Bản án số 161/2025/DS-PT ngày 10/07/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 161/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 161/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 161/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 161/2025/DS-PT ngày 10/07/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
Số hiệu: | 161/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/07/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Võ Văn Đua kiện Bà Huỳnh Thị Vân Thy yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng ủy quyền,.. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 161/2025/DS-PT
Ngày: 10 - 7 - 2025
V/v “Tranh chấp hợp đồng uỷ
quyền, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê
tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Rẻn
Các Thẩm phán:Ông Huỳnh Ngọc Dũng
Ông Nguyễn Chí Đức
- Thư ký phiên tòa: Ông Huỳnh Vũ Duy Thanh - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh
Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 291/2024/TLPT-DS ngày 01
tháng 10 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê tài sản.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 77/2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 5 -
Vĩnh Long) bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3893/2025/QĐ-PT
ngày 04 tháng 10 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
1.1. Ông Võ Văn Đ, sinh năm: 1964 (chết ngày 21/8/2024)
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ gồm:
1.1.1. Bà Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1969
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 37A1, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
2
1.1.2. Bà Võ Thị Thúy D, sinh năm 1985
1.1.3. Bà Võ Thị D1, sinh năm 1987
Cùng địa chỉ: 2 ấp A, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Cùng địa chỉ hiện nay: 20/4 ấp A, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
1.1.4. Ông Võ Hoàng L, sinh năm 1989
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 37A1, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
1.2. Bà Nguyễn Thị Bích P, sinh năm: 1969
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 37A1, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P, ông L : Ông Nguyễn Văn P1, sinh
năm: 1976
Địa chỉ: Khu phố E, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Khu phố E, xã M, tỉnh Vĩnh Long.
2. Bị đơn:
Bà Huỳnh Thị Vân T, sinh năm: 1971
Địa chỉ: A, khu phố B, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 148D1, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Mai Dũng M, sinh năm: 1970
Địa chỉ: A, khu phố B, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 148D1, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Mai Dũng M: Bà Huỳnh Thị Vân
T, sinh năm: 1971
Địa chỉ: A, khu phố B, Phường F, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 148D1, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
3.2. Ông Nghiêm Thanh T1, sinh năm: 1983
Địa chỉ: 8, ấp B, xã S, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ: 8, ấp B, phường S, tỉnh Vĩnh Long.
3.3. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm: 1983
Địa chỉ: G, ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ: G, ấp B, phường B, tỉnh Vĩnh Long.
3.4. Bà Đặng Thị Kiều H, sinh năm: 1987
Địa chỉ: C, ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ: C, ấp A, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đặng Thị Kiều H: Ông Nguyễn Văn
L2, sinh năm: 1962
Địa chỉ: A, Khu phố E, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3
Địa chỉ hiện nay: 162B3, Khu phố E, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
3.5. Ông Lữ Phúc N, sinh năm: 1985
Địa chỉ: B, Khu phố C, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 271A3, Khu phố C, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
3.6. Ông Nguyễn Khải V, sinh năm: 1975
Địa chỉ: F, ấp N, xã N, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: 624A, ấp N, phường P, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Khải V: Bà Trần Thị Ngọc
Như Ý, sinh năm: 1992
Địa chỉ: ấp M, xã M, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: ấp M, phường A, tỉnh Vĩnh Long.
4. Người kháng cáo, kháng nghị: Nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn
Thị Bích P; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (nay là Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm;
Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên
đơn ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P cùng ủy quyền cho ông Nguyễn
Văn P1 trình bày:
Ngày 23/07/2020, ông Đ, bà P có vay tiền của bà Huỳnh Thị Vân T và
ông Mai Dũng M 02 lần (lần 1: vay 3.000.000.000 đồng, lãi suất 2,6%/tháng;
lần 2: vay 200.000.000đồng, lãi suất 3%/tháng), tổng cộng hai lần vay tiền là
3.200.000.000 đồng (Ba tỷ hai trăm triệu đồng); ông Đ, bà P đã đóng lãi cho bà
Vân T, ông M 12 tháng lãi với số tiền 1.008.000.000 đồng (Một tỷ lẻ tám triệu
đồng), việc đóng lãi ông Đ, bà P có chứng từ kèm theo. Vợ chồng bà Vân T
buộc ông Đ, bà P phải ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
23/7/2020 với nội dung chuyển nhượng các thửa đất của ông Đ, bà P cho bà T
gồm:
+ Thửa đất số 162, tờ bản đồ số 8, diện tích 147m
2
theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số phát
hành B 439212, số vào sổ cấp GCN CH00585 do Ủy ban nhân dân thành phố B,
tỉnh Bến Tre cấp ngày 31/10/2011 với giá 100.000.000đồng.
+ Thửa 105, tờ bản đồ số 8, diện tích 5.357,3m
2
theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số phát
hành B 439211, số vào sổ cấp GCN CH00584 do Ủy ban nhân dân thành phố B,
tỉnh Bến Tre cấp ngày 31/10/2011 với giá 300.000.000đồng.
Việc ký hợp đồng chuyển nhượng trên nhằm để làm tin cho khoản vay
của ông Đ, bà P, không phải thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thật.
Ngày 08/4/2021, bà Vân T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa 105 và 162 cùng tờ bản đồ số 08 tại xã P, thành phố B. Ngày 23/9/2021, bà
Vân T ủy quyền hai thửa đất 105 và 162 cho bà Nguyễn Thị Bích P. Cùng ngày
4
này, bà Vân T tiếp tục ủy quyền hai thửa đất 105 và 162 cho ông Lữ Phúc N.
Mặc dù ủy quyền cho ông N nhưng lại chuyển nhượng cho ông Nghiêm Thanh
T1 đối với hai thửa đất 105, 162 nêu trên.
Ngày 08/11/2021, ông T1 và bà L1 đặt cọc bán nhà cho ông Nguyễn Khải
V. Cùng ngày này, ông T1, bà L1 lại ủy quyền 02 thửa đất trên cho bà Đặng Thị
Kiều H. Ngày 09/11/2021, bà H lập thủ tục chuyển nhượng hai thửa đất trên cho
ông Nguyễn Khải V.
Ngoài việc lập thủ tục chuyển nhượng cho bà Vân T để làm tin vay tiền
thì ông Đ, bà P hoàn toàn không có chuyển nhượng hai thửa đất nêu trên mà
nhà, đất đều do ông Đ, bà P quản lý sử dụng, đến cuối tháng 11/2021, ông Đ, bà
P đi Long An có công việc và giao nhà đất cho bà Kiều H trông coi thì ông V
lừa dối bà Kiều H lấy chìa khóa nhà vào chiếm nhà, đất của ông Đ, bà P. Ông V
nhiều lần thương lượng với ông Đ, bà P để nhận chuyển nhượng hai thửa đất
nêu trên nhưng ông Đ, bà P không đồng ý.
Việc vay tiền, đóng lãi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất để hợp thức
hoá số tiền vay sang ông T1, bà L1 đã được bà Vân T thừa nhận trong các cuộc
nói chuyện giữa bà H và bà T được bà H ghi âm lại.
Do ông Đ, bà P không có chuyển nhượng đất cho ông V nên có đơn gửi
Ủy ban nhân dân xã P hòa giải buộc ông V trả lại hai thửa đất và hai căn nhà cho
ông Đ, bà P. Tại cuộc hòa giải do Ủy ban nhân dân xã P kết hợp với cơ sở ấp A,
vợ chồng ông V thừa nhận cầm đất, thương lượng, mua với giá 9.000.000
đồng/m
2
nhưng ông Đ, bà P không đồng ý, cho thấy bản chất thật sự ông Đ, bà P
hoàn toàn không có chuyển nhượng đất cho bà Vân T, các giao dịch tiếp theo
giữa bà T, ông T1 và ông V đều giả tạo nhằm che đậy hợp đồng cầm cố tài sản
để vay số tiền 3.200.000.000 đồng giữa ông Đ, bà P với bà Vân T. Từ cơ sở trên,
ông Đ, bà P khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre giải quyết:
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ, bà P với
bà Huỳnh Thị Vân T đối với hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp
A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre lập ngày 23/7/2020.
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Huỳnh Thị
Vân T, ông Mai Dũng M với ông Nghiêm Thanh T1 đối với hai thửa đất 105,
162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre lập ngày
23/9/2021.
- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nghiêm
Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1 (ủy quyền cho bà Đặng Thị Kiều H) với ông
Nguyễn Khải V đối với hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã
P, thành phố B, tỉnh Bến Tre lập ngày 09/11/2021.
- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa bà Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M
cho bà Nguyễn Thị Bích P ngày 23/9/2021.
- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa bà Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M
cho ông Lữ Phúc N ngày 23/9/2021.
- Hủy hợp đồng ủy quyền giữa ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1
cho bà Đặng Thị Kiều H ngày 08/11/2021.
5
- Hủy văn bản thỏa thuận giữa ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1
với bà Nguyễn Thị Bích P và bà Đặng Thị Kiều H.
- Hủy văn bản thỏa thuận giữa ông Nguyễn Khải V với bà Đặng Thị Kiều
H.
- Kiến nghị cơ quan chức năng điều chỉnh quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật.
Trường hợp xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, ông Đ và bà P đồng ý trả
lại ông V số tiền 4.241.000.000đồng và tiền lãi phát sinh theo lãi suất 0,83% đến
khi Tòa án giải quyết xong vụ việc. Không đồng ý bồi thường các công trình và
cây trồng do ông V xây dựng. Đồng thời, yêu cầu ông Nguyễn Khải V trả lại
nhà và đất cho ông Đ với bà P.
Đối với số tiền lãi đã đóng vượt quá cho bà Vân T, đề nghị Toà án ghi
nhận việc bà Vân T thừa nhận nguyên đơn đã đóng lãi cho bà T số tiền
1.176.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Huỳnh Thị Vân T,
đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan ông Mai Dũng M trình bày:
Ngày 23/07/2020, bà T có cho bà Nguyễn Thị Bích P vay 3.000.000.000
đồng, lãi suất 2,6%/tháng. Sau đó vài tháng, bà không nhớ rõ thời gian, bà cho
bà P vay tiếp 200.000.000đồng, lãi suất 3%/tháng, tổng cộng 3.200.000.000
đồng. Để đảm bảo khoản vay, bà P và ông Đ có ký hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất thửa đất số 162 và 105 tờ bản đồ số 08 tọa lạc tại xã P cho bà
để làm tin. Bà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất
trên vào ngày 08/4/2021. Bà và bà P thỏa thuận bà P đóng lãi hàng tháng, khi
nào bà P trả tiền thì bà chuyển trả lại đất cho bà P. Bà không nhớ bà P đóng lãi
cho bà được bao nhiêu do đóng bằng tiền mặt, bà P giao tiền lãi cho bà D2
(người bà nhờ thu tiền lãi dùm). Bà chỉ biết bà D2 ở P, G, Bến Tre, không biết
địa chỉ cụ thể.
Ngày 23/9/2021, bà P đã trả hết tiền cho bà. Cùng ngày, bà ủy quyền lại
cho bà P được trọn quyền đối với hai thửa đất số 162 và 105 tờ bản đồ số 08 tọa
lạc tại xã P. Lý do bà không chuyển nhượng lại đất cho bà P mà làm theo thủ tục
ủy quyền cho bà P do bà P đang có thỏa thuận chuyển nhượng phần đất trên cho
ông Nghiêm Thanh T1, để rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục chuyển nhượng,
nên bà mới làm ủy quyền cho bà P. Bà và ông Mai Dũng M chỉ có ký hợp đồng
ủy quyền ngày 23/9/2021 cho bà Nguyễn Thị Bích P, ngoài ra không có ký hợp
đồng gì khác. Bà P trả tiền mặt cho bà, bà có ký giấy nhận tiền hay không thì bà
không nhớ. Bà nhận tiền trực tiếp từ bà P và bà Kiều H, không phải nhận tiền từ
ông N như nguyên đơn trình bày. Bà không biết các giao dịch bà P thực hiện sau
khi bà ký ủy quyền 02 thửa đất trên lại cho bà P.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 162, 105 ngày 23/7/2020 giữa ông Đ, bà
P với bà bà đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
6
Đối với yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền ngày 23/9/2021 giữa bà, ông Mai
Dũng M cho bà Nguyễn Thị Bích P bà không đồng ý do hợp đồng này bà giao
đất lại cho bà P, ông Đ, kết thúc hợp đồng vay giữa bà P, ông Đ với bà.
Đối với các hợp đồng sau khi bà ký ủy quyền cho bà P do bà không biết
về các hợp đồng này nên không có ý kiến.
Đối với số tiền lãi, do khi đại diện nguyên đơn hỏi bà không nhớ rõ nên
xác định số tiền lãi đã nhận là 1.176.000.000đồng, nhưng do bà cho vay nhiều
lần không phải một lần, các giấy tờ đóng lãi do nguyên đơn cung cấp cũng
không thể hiện mỗi tháng đều đóng 84.000.000 đồng tiền lãi nên số tiền lãi
nguyên đơn đã đóng cho bà trong 14 tháng không phải 1.176.000.000 đồng, tuy
nhiên bao nhiêu tiền thì bà không nhớ rõ. Vào ngày 23/9/2021 ông Đ bà P có trả
bà 02 tháng tiền lãi là 168.000.000đồng, bà có bớt 8.000.000đồng cho con bà
Kiều H mua sữa.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Kiều H là ông
Nguyễn Văn L2 trình bày:
Bà Đặng Thị Kiều H được ông Đ, bà P (ba mẹ chồng bà H) giao quản lý
toàn bộ hai thửa đất 162, 105 tờ bản đồ số 08 và 02 căn nhà tọa lạc tại C, ấp L,
xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre khi ông Đ, bà P đi công việc ở Long An. Việc
ông Nghiêm Thanh T1 và bà Nguyễn Thị L1 ủy quyền cho bà H ký hợp đồng
chuyển nhượng cho ông V chỉ là hợp thức hóa hồ sơ, lý do: năm 2020 cha mẹ
chồng bà H có cầm hai thửa đất trên cho bà Huỳnh Thị Vân T để vay số tiền
3.200.000.000 đồng nhưng mất khả năng thanh toán nên bà T bán nợ lại cho ông
T1, bà L1, sau đó ông T1, bà L1 bán nợ cho ông Nguyễn Khải V.
Tất cả các giai đoạn cầm cố này đều hợp thức hóa bằng hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, khi bà H đi phụ xe với chồng không có nhà thì ông
V đến nhà cha mẹ nuôi bà H để lừa dối lấy chìa khóa để chiếm nhà, đất từ tháng
11/2021 cho đến nay. Bà Đặng Thị Kiều H khẳng định không có việc chuyển
nhượng đất của gia đình nhà chồng của bà với bà T, ông T1, bà L1 và ông V.
Tất cả chứng cứ gia đình bà H đang lưu giữ là chứng từ đóng lãi, ghi âm... thể
hiện chỉ vay tiền không có chuyển nhượng đất.
Bà H khẳng định việc ông V thỏa thuận cho bà H thuê nhà là không có, vì
thực tế căn nhà gia đình bà H đang ở. Bà H cho rằng gia đình bà chỉ cầm cố,
không có chuyển nhượng đất, ông V chiếm giữ hai thửa đất, hai căn nhà của gia
đình bà là trái với qui định của pháp luật nên đề nghị cơ quan chức năng buộc
ông V giao trả tài sản lại cho cha mẹ chồng bà quản lý sử dụng. Bà đồng ý hủy
văn bản thỏa thuận, hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất do bà tham gia giao kết.
Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Khải V ủy quyền cho bà Trần Thị Ngọc Như Ý trình bày:
Ngày 08/11/2021, giữa ông V và ông T1, bà L1 tiến hành ký kết Hợp
đồng đặt cọc để thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất 105 và 162 với tổng giá trị
chuyển nhượng là 4.241.000.000đ. Sau khi ký kết hợp đồng đặt cọc với ông T1,
7
bà L1, ông V đã giao đủ số tiền 4.241.000.000đ cho ông T1, bà L1 để ông T1,
bà L1 đến Ngân hàng TMCP S1 tất nợ Ngân hàng và lấy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa 105 và 162 để làm thủ tục chuyển nhượng cho ông V.
Cùng ngày 08/11/2021, ông T1, bà L1 đã ủy quyền cho bà Đặng Thị Kiều H (là
con dâu của ông Đ, bà P) để bà H toàn quyền định đoạt đối với thửa đất 105 và
162. Ngày 09/11/2021, bà H là người ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng hai thửa đất trên cho ông V, giá chuyển nhượng mỗi thửa 50.000.000đồng.
Ông T1 yêu cầu giảm tiền chuyển nhượng trong hợp đồng để giảm bớt tiền thuế.
Theo thỏa thuận ông V là người đóng thuế trước bạ, ông T1 là người đóng thuế
thu nhập cá nhân. Ngày 24/11/2021, ông V được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Từ khi nhận chuyển nhượng đến nay ông V là người trực tiếp quản lý
sử dụng phần đất này.
Sau đó, giữa ông V và bà H tiến hành ký kết hợp đồng thuê với mục đích
để bà H đại diện ông Đ, bà P thuê lại toàn bộ phần điện tích đất 105 và 162 cùng
với tài sản trên đất. Hợp đồng thuê không để ngày tháng năm lập. Nhưng do bà
H không thuê nên ông V đã vào quản lý từ khi chuyển nhượng đến nay.
Ngày 17/01/2022, ông V thế chấp 02 thửa đất 105 và 162 cho Ngân hàng
N1- Chi nhánh thành phố B để vay số tiền 2.800.000.000đ (Hai tỷ tám trăm triệu
đồng), hiện đã tất nợ, đã cung cấp hồ sơ cho Tòa án. Ông V không biết việc vay
tiền giữa bà P, ông Đ với bà T.
Trước khi ông V nhận chuyển nhượng phần đất này ông Đ, bà P có cầm
cho ông V một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay 500.000.000đồng,
nhưng sau đó ông V phát hiện Giấy chứng nhận này là giấy giả. Vì vậy, ông Đ
và bà P mới giới thiệu cho ông V nhận chuyển nhượng thửa đất 162, 105 với giá
1.900.000đồng/m
2
. Sau đó, ông V được biết thửa đất trên do ông T1 và bà L1
đứng tên nên mới ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông T1 và
bà L1. Khi ký hợp đồng chuyển nhượng là chuyển nhượng cả nhà và đất, do nhà
không có giấy đăng ký nên không thể hiện được vào hợp đồng. Tuy nhiên, ông
T1 đã giao nhà đất cho ông quản lý từ ngày 09/11/2021 đến nay nên chứng tỏ
ông V nhận chuyển nhượng cả nhà và đất.
Việc ông V thương lượng mua đất với ông Đ, bà P do ông Đ và bà P có
quan hệ bà con với ông V và giới thiệu ông V nhận chuyển nhượng phần đất với
giá rẻ nên ông V đồng ý hỗ trợ thêm tiền cho ông Đ, bà P. Tuy nhiên do sau đó
ông Đ và bà P không đồng ý với số tiền ông V đưa ra nên ông V không hỗ trợ
nữa. Ông V không lừa lấy chìa khóa như bà H và nguyên đơn trình bày. Chứng
cứ là trong tin nhắn Zalo do phía bà H cung cấp thể hiện việc bà H xin ông V
vào nhà ở do không có nhà ở, không thể hiện việc đòi lại nhà do ông V tự ý vào
nhà
Ông V khẳng định là ông nhận chuyển nhượng nhà đất hợp pháp nên
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Lữ Phúc N trình bày:
8
Ông có quen biết từ trước với ông Nghiêm Thanh T1 và bà Nguyễn Thị
L1 (vợ ông Nghiêm Thanh T1). Khoảng tháng 9/2021, ông T1 và bà L1 có đề
nghị vay của ông số tiền 4.000.000.000 đồng (Bốn tỷ đồng) để nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với 02 (hai) thửa đất số 105, 162 cùng tờ bản đồ
số 8, địa chỉ thửa đất tại xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Do là số tiền lớn và
ông T1, bà L1 không có tài sản đảm bảo nên ông có đề nghị ông T1, bà L1
không thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trực tiếp từ chủ sử dụng
đất mà phải thông qua hợp đồng ủy quyền toàn quyền cho ông để ký hợp đồng
chuyển nhượng cho ông T1, bà L1; ông T1, bà L1 đồng ý và đã trao đổi với chủ
sử dụng đất thống nhất thực hiện theo đề nghị của ông.
Ngày 23/9/2021, tại Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre, ông có tham gia giao
kết các hợp đồng như sau:
+ Ông T1, bà L1 yêu cầu ông ký kết hợp đồng nhận ủy quyền lại đối với
02 (hai) thửa đất nêu trên từ bà Nguyễn Thị Bích P theo hợp đồng ủy quyền số
công chứng 1156 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD do Công chứng viên
Huỳnh Đoàn Ngọc H1 của Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày
23/9/2021.
+ Ông và ông T1, bà L1 đã ký kết hợp đồng vay tiền số công chứng 1157
quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD do Công chứng viên Huỳnh Đoàn Ngọc
H1 của Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày 23/9/2021; ngay sau khi
hợp đồng vay tiền được ký kết, ông đã hoàn tất việc bàn giao đầy đủ cho ông
T1, bà L1 số tiền theo hợp đồng vay. Việc ông T1, bà Linh C sử dụng số tiền đó
như thế nào ông không rõ.
+ Ông và ông T1 đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với 02 (hai) thửa đất nêu trên số công chứng 1158 quyển số 01/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD do Công chứng viên Huỳnh Đoàn Ngọc H1 của Văn phòng C2,
tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày 23/9/2021. Toàn bộ hồ sơ, thủ tục đề nghị cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông T1, bà L1 thực hiện, ông không có
tham gia thực hiện.
Ngày 11/10/2021, ông T1, bà L1 đã hoàn trả đầy đủ cho ông số tiền, ông
và ông T1, bà L1 thống nhất hủy bỏ toàn bộ và vô điều kiện đối với hợp đồng
vay tiền số công chứng 1157 bằng hợp đồng hủy bỏ số công chứng 1450 quyển
số 01/2021 TP/CC- SCC/HĐGD do Công chứng viên Huỳnh Đoàn Ngọc H1 của
Văn phòng C2, tỉnh Bến Tre chứng nhận ngày 11/10/2021.
Ông N xác định không có quen biết, không có bất kỳ thỏa thuận nào với
ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P, bà Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M,
bà Đặng Thị Kiều H, ông Nguyễn Khải V. Ông và ông T1, bà L1 chỉ có thỏa
thuận và ký kết hợp đồng vay tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
việc ông nhận ủy quyền lại và ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
02 (hai) thửa đất nêu trên cho ông T1 là một phương thức để đảm bảo quyền lợi
của ông trong việc cho vay. Do đó, ông không thể biết và không có nghĩa vụ
phải biết các thỏa thuận hoặc tranh chấp có liên quan đến 02 (hai) thửa đất nêu
trên.
9
Vì những lẽ trên, ông nhận thấy ông không có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong tranh chấp các hợp đồng nêu trên nên đề nghị Tòa xem xét cho ông
được phép không tham gia trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu
tập đương sự, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa để
triệu tập ông Nghiêm Thanh T1 và bà Nguyễn Thị L1 tới Tòa án để tham gia
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham
gia phiên tòa xét xử nhưng ông Nghiêm Thanh T1 và bà Nguyễn Thị L1 không
đến, do đó Tòa án không thể lấy lời khai của ông Nghiêm Thanh T1 và bà
Nguyễn Thị L1, cũng như không tiến hành hòa giải giữa các đương sự với nhau
được.
Do hoà giải không thành, Toà án nhân dân thành phố Bến Tre đã đưa vụ án
ra xét xử. Tại quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số: 77/2024/DS-ST ngày 31
tháng 5 năm 2024, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ
Văn Đ và bà Nguyễn Thị Bích P, cụ thể tuyên:
- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 (số công
chứng 1498, quyển số 3 TP/CC-SCC/HĐGD) giữa bên chuyển nhượng ông Võ
Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P với bên nhận chuyển nhượng bà Huỳnh Thị Vân
T đối với hai thửa đất 105, 162 cùng tờ bản đồ 08, tọa lạc tại xã P, thành phố B,
tỉnh Bến Tre vô hiệu.
- Hủy văn bản thỏa thuận giữa bên cho thuê là ông Nghiêm Thanh T1, bà
Nguyễn Thị L1 với bên thuê là bà Nguyễn Thị Bích P và bà Đặng Thị Kiều H.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà
Nguyễn Thị Bích P về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bên chuyển nhượng bà Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M với
bên nhận chuyển nhượng ông Nghiêm Thanh T1 ngày 23/9/2021 (số công chứng
1158 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) đối với hai thửa đất 105, 162; tờ
bản đồ 08, tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà
Nguyễn Thị Bích P về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 09/11/2021 (số công chứng 2086 quyển số 01/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD) giữa bên chuyển nhượng ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị
L1 với bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Khải V đối với hai thửa đất 105,
162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại xã Phú Nhuận, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà
Nguyễn Thị Bích P về việc yêu cầu ông Nguyễn Khải V trả lại nhà và đất thuộc
thửa 105, 162 tờ bản đồ số 08 tại xã P, thành phố B.
5. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà
Nguyễn Thị Bích P về việc Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 23/9/2021 (số công
chứng 1155 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ) giữa bên ủy quyền bà
10
Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng M với bên được ủy quyền bà Nguyễn Thị
Bích P.
6. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà
Nguyễn Thị Bích P về việc hủy hợp đồng ủy quyền ngày 23/9/2021 (số công
chứng 1156 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) giữa bên ủy quyền bà
Nguyễn Thị Bích P (là đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị Vân T và ông
Mai Dũng M) với bên được ủy quyền ông Lữ Phúc N.
7. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà
Nguyễn Thị Bích P về việc Hủy hợp đồng ủy quyền ngày 08/11/2021 (số công
chứng 2078 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ) giữa bên ủy quyền ông
Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1 với bên được ủy quyền bà Đặng Thị Kiều
H.
8. Ghi nhận bà Đặng Thị Kiều H và ông Nguyễn Khải V tự nguyện Hủy
văn bản thỏa thuận giữa bên cho thuê ông Nguyễn Khải V với bên thuê bà Đặng
Thị Kiều H.
9. Chi phí tố tụng trong vụ án là: 24.308.000 (Hai mươi bốn triệu ba trăm
lẻ tám nghìn) đồng:
- Bị đơn bà Huỳnh Thị Vân T phải chịu chi phí tố tụng là 3.038.500đồng.
và có nghĩa vụ hoàn lại cho ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P số tiền trên.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nghiêm Thanh T1, bà
Nguyễn Thị L1, bà Đặng Thị Kiều H phải chịu chi phí tố là 3.038.500đồng và
có nghĩa vụ liên đới hoàn lại cho ông Đ, bà P số tiền trên
- Ông Võ Văn Đ và bà Nguyễn Thị Bích P phải chịu chi phí tố tụng đối
với phần yêu cầu không được chấp nhận là 18.231.000 đồng - đã nộp xong.
10. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các
trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án)
hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
11. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch ông Võ Văn Đ và bà Nguyễn
Thị Bích P phải chịu tổng cộng là 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng
- Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch bà Huỳnh Thị Vân T phải
chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng
- Án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch ông Nghiêm Thanh T1, bà
Nguyễn Thị L1, bà Đặng Thị Kiều H phải chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng
- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Ông Võ Văn Đ và bà Nguyễn Thị
Bích P phải chịu là 122.275.700 (Một trăm hai mươi hai triệu hai trăm bảy mươi
lăm nghìn bảy trăm) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
11
0005303, 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0005304, 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số
0005305 cùng ngày 08/4/2024.
Ông Đ và bà P còn phải nộp tiếp số tiền 121.375.700 (Một trăm hai mươi
mốt triệu ba trăm bảy mươi lăm nghìn bảy trăm) đồng.
12. Ông Võ Văn Đ và bà Nguyễn Thị Bích P được quyền khởi kiện bà
Huỳnh Thị Vân T vụ án khác để yêu cầu khấu trừ số tiền đóng vượt quá quy
định pháp luật.
13. Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền truy thu thuế đối với ông Võ Văn Đ,
bà Nguyễn Thị Bích P, ông Nghiêm Thanh T1 theo giá chuyển nhượng thực tế
3.368.000.000đồng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
23/9/2021 (số công chứng 1158 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) đối với
hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền truy thu thuế đối với ông Nghiêm
Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1, ông Nguyễn Khải V theo giá chuyển nhượng thực
tế 4.241.000.000đồng đối với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
09/11/2021 (số công chứng 2086 quyển số 01/2021 TP/CC-SCC/HĐGD) đối
với hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Ngoài ra, quyết định của bản án còn tuyên quyền kháng cáo của các đương
sự.
Ngày 14/6/2024, nguyên ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P kháng cáo
bản án sơ thẩm yêu cầu Toà án phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân
dân thành phố Bến Tre nay là Toà án nhân dân Khu vự 5 - Vĩnh Long.
Ngày 01/7/2024 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre nay là Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Vĩnh Long kháng nghị yêu cầu huỷ bản án sơ thẩm của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre nay là Toà án nhân dân Khu vự 5 - Vĩnh Long.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Nguyễn Văn P1 là người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn bà
Nguyễn Thị Bích P, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Võ Văn Đ
(ông Võ Hoàng L) trình bày: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu huỷ án sơ thẩm trên cơ sở đưa ra các căn cứ
như sau: Nguyên đơn và bà T hoàn toàn thừa nhận bà T cho nguyên đơn vay số
tiền gốc 3.200.000.000 đồng vào ngày 23/7/2020, nguyên đơn đóng lãi cho bà T
nhiều lần, tính đến ngày nguyên đơn trả tiền vay tổng số tiền lãi nguyên đơn
12
đóng cho bà T là 1.176.000.000 đồng. Để đảm bảo việc trả lại tiền vay, cùng
ngày vay tiền bà T đã yêu cầu nguyên đơn ký hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất các thửa 105, 162 cùng tờ bản đồ số 8 cho bà T, nhà đất cùng toàn
bộ tài sản trên đất vẫn do nguyên đơn quản lý, sử dụng. Thực chất đôi bên
không có chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là hợp đồng giả tạo, che đậy hợp đồng vay nên vô hiệu. Từ cơ sở vô
hiệu của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bà T
bởi yếu tố giả tạo nên các hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng sau đó
liên quan đến các thửa đất 105, 162 cũng vô hiệu. Toà sơ thẩm nhận định hợp
đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Phúc V1 là ngay
tình để công nhận là không đúng quy định pháp luật, vi phạm nghiêm trọng về
mặt áp dụng pháp luật: Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà T vô
hiệu do giả tạo nên bà T không phải là chủ sử dụng đất hợp pháp các thửa 105,
162 vậy nên bà T cũng không có quyền uỷ quyền cho các chủ thể khác thực hiện
các quyền liên quan đến các thửa đất 105, 162; Toà tuyên vô hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bà T, ông M do giả tạo
nhằm che đậy hợp đồng vay nhưng lại không giải quyết các quyền, nghĩa vụ của
đương sự liên quan đến hợp đồng vay, về tiền gốc, tiền lãi, yêu cầu tính lại phần
tiển lãi vượt quá quy định như thế nào trong khi nguyên đơn có yêu cầu giải
quyết vấn đề này. Hợp đồng uỷ quyền từ bà T cho bà P, bà P cho ông N ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1 để che đậy hợp đồng
chuyển nợ vay 4 tỷ đồng từ bà T sang ông T1 được bà T, ông N thừa nhận (Cụ
thể: bà T xác định bà P vay tiền người khác trả cho bà T, ông N xác định đưa
tiền vay cho ông T1, bà L1 không có thay mặt bà P, ông Đ nhận tiền chuyển
nhượng đất từ ông T1, bà L1 rồi giao lại cho ông Đ, bà P). Song song với việc
uỷ quyền này bà T còn ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trực tiếp
cho ông T1, bà L1 (Bl số 21, 22). Hợp đồng chuyển nhượng đất từ bà H sang
ông V1 cũng là hợp đồng giả tạo che đậy cho số tiền chuyển hoá nợ từ ông T1
sang ông V1, các đương sự hoàn toàn không có việc giao tiền chuyển nhượng
hay giao nhà đất chuyển nhượng cho nhau. Các bên không thoả thuận chuyển
nhượng nhà, công trình kiến trúc, cây cối có trên thửa 105, 162, tờ bản đồ 08;
không thoả thuận gì liên quan đến 10 ngôi mộ trên đất, không thoả thuận gì liên
quan đấn phần đất nguyên đơn đã chuyển nhượng cho ông S. Nếu ông V1 là
người ngay tình thì tại sao ông V1 đã đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mà ông V1 vẫn nhiều lần liên hệ ông Đ, bà P, bà H yêu cầu thương lượng để
nhận chuyển nhượng đất của ông Đ, bà P đối với các thửa 105, 162 cùng tờ bản
đồ số 8.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Kiều H thống nhất với ý kiến trình
bày của ông P1, khẳng định bà Kiều H và ông Đ, bà P không có chuyển nhượng
nhà đất, việc ký hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển nhượng, hợp đồng thuê
chỉ mục đích hợp thức hoá việc vay nợ, chuyển nợ từ chủ nợ ban đầu sang
những người tiếp theo. Không có việc giao tiền chuyển nhượng nhà đất ở bất kỳ
13
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nào; nhà đất vẫn do ông Đ, bà P, bà
H quản lý, sử dụng cho đến khi ông V1 lừa mượn chìa khoá rồi vào chiếm dụng.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông V1 cho rằng: Ông V1 chuyển
nhượng đất là hoàn toàn hợp pháp; Tại thời điểm chuyển nhượng đất do ông T1,
bà L1 đứng tên quyền sử dụng không có ai tranh chấp. Ông T1 bà L1 đã uỷ
quyền cho bà Kiều H ký hợp đồng chuyển nhượng; Ông V1 đã giao đủ tiền cho
ông T1, bà L1; Ông T1 bà L1 đã giao đất cho ông V1 quản lý, sử dụng hoàn
toàn không có việc lừa mượn chìa khoá rồi chiếm dụng nhà; Việc ông V1 đề
nghị hỗ trợ thêm tiền chuyển nhượng cho ông Đ, bà P là do thiện chí muốn giúp
đỡ ông Đ, bà P vì thấy ông Đ, bà P giới thiệu ông V1 mua đất giá rẻ trong khi
ông Đ, bà P khó khăn chứ không phải thoả thuận chuyển nhượng đất của ông Đ,
bà P. Việc trình bày của nguyên đơn cho rằng các hợp đồng chuyển nhượng
nhằm che đậy hợp đồng vay, chuyển nợ, bán nợ là không có căn cứ chứng minh;
Tại biên bản thẩm định ông S xác định không tranh chấp với ông V1, trường
hợp ông S có tranh chấp thì sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác. Trên cơ sở trình bày
người đại diện theo uỷ quyền của ông V1 yêu cầu Toà án giữ nguyên nội dung
án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các
quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đ,
bà P; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (nay là
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long), huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số:
77/2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến
Tre (nay là Toà án nhân dân Khu vực 5-Vĩnh Long).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày
của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của
Kiểm sát viên, xét kháng cáo của nguyên đơn ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị
Bích P, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre (Nay là Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long); Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
14
[1] Ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P khởi kiện bị đơn bà Huỳnh Thị
Vân T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Mai Dũng M, ông
Lữ Phúc N, ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1, bà Đặng Thị Kiều H,
ông Nguyễn Khải V yêu cầu hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, hợp đồng ủy quyền và hợp đồng thuê tài sản. Xét quan hệ tranh chấp giữa
ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P với bà Huỳnh Thị Vân T, ông Mai Dũng
M, ông Lữ Phúc N, ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1, bà Đặng Thị
Kiều H, ông Nguyễn Khải V là “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng thuê tài sản” nên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre (nay là Tòa án nhân
dân Khu vực 5-Vĩnh Long) theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Ông Võ Văn Đ chết ngày 21/8/2024 nên Toà án đưa người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 1
Điều 74 Bộ luật Tố tụng dân sự gồm: bà Nguyễn Thị Bích P, bà Võ Thị Thúy D,
bà Võ Thị D1, ông Võ Hoàng L.
[3] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lữ Phúc N yêu cầu Tòa án
giải quyết vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nghiêm Thanh
T1, bà Nguyễn Thị L1, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Đ là bà
Võ Thị Thúy D và bà Võ Thị D1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên
tòa đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân
sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Lữ Phúc N, ông
Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn Thị L1, bà Võ Thị Thúy D, bà Võ Thị D1.
[4] Căn cứ vào Biên bản xem xét thẩm định tại chổ ngày 28/3/2023 (Bl
số: 329-330); Bản tự khai ngày 09/11/2023 của người đại diện theo ủy quyền
của ông Nguyễn Khải V (Bl số: 414-415) thể hiện một phần diện tích đất thuộc
thửa 105 (ký hiệu thửa 105K, theo họa đồ đo đạc ngày 01/8/2023) trước đó ông
Đ, bà P đã thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thái S, sinh năm 1982;
địa chỉ: E, khu M, khu phố F, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Đất
hiện đang do ông S quản lý sử dụng trồng cây trên đất nhưng Tòa án cấp sơ
thẩm không đưa ông S vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan là đưa thiếu người tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 4
Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc giải quyết công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông V là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích của ông S, không đảm bảo khả năng Thi hành án trong thực tế đối với phần
đất và tài sản có trên đất đối với phần đất ký hiệu thửa 105K, theo họa đồ đo đạc
ngày 01/8/2023 .
Về nội dung:
[1] Xét Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa
ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P với bị đơn bà Huỳnh Thị Vân T đối với
15
hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre thấy rằng:
[1.1] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa
ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P với bị đơn bà Huỳnh Thị Vân T đối với
hai thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã P, thành phố B, tỉnh Bến
Tre được lập thành văn bản theo quy định tại Điều 502 Bộ luật Dân sự, được
công chứng chứng thực theo đúng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 167 Luật
Đất đai năm 2013 nên hoàn toàn hợp pháp về hình thức.
[1.2] Về nội dung hợp đồng: nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất việc ký
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa ông Đ, bà P
với bà T là nhằm đảm bảo cho việc bà T cho bà P, ông Đ vay số tiền
3.200.000.000đồng, thực tế các bên không có thỏa thuận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất đối với 02 thửa đất 105, 162 tờ bản đồ số 08 tại xã P, thành phố B
nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015. Như vậy, có cơ sở xác định hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 giữa ông Võ Văn Đ, bà Nguyễn Thị Bích P
với bị đơn bà Huỳnh Thị Vân T đối với hai thửa đất 105, 162 là hợp đồng giả
tạo nhằm che giấu hợp đồng vay tài sản giữa ông Đ, bà P với bà T. Vậy nên hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/7/2020 vô hiệu do giả tạo theo
quy định tại Điều 124, Điều 407 Bộ luật Dân sự năm 2015. Toà sơ thẩm nhận
định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giả tạo nhằm che giấu hợp
đồng vay nên vô hiệu nhưng giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định
tại Điều 131 Bộ luật Tố tụng dân sự là chưa áp dụng đúng pháp luật giải quyết.
[2] Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bà T
giả tạo nên vô hiệu, hợp đồng vay tiền giữa nguyên đơn với bà T phát sinh hiệu
lực, nguyên đơn có yêu cầu giải quyết hợp đồng vay tiền, cụ thể nguyên đơn
đồng ý trả tiền vay gốc và tiền lãi của số tiền đã vay với mức lãi suất
0,83%/tháng, yêu cầu Toà ghi nhận số tiền lãi bà T thừa nhận đã nhận của ông
Đ, bà P là 1.176.000.000 đồng, yêu cầu tính lại tiền lãi vược quá quy định để
khấu trừ vào số tiền nợ ông Đ, bà P có nghĩa vụ trả cho bà T nhưng Toà sơ thẩm
không giải quyết yêu cầu này của nguyên đơn là chưa thực hiện đúng phạm vi
giải quyết theo quy định pháp luật tại Điều 5, Điều 124 Bộ Luật Dân sự 2015.
[3] Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Đ, bà P với bà T vô hiệu do giả
tạo, nhà đất tại các thửa đất 105, 162; tờ bản đồ 08, tọa lạc tại ấp A, xã P, thành
phố B, tỉnh Bến Tre vẫn do ông Đ, bà P quản lý, sử dụng; Các bên không thoả
thuận chuyển nhượng nhà, công trình kiến trúc, cây cối có trên thửa đất 105,
162, cùng tờ bản đồ 08; không thoả thuận gì liên quan đến 10 ngôi mộ gia đình
nguyên đơn an táng người thân trên đất; Không thoả thuận nội dung nào liên
quan đấn phần đất nguyên đơn đã chuyển nhượng cho ông S do ông S, quản lý,
trồng cây hưởng hoa lợi nhưng chưa đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (Mặt dù ông S đã đứng ra xác định phần đất của ông S tại thời điểm ông Đua
tranh C1) nên các hợp đồng chuyển nhượng đất, hợp đồng thuê đất (kể cả các
hợp đồng uỷ quyền) giữa các đương sự liên quan trong vụ án (bà Vân T sang bà
16
P, từ bà P sang ông ông T1, bà L1; từ ông T1, bà L1 sang ông V) cũng là vô
hiệu.
[4] Ông Đ, bà P cho rằng, việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với ông T1, bà L1 nhằm mục đích hợp thức hóa số tiền nợ bà T chuyển
sang cho ông T1, bà L1. Ông Đ, bà P không có nhận từ ông T1, bà L1 tiền
chuyển nhượng đất. Quá trình giải quyết vụ án phía ông T1, bà L1 vắng mặt nên
không có lời trình bày. Liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất này, ông Lữ Phúc N cho rằng sở dĩ ông được bà P ủy quyền đứng tên ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1 ngày 23/9/2021 là do ông
có thỏa thuận cho ông T1 vay số tiền 4.000.000.000 đồng để ông T1, bà L1 nhận
chuyển nhượng đất của ông Đ, bà P. Để đảm bảo quyền lợi cho ông nên ông yêu
cầu ông T1 cho ông trực tiếp ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho ông T1 và sau khi bà P ký ủy quyền cho ông trực tiếp ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông T1 ông đã giao cho ông T1 số tiền
4.000.000.000đồng mà ông T1 vay. Qua trình bày của ông N cho thấy, ông Đ,
bà P không có nhận số tiền chuyển nhượng nào từ ông N (là người đại diện cho
nguyên đơn đứng ký chuyển nhượng đất thay nguyên đơn giao lại), việc ông N
được bà P ủy quyền ký hợp đồng chuyển nhượng (không phải là người nhận
chuyển nhượng) quyền sử dụng đất cho ông T1 không thể bảo đảm được quyền
lợi của ông N như ông N trình bày. Hơn nữa, bà P không thừa nhận đã nhận của
ông T1 3.368.000.000đồng tiền chuyển nhượng hai thửa đất trên, ông T1 không
cung cấp chứng cứ chứng minh đã giao tiền chuyển nhượng cho bà P; nhà đất
vẫn do bà P, ông Đ sử dụng, không có việc bà giao nhà đất cho ông T1. Vì vậy,
có căn cứ xác định việc chuyển nhượng đất giữa bà P với ông T1, bà Linh mục
Đ1 để che giấu giao dịch dân sự khác. Vấn đề này Toà sơ thẩm cũng không làm
rõ để có căn cứ giải quyết đối với hợp đồng bị che giấu bởi hợp đồng chuyển
nhượng.
[5] Đối với yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 09/11/2021 giữa bên chuyển nhượng ông Nghiêm Thanh T1, bà Nguyễn
Thị L1 ủy quyền cho bà Đặng Thị Kiều H với bên nhận chuyển nhượng ông
Nguyễn Khải V đối với hai thửa 105, 162, cùng tờ bản đồ số 08, tọa lạc xã P,
thành phố B, tỉnh Bến Tre thấy rằng đôi bên có sự trình bày không thống nhất,
nhiều vấn đề chưa được đối chất, làm rõ nhưng Toà sơ thẩm lại nhận định ông V
là người ngay tình trong giao dịch là không phù hợp, cụ thể:
[5.1] Như đã nhận định ở phần trên thì hợp đồng chuyển nhượng đất giữa
ông Đ, bà P với ông T1, bà L1 cũng là vô hiệu. Ông T1, bà L1 không phải là chủ
sử dụng hợp pháp, chưa được giao nhà đất đối với hai thửa 105, 162, cùng tờ
bản đồ số 08, tọa lạc xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
17
[5.2] Ông Đ, bà P, bà H cho rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với ông V nhằm mục đích hợp thức hóa số tiền nợ bà T chuyển sang
cho ông T1, bà L1, sau đó ông T1, bà L1 chuyển nợ sang cho ông V nên không
có việc ông T1 bàn giao nhà và đất cho ông V. Việc ông V vào quản lý nhà đất
là do ông V lừa cha mẹ nuôi của bà H mượn chìa khóa vào chiếm dụng nhà
khi bà H, ông Đ, bà P không có nhà. Vì không có chuyển nhượng nhà, đất
cho ông V nên phía bà P, ông Đ đã gửi đơn tranh chấp với ông V tại Ủy ban
nhân dân xã P, phía ông V mới đồng ý trả thêm tiền chuyển nhượng cho ông Đ,
bà P. Phía ông V cho rằng ông đồng ý hỗ trợ thêm tiền cho ông Đ, bà P xuất
phát từ việc ông Đ, bà P có quan hệ bà con với ông V và ông Đ bà P giới thiệu
cho ông V nhận chuyển nhượng đất với giá rẻ.
[5.3] Tại hợp đồng chuyển nhượng đất nêu trên, các bên không thoả thuận
chuyển nhượng nhà, công trình kiến trúc, cây cối có trên thửa 105, 162; tờ bản
đồ 08; không thoả thuận gì liên quan đến 10 ngôi mộ gia đình nguyên đơn an
táng người thân trên đất cũng như phần đất nguyên đơn đã chuyển nhượng cho
ông S do ông S đang quản lý, sử dụng. Trường hợp ông V là người ngay tình thì
tại sao quyền sử dụng đất tranh chấp đang do ông Nghiêm Thanh T1 đứng tên,
ông V đã ký hợp đồng nhận chuyển nhượng xong với ông T1 (ông V đã đứng
tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chuyển nhượng) mà ông V vẫn nhiều lần
liên hệ ông Đ, bà P, bà H yêu cầu thương lượng để nhận chuyển nhượng đất của
ông Đ, bà P với giá cao hơn ban đầu (Thể hiện tại biên bản hoà giải xã P, qua
nói chuyện điện thoại, tin nhắn Zalo).
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng các vi phạm của
cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, để giải quyết
toàn diện vụ án, đúng quy định pháp luật cần thiết phải huỷ Bản án dân sự sơ
thẩm số: 77 /2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Bến Tre (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh Long) trả hồ sơ về Tòa
án nhân dân Toà án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh Long giải quyết lại theo đúng
quy định pháp luật.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của
Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Án phí phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị hủy nên ông Đ, bà P không
phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 148 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
18
Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 77 /2024/DS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện thành phố Bến Tre (nay là Tòa án nhân dân Khu vực
5 - Vĩnh Long) xét xử vụ án “Tranh chấp hợp đồng uỷ quyền, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê tài sản” giữa nguyên đơn ông Võ Văn
Đ, bà Nguyễn Thị Bích P với bị đơn bà Huỳnh Thị Vân T; giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân Khu vực 5 - Vĩnh Long để xét xử sơ thẩm lại vụ án theo đúng
quy định của pháp luật.
Hoàn trả cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích P số tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền số 0002616 ngày
19/6/2024 của Chi Cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre nay
là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 5- Vĩnh Long.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Vĩnh Long; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND khu vực 5-Vĩnh Long;
- Phòng THADS Khu vực 5-Vĩnh Long;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
Nguyễn Thị Rẻn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm