS-ST ngày 31
tháng 5 năm 2024, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Văn Đ và bà Nguyễn Thị Bích P, cụ thể tuyên:
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 (số công
chứng 1498, quyển số 3 TP/CC-SCC/HĐGD) giữa bên chuyển nhượng ông
Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P với bên nhận chuyển nhượng Huỳnh Thị Vân
T đối với hai thửa đất 105, 162 cùng tờ bản đồ 08, tọa lạc tại P, thành phố B,
tỉnh Bến Tre hiệu.
- Hủy văn bản thỏa thuận giữa bên cho thuê ông Nghiêm Thanh T1,
Nguyễn Thị L1 với bên thuê là bà Nguyễn Thị Bích PĐặng Thị Kiều H.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Đ,
Nguyễn Thị Bích P vviệc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bên chuyển nhượng Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M với
bên nhận chuyển nhượng ông Nghiêm Thanh T1 ngày 23/9/2021 (số công chứng
1158 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) đối với hai thửa đất 105, 162; tờ
bản đồ 08, tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Đ,
Nguyễn Thị Bích P vviệc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 09/11/2021 (số công chứng 2086 quyển số 01/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD) giữa bên chuyển nhượng ông Nghiêm Thanh T1, Nguyễn Thị
L1 với bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Khải V đối với hai thửa đất 105,
162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại xã Phú Nhuận, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Đ,
Nguyễn Thị Bích P về việc yêu cầu ông Nguyễn Khải V trả lại nhà đất thuộc
thửa 105, 162 tờ bản đồ số 08 tại xã P, thành phố B.
5. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Đ,
Nguyễn Thị ch P về việc Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 23/9/2021 (số công
chứng 1155 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ) giữa bên ủy quyền
10
Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M với bên được ủy quyền Nguyễn Thị
Bích P.
6. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Đ,
Nguyễn Thị Bích P vviệc hủy hợp đồng ủy quyền ngày 23/9/2021 (số công
chứng 1156 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) giữa bên ủy quyền
Nguyễn Thị Bích P (là đại diện theo ủy quyền của Huỳnh Thị Vân T và ông
Mai Dũng M) với bên được ủy quyền ông Lữ Phúc N.
7. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà
Nguyễn Thị ch P về việc Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 08/11/2021 (số công
chứng 2078 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ) giữa bên ủy quyền ông
Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1 với bên được ủy quyền bà Đặng Thị Kiều
H.
8. Ghi nhận Đặng Thị Kiều H ông Nguyễn Khải V tự nguyện Hủy
văn bản thỏa thuận giữa bên cho thuê ông Nguyễn Khải V với bên thuê bà Đặng
Thị Kiều H.
9. Chi phí tố tụng trong vụ án là: 24.308.000 (Hai mươi bốn triệu ba trăm
lẻ tám nghìn) đồng:
- Bị đơn Huỳnh Thị Vân T phải chịu chi phí tố tụng 3.038.500đồng.
và có nghĩa vụ hoàn lại cho ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P số tiền trên.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nghiêm Thanh T1,
Nguyễn Thị L1, Đặng Thị Kiều H phải chịu chi phí tố 3.038.500đồng
có nghĩa vụ liên đới hoàn lại cho ông Đ, bà P số tiền trên
- Ông Văn Đ bà Nguyễn Thị Bích P phải chịu chi phí tố tụng đối
với phần yêu cầu không được chấp nhận là 18.231.000 đồng - đã nộp xong.
10. Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các
trường hp quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án)
hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền i của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
11. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch ông Võ Văn Đ và bà Nguyễn
Thị Bích P phải chịu tổng cộng là 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng
- Án phí dân sự thẩm không giá ngạch Huỳnh Thị Vân T phải
chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng
- Án phí dân sự thẩm không giá ngạch ông Nghiêm Thanh T1,
Nguyễn Thị L1, bà Đặng Thị Kiều H phải chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng
- Án phí dân sự thẩm gngạch: Ông Văn Đ Nguyễn Thị
Bích P phi chịu là 122.275.700 (Một trăm hai mươi hai triệu hai trăm bảy mươi
lăm nghìn bảy trăm) đng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
11
0005303, 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0005304, 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0005305 cùng ngày 08/4/2024.
Ông Đ P còn phải nộp tiếp số tiền 121.375.700 (Một trăm hai mươi
mốt triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn bảy trăm) đồng.
12. Ông Văn Đ Nguyễn Thị Bích P được quyền khởi kiện
Huỳnh Thị Vân T vụ án khác để yêu cầu khấu trừ số tiền đóng vượt quá quy
định pháp luật.
13. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền truy thu thuế đối với ông Võ Văn Đ,
Nguyễn ThBích P, ông Nghiêm Thanh T1 theo giá chuyển nhượng thực tế
3.368.000.000đồng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
23/9/2021 (số công chứng 1158 quyển s01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) đối với
hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Kiến nghị quan thẩm quyền truy thu thuế đối với ông Nghiêm
Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1, ông Nguyễn Khải V theo giá chuyển nhượng thực
tế 4.241.000.000đồng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
09/11/2021 (số công chứng 2086 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) đối
với hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi nh án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Ngoài ra, quyết định của bản án n tuyên quyền kháng cáo của các đương
sự.
Ngày 14/6/2024, nguyên ông Võ Văn Đ, Nguyễn Thị Bích P kháng cáo
bản án thẩm yêu cầu Toà án phúc thẩm huỷ bản án thẩm của Tòa án nhân
dân thành phố Bến Tre nay là Toà án nhân dân Khu vự 5 - Vĩnh Long.
Ngày 01/7/2024 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre nay Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Vĩnh Long kháng nghị yêu cầu huỷ bản án thẩm của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre nay là Toà án nhân dân Khu vự 5 - Vĩnh Long.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Nguyễn n P1 người đại diện theo uquyền của nguyên đơn
Nguyễn Thị Bích P, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Võ Văn Đ
(ông Hoàng L) trình bày: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, gi
nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu huỷ án thẩm trên sở đưa ra các căn cứ
như sau: Nguyên đơn T hoàn toàn thừa nhận T cho nguyên đơn vay số
tiền gốc 3.200.000.000 đồng vào ngày 23/7/2020, nguyên đơn đóng lãi cho T
nhiều lần, tính đến ngày nguyên đơn trả tiền vay tổng số tiền lãi nguyên đơn
12
đóng cho T là 1.176.000.000 đồng. Để đm bảo việc trả lại tiền vay, cùng
ngày vay tiền T đã yêu cầu nguyên đơn hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất các thửa 105, 162 cùng tờ bản đồ số 8 cho T, nhà đất ng toàn
bộ tài sản trên đất vẫn do nguyên đơn quản lý, sử dụng. Thực chất đôi bên
không có chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất hợp đồng giả tạo, che đậy hợp đồng vay nên hiệu. Tsở
hiệu của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và T
bởi yếu tố giả tạo nên các hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng sau đó
liên quan đến các thửa đất 105, 162 cũng hiệu. Toà thẩm nhận định hợp
đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Phúc V1 là ngay
tình để công nhận không đúng quy định pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về
mặt áp dụng pháp luật: Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà T vô
hiệu do giả tạo nên T không phải chủ sử dụng đất hợp pháp các thửa 105,
162 vậy nên bà T cũng không có quyền uỷ quyền cho các chủ thể khác thực hiện
các quyền liên quan đến các thửa đất 105, 162; Toà tuyên hiệu hp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và T, ông M do giả tạo
nhằm che đậy hợp đồng vay nhưng lại không giải quyết các quyền, nghĩa vụ của
đương sự liên quan đến hợp đồng vay, về tiền gốc, tiền lãi, yêu cầu tính lại phần
tiển lãi vượt quá quy định nthế nào trong khi nguyên đơn yêu cầu giải
quyết vấn đ này. Hợp đồng uỷ quyền từ T cho P, P cho ông N hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1 để che đậy hợp đồng
chuyển nợ vay 4 tỷ đồng tT sang ông T1 được T, ông N thừa nhận (Cụ
thể: T xác định P vay tiền người khác trả cho T, ông N xác định đưa
tiền vay cho ông T1, L1 không thay mặt P, ông Đ nhận tiền chuyển
nhượng đt từ ông T1, L1 rồi giao lại cho ông Đ, P). Song song với việc
uỷ quyền này T còn ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trực tiếp
cho ông T1, L1 (Bl s21, 22). Hợp đồng chuyển nhượng đất từ H sang
ông V1 cũng hợp đồng giả tạo che đậy cho số tiền chuyển hoá nợ từ ông T1
sang ông V1, các đương sự hoàn toàn không việc giao tiền chuyển nhượng
hay giao nhà đt chuyển nhượng cho nhau. Các bên không thoả thuận chuyển
nhượng nhà, công trình kiến trúc, cây cối trên thửa 105, 162, tờ bản đồ 08;
không thoả thuận liên quan đến 10 ngôi mộ trên đất, không thoả thuận gì liên
quan đn phần đất nguyên đơn đã chuyển nhượng cho ông S. Nếu ông V1
người ngay tình thì tại sao ông V1 đã đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mà ông V1 vẫn nhiều lần liên hệ ông Đ, bà P, bà H yêu cầu thương lượng để
nhận chuyển nhượng đất của ông Đ, P đối với các thửa 105, 162 cùng tờ bản
đồ số 8.
Người đại diện theo uỷ quyn của Kiều H thống nhất với ý kiến trình
bày của ông P1, khẳng định Kiều H và ông Đ, bà P không có chuyển nhượng
nhà đất, việc hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng thuê
chỉ mục đích hợp thức hoá việc vay nợ, chuyển nợ từ chủ nợ ban đầu sang
những người tiếp theo. Không có việc giao tiền chuyển nhượng nhà đất ở bất kỳ
13
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nào; nhà đất vẫn do ông Đ, bà P, bà
H quản lý, sử dụng cho đến khi ông V1 lừa mượn chìa khoá rồi vào chiếm dụng.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông V1 cho rằng: Ông V1 chuyển
nhượng đất là hoàn toàn hợp pháp; Tại thời điểm chuyển nhượng đất do ông T1,
L1 đng tên quyền sử dụng không ai tranh chấp. Ông T1 L1 đã uỷ
quyền cho Kiều H hợp đồng chuyển nhượng; Ông V1 đã giao đủ tiền cho
ông T1, L1; Ông T1 L1 đã giao đất cho ông V1 quản lý, sử dng hoàn
toàn không việc lừa mượn chìa khoá rồi chiếm dụng nhà; Việc ông V1 đề
nghị hỗ trợ thêm tiền chuyển nhượng cho ông Đ, bà P là do thiện chí muốn giúp
đỡ ông Đ, P thấy ông Đ, P giới thiệu ông V1 mua đất giá rẻ trong khi
ông Đ, bà P khó khăn chứ không phải thoả thuận chuyển nhượng đất của ông Đ,
P. Việc trình bày của nguyên đơn cho rằng các hợp đồng chuyển nhượng
nhằm che đậy hợp đồng vay, chuyển nợ, bán nợ là không có căn cứ chứng minh;
Tại biên bản thẩm định ông S xác định không tranh chấp với ông V1, trường
hợp ông S có tranh chấp thì sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác. Trên cơ sở trình bày
người đại diện theo uỷ quyền của ông V1 yêu cầu Toà án giữ nguyên nội dung
án thẩm, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng đã thực hin đúng các
quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
Về nội dung: Đề nghHội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đ,
P; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (nay
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long), huỷ Bản án dân sự thẩm số:
77/2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến
Tre (nay là Toà án nhân dân Khu vực 5-Vĩnh Long).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày
của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của
Kiểm sát viên, xét kháng cáo của nguyên đơn ông Văn Đ, Nguyễn Thị
Bích P, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (Nay là Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long); Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
14
[1] Ông Võ Văn Đ, Nguyễn Thị Bích P khởi kiện bị đơn bà Huỳnh Thị
Vân T những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Dũng M, ông
Lữ Phúc N, ông Nghiêm Thanh T1, Nguyễn Thị L1, Đặng Thị Kiều H,
ông Nguyễn Khải V yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, hợp đồng ủy quyền hợp đồng thuê tài sản. Xét quan htranh chấp giữa
ông Văn Đ, Nguyễn Thị Bích P với bà Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng
M, ông Lữ Phúc N, ông Nghiêm Thanh T1, Nguyễn Thị L1, Đng Thị
Kiều H, ông Nguyễn Khải V Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp đồng thuê tài sảnnên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre (nay Tòa án nhân
dân Khu vực 5-Vĩnh Long) theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Ông Văn Đ chết ngày 21/8/2024 nên Toà án đưa nời kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 1
Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự gồm: bà Nguyễn Thị Bích P, bà Võ Thị Thúy D,
Võ Thị D1, ông Võ Hoàng L.
[3] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông L Phúc N yêu cầu Tòa án
giải quyết vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nghiêm Thanh
T1, bà Nguyễn Thị L1, nời kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ là bà
Võ Thị Thúy D và bà Võ Thị D1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên
tòa đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự, Hội đồng xét x tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Lữ Phúc N, ông
Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1, bà Võ Thị Thúy D, bà Võ Thị D1.
[4] Căn cứ vào Biên bản xem xét thẩm định ti chổ ngày 28/3/2023 (Bl
số: 329-330); Bản tự khai ngày 09/11/2023 của người đại diện theo ủy quyền
của ông Nguyễn Khải V (Bl s: 414-415) thể hiện một phần diện tích đất thuộc
thửa 105 (ký hiệu thửa 105K, theo họa đồ đo đạc ngày 01/8/2023) trước đó ông
Đ, P đã thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thái S, sinh năm 1982;
địa chỉ: E, khu M, khu phố F, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Đất
hiện đang do ông S quản s dụng trồng cây trên đất nhưng Tòa án cấp
thẩm không đưa ông S vào tham gia tố tụng với tư cách người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan là đưa thiếu người tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 4
Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc giải quyết công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông V ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
ích của ông S, không đảm bảo khả năng Thi hành án trong thực tế đối với phần
đất và tài sản có trên đất đối với phần đất ký hiệu thửa 105K, theo họa đồ đo đạc
ngày 01/8/2023 .
Về nội dung:
[1] Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa
ông Văn Đ, Nguyễn Thị Bích P với bị đơn Huỳnh Thị Vân T đối với
15
hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre thấy rằng:
[1.1] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa
ông Văn Đ, Nguyễn Thị Bích P với bị đơn Huỳnh Thị Vân T đối với
hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre được lập thành văn bản theo quy định tại Điều 502 Bộ luật Dân sự, được
công chứng chứng thực theo đúng quy định tại điểm a khon 3 Điều 167 Luật
Đất đai năm 2013 nên hoàn toàn hợp pháp về hình thức.
[1.2] Về nội dung hợp đồng: nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất việc ký
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa ông Đ, P
với T là nhằm đảm bảo cho việc bà T cho P, ông Đ vay số tiền
3.200.000.000đồng, thực tế các bên không thỏa thuận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đối với 02 thửa đất 105, 162 tờ bản đsố 08 tại P, thành phố B
nên đây tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015. Như vậy, sở xác định hp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa ông Văn Đ, Nguyễn Thị Bích P
với bị đơn Huỳnh Thị Vân T đối với hai thửa đất 105, 162 hợp đồng giả
tạo nhằm che giấu hợp đồng vay i sản giữa ông Đ, bà P với bà T. Vậy nên hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 hiệu do giả tạo theo
quy định tại Điều 124, Điều 407 Bộ luật Dân sự năm 2015. Toà thẩm nhận
định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giả tạo nhằm che giấu hợp
đồng vay nên vô hiệu nhưng giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định
tại Điều 131 Bộ luật Tố tụng dân sự là chưa áp dụng đúng pháp luật giải quyết.
[2] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và T
giả tạo nên hiệu, hợp đồng vay tiền giữa nguyên đơn với T phát sinh hiệu
lực, nguyên đơn yêu cầu giải quyết hợp đồng vay tiền, cụ thnguyên đơn
đồng ý trả tiền vay gốc tiền lãi của số tiền đã vay với mức lãi suất
0,83%/tháng, yêu cầu Toà ghi nhận số tiền lãi T thừa nhận đã nhận của ông
Đ, P 1.176.000.000 đồng, yêu cầu tính lại tin lãi vược quá quy định để
khấu trừ vào số tiền nợ ông Đ, bà P có nghĩa vụ trả cho bà T nhưng Toà sơ thẩm
không giải quyết yêu cầu này của nguyên đơn chưa thực hiện đúng phạm vi
giải quyết theo quy định pháp luật tại Điều 5, Điều 124 Bộ Luật Dân sự 2015.
[3] Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Đ, P với T hiệu do giả
tạo, nhà đất tại các thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã P, thành
phố B, tnh Bến Tre vẫn do ông Đ, P quản lý, sử dụng; Các bên không thoả
thuận chuyển nhượng nhà, công trình kiến trúc, cây cối trên thửa đất 105,
162, cùng tờ bản đồ 08; không thoả thuận liên quan đến 10 ngôi mộ gia đình
nguyên đơn an táng người thân trên đất; Không thoả thuận nội dung nào liên
quan đấn phần đất nguyên đơn đã chuyển nhượng cho ông S do ông S, quản lý,
trồng cây hưởng hoa lợi nhưng chưa đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (Mặt dù ông S đã đứng ra xác định phần đất của ông S tại thời điểm ông Đua
tranh C1) nên các hợp đồng chuyển nhượng đất, hợp đồng thuê đất (kể cả các
hợp đồng uỷ quyền) giữa các đương sự liên quan trong vụ án (bà Vân T sang bà
16
P, từ P sang ông ông T1, bà L1; từ ông T1, L1 sang ông V) cũng
hiệu.
[4] Ông Đ, P cho rằng, việc hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với ông T1, bà L1 nhằm mục đích hợp thức hóa số tiền nợ T chuyển
sang cho ông T1, L1. Ông Đ, P không nhận từ ông T1, L1 tiền
chuyển nhượng đất. Quá trình giải quyết vụ án phía ông T1, bà L1 vắng mặt nên
không lời trình bày. Liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất này, ông Lữ Phúc N cho rằng sở dĩ ông được bà P ủy quyền đứng tên ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1 ngày 23/9/2021 do ông
có thỏa thuận cho ông T1 vay số tiền 4.000.000.000 đồng để ông T1, bà L1 nhận
chuyển nhượng đất của ông Đ, bà P. Để đảm bảo quyền lợi cho ông nên ông yêu
cầu ông T1 cho ông trực tiếp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho ông T1 sau khi P ủy quyền cho ông trực tiếp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1 ông đã giao cho ông T1 số tiền
4.000.000.000đồng ông T1 vay. Qua trình bày của ông N cho thấy, ông Đ,
P không nhận số tiền chuyển nhượng nào từ ông N (là người đại diện cho
nguyên đơn đứng chuyển nhượng đất thay nguyên đơn giao lại), việc ông N
được P ủy quyền hợp đồng chuyển nhượng (không phải người nhận
chuyển nhượng) quyền sử dụng đất cho ông T1 không thể bảo đảm được quyền
lợi của ông N như ông N trình bày. Hơn nữa, P không thừa nhận đã nhận của
ông T1 3.368.000.000đồng tiền chuyển nhượng hai thửa đất trên, ông T1 không
cung cấp chứng cứ chứng minh đã giao tiền chuyển nhượng cho P; nhà đất
vẫn do P, ông Đ sử dụng, không việc bà giao nhà đất cho ông T1. vậy,
n cứ xác định việc chuyển nhượng đt giữa P với ông T1, Linh mục
Đ1 để che giấu giao dịch dân sự khác. Vấn đề này Toà sơ thẩm cũng không làm
để căn cứ giải quyết đối với hợp đồng bị che giấu bởi hợp đồng chuyển
nhượng.
[5] Đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 09/11/2021 giữa bên chuyển nhượng ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn
Thị L1 ủy quyền cho Đặng Thị Kiều H với bên nhận chuyển nhượng ông
Nguyễn Khải V đối vi hai thửa 105, 162, cùng tờ bản đồ số 08, tọa lạc P,
thành phố B, tỉnh Bến Tre thấy rằng đôi bên có sự trình bày không thống nhất,
nhiều vấn đề chưa được đối chất, làm rõ nhưng Toà sơ thẩm lại nhận định ông V
là người ngay tình trong giao dịch là không phù hợp, cụ thể:
[5.1] Như đã nhận định ở phần trên thì hợp đồng chuyển nhượng đất giữa
ông Đ, bà P với ông T1, bà L1 cũng là vô hiệu. Ông T1, bà L1 không phải là chủ
sử dụng hợp pháp, chưa được giao nhà đất đối với hai thửa 105, 162, cùng tờ
bản đồ số 08, tọa lạc xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
17
[5.2] Ông Đ, bà P, bà H cho rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với ông V nhằm mục đích hợp thức hóa số tiền nợ bà T chuyển sang
cho ông T1, L1, sau đó ông T1, L1 chuyển nsang cho ông V nên không
việc ông T1 bàn giao nhà đất cho ông V. Việc ông V vào quản nhà đất
là do ông V lừa cha mẹ nuôi của bà H ợn chìa khóa vào chiếm dụng n
khi bà H, ông Đ, P không có nhà. Vì không có chuyển nhượng nhà, đất
cho ông V nên phía P, ông Đ đã gửi đơn tranh chấp với ông V tại Ủy ban
nhân dân xã P, phía ông V mới đồng ý trả thêm tin chuyển nhượng cho ông Đ,
P. Phía ông V cho rằng ông đồng ý hỗ trợ thêm tiền cho ông Đ, bà P xuất
phát từ việc ông Đ, P quan hệ con với ông V ông Đ P giới thiệu
cho ông V nhận chuyển nhượng đất với giá rẻ.
[5.3] Tại hp đồng chuyển nhượng đất nêu trên, các bên không thoả thuận
chuyển nhượng nhà, ng trình kiến trúc, cây cối có trên thửa 105, 162; tờ bản
đồ 08; không thoả thuận liên quan đến 10 ngôi mộ gia đình nguyên đơn an
táng người thân tn đất ng như phần đất nguyên đơn đã chuyển nhượng cho
ông S do ông S đang quản lý, sử dụng. Trường hợp ông V là người ngay tình thì
tại sao quyền sử dụng đất tranh chấp đang do ông Nghiêm Thanh T1 đứng tên,
ông V đã hợp đồng nhận chuyển nhượng xong với ông T1 (ông V đã đứng
tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng) mà ông V vẫn nhiều lần
liên hệ ông Đ, bà P, bà H yêu cầu thương lượng để nhn chuyển nhượng đất của
ông Đ, bà P với giá cao hơn ban đầu (Thể hiện tại biên bản hoà gii P, qua
nói chuyện điện thoại, tin nhắn Zalo).
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng các vi phạm của
cấp thẩm, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, để giải quyết
toàn diện vụ án, đúng quy định pháp luật cần thiết phải huỷ Bản án dân sự
thẩm số: 77 /2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Bến Tre (nay Tòa án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh Long) trả hồ về Tòa
án nhân dân Toà án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh Long giải quyết lại theo đúng
quy định pháp luật.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của
Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Án phí phúc thẩm: Do bản án thẩm bị hủy nên ông Đ, P không
phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 148 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
18
Hủy Bản án dân sự sơ thm số: 77 /2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện thành phố Bến Tre (nay là Tòa án nhân dân Khu vực
5 - Vĩnh Long) xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê tài sản” giữa nguyên đơn ông Võ Văn
Đ, Nguyễn Thị Bích P với bị đơn Huỳnh Thị Vân T; giao hồ vụ án cho
Tòa án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh Long để xét xử thẩm lại vụ án theo đúng
quy định của pháp luật.
Hoàn trả cho nguyên đơn Nguyễn Thị Bích P số tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền số 0002616 ngày
19/6/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự tnh phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre nay
là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 5- Vĩnh Long.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Vĩnh Long; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND khu vực 5-Vĩnh Long;
- Phòng THADS Khu vực 5-Vĩnh Long;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
Nguyễn Thị Rẻn
Tải về
Bản án số 161/2025/DS-PT Bản án số 161/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 161/2025/DS-PT Bản án số 161/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất