Bản án số 16/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND TX. Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tội buôn bán hàng cấm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 16/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 16/2024/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 16/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND TX. Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh về tội buôn bán hàng cấm |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Trảng Bàng (TAND tỉnh Tây Ninh) |
Số hiệu: | 16/2024/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/02/2024 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 16/2024/HS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 03/2024/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Võ Hải N, sinh năm 1997, tại thành phố Hải Phòng; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: ấp BC, xã SN, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ VL (đã chết) và bà Vũ HL; vợ, con: chưa có; tiền án: có 01 tiền án, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 167/2022/HS-PT ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 244; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự tuyên phạt Võ Hải N 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”, thời gian thử thách 02 năm, chưa chấp hành án xong; tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 21/12/2023, tạm giam từ ngày 30/12/2023 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh Lâm H.A, sinh năm 1990; cư trú tại: khu phố B, phường L, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 05 giờ 30 phút ngày 21/12/2023, tại khu phố A, phường AT, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Công an thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh phối hợp Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Công an tỉnh Tây Ninh kiểm tra xe ô tô tải biển số 70H - xxxx do Lâm H.A điều khiển chở Võ Hải N phát hiện trên xe có 22 thùng xốp màu vàng sọc xanh được bịt kín bằng băng keo bên trong chứa 396 hộp giấy hình chữ nhật, bên ngoài có in nhiều hoa văn hình pháo hoa nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Qua điều tra, thể hiện: Vào khoảng 16 giờ, ngày 19/12/2023, Võ Hải N đang ở nhà tại ấp BC, xã SN, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh thì nhận được điện thoại của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua 396 hộp pháo hoa (loại pháo hoa nổ) thì N đồng ý bán với giá 500.000 đồng/01 hộp và hẹn giao, nhận vào lúc 05 giờ sáng ngày 21/12/2023 tại khu vực khu phố A, phường AT, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Đến khoảng 18 giờ ngày 20/12/12023, N gặp 01 người đàn ông khoảng 50 tuổi (không rõ họ tên, địa chỉ) tại khu vực vườn cao su thuộc xã SN, huyện Tân Châu mua 396 hộp pháo hoa đựng bên trong 22 thùng xốp màu vàng sọc xanh, được bịt kín bằng băng keo với giá tiền 400.000 đồng/01 hộp, tổng cộng 158.400.000 đồng. Sau khi mua pháo, N dùng xe mô tô không biển số vận chuyển đến địa điểm khác của vườn cao su cách khoảng 442m để cất giấu. Sau đó, N dùng xe mô tô vận chuyển toàn bộ số pháo hoa về nhà. Đến khoảng 03 giờ ngày 21/12/2023, N thuê anh Lâm H.A vận chuyển 22 thùng xốp và nói dối là thịt dê với tiền công 2.700.000 đồng. Khi anh H.A chở đến khu phố A, phường AT, thị xã Trảng Bàng thì bị bắt quả tang.
Ngoài ra, N còn khai nhận mua, bán pháo hoa 04 lần khác với phương thức, thủ đoạn như trên nhưng không có chứng cứ khác chứng minh.
Kết luận giám định số 323/KL-KTHS ngày 25/12/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 396 khối hình hộp chữ nhật có kích thước (17cm x 17cm x 10cm), bên ngoài dán giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có 49 ống là pháo nổ (pháo hoa nổ). Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng là 701,3 kg.
Tại Cáo trạng số 07/CT-VKSTrB ngày 25 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng đã truy tố bị cáo Võ Hải N về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận: hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Võ Hải N từ 09 đến 10 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự phúc thẩm số 167/2022/HS-PT ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh theo quy định.
- Về hình phạt bổ sung: đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về biện pháp tư pháp: đề nghị căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo: bị cáo đã biết hành vi của bị cáo là sai, xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án thấp để bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Trảng Bàng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt. Xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố đã thể hiện rõ lời khai cùng yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và việc vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự, xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về hành vi của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo khai nhận: vào lúc 05 giờ 30 phút ngày 21/12/2023, Võ Hải N thuê anh Lâm H.A chở 396 (ba trăm chín mươi sáu) hộp pháo nổ loại pháo hoa nổ có khối lượng 701,3 kg đi từ nhà của N đến khu vực khu phố A, phường AT, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh bán lại cho người khác nhằm thu lợi bất chính thì bị bắt quả tang.
Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án và đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi mua bán pháo nổ là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý mua 701,3kg pháo nổ để bán lại cho người khác nhằm thu lợi bất chính. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: hành vi của bị cáo Võ Hải N phạm tội “Buôn bán hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến các quy định của Nhà nước đối với các loại hàng hóa Nhà nước cấm kinh doanh. Bị cáo đang chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhưng bị cáo không tự tu dưỡng, sửa đổi mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, cho thấy thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần thiết phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử còn xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Cụ thể:
Về tình tiết tăng nặng: bị cáo có 01 tiền án và đang chấp hành án về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”, chưa được xóa án tích, nay bị cáo lại cố ý tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của bị cáo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Ngoài ra, theo Bản án hình sự phúc thẩm số 167/2022/HS-PT ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã tuyên phạt Võ Hải N 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”, thời gian thử thách 02 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Trong thời gian đang chấp hành án, đến ngày 21/12/2023 thì bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới. Do đó, bị cáo phải chấp hành hình phạt 01 năm tù của Bản án số 167/2022/HS-PT ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh và hình phạt của lần phạm tội này theo quy định tại Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: qua điều tra, xác minh bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Đối với 02 người đàn ông mua và bán pháo hoa nổ cho bị cáo N, hiện không rõ họ tên, địa chỉ, chưa làm việc được, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.
Đối với Lâm H.A không biết hàng hóa bị cáo N thuê chở là pháo hoa nổ và bà Vũ HL (mẹ ruột N) không biết N cất giấu pháo hoa nổ tại nhà nên không đề cập xử lý là phù hợp.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với 390 (ba trăm chín mươi) khối hộp giấy hình chữ nhật cùng kích thước (17x17x10)cm, bên ngoài dán giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có 49 (bốn mươi chín) ống pháo nổ (pháo hoa nổ), được đựng trong 22 (hai mươi hai) thùng xốp màu vàng sọc xanh, đã được niêm phong theo quy định: là hàng cấm nên cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu: OPPO, màu đen: số IMEI 1: 869447053616655; IMEI 2: 869447053616648, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 898404800881593xxxx, đã được niêm phong bằng bì thư theo quy định, kí hiệu M23 và 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia, màu đen, số sê ri: 35285805349xxxx, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 898404800090027xxxx, đã được niêm phong bằng bì thư theo quy định, kí hiệu M24 thu giữ của bị cáo N: 02 điện thoại này được bị cáo sử dụng vào việc liên hệ để mua bán pháo nổ nên cần tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.
Đối với 01 (một) xe mô tô không có gắn biển số, số máy: không có; số khung: không có, không có gắn ốp nhựa bên ngoài, chắn bùn phía trước bằng nhựa màu sơn xanh, trên xi lanh có dòng chữ “HAVICO KOREA”, dung tích: 107cm3, đã qua sử dụng, thu giữ của bị cáo N: xe mô tô này không có giấy tờ hợp pháp, không xác định được số khung, số máy; xe mô tô này được bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước.
Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu POCOPHONE, màu xanh, số IMEI 1: 862665040196054, IMEI 2: 862665040196062, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 898404800031842xxxx và 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 89840480003214xxxx, đã được niêm phong bằng bì thư theo quy định, kí hiệu M25 thu giữ của anh Lâm H.A: anh H.A không biết hàng hóa bị cáo N thuê chở là pháo nổ, điện thoại này không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho anh H.A.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng tại phiên tòa về mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ.
[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 56, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Hải N 09 (chín) năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Bị cáo phải chịu hình phạt 01 (một) năm tù về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” của Bản án hình sự phúc thẩm số 167/2022/HS-PT ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Tổng hợp hình phạt bị cáo Võ Hải N phải chịu 10 (mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 21/12/2023.
2. Về xử lý vật chứng: căn cứ vào các điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
2.1. Tịch thu tiêu hủy: 390 (ba trăm chín mươi) khối hộp giấy hình chữ nhật cùng kích thước (17x17x10)cm, bên ngoài dán giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi khối có 49 (bốn mươi chín) ống pháo nổ (pháo hoa nổ), được đựng trong 22 (hai mươi hai) thùng xốp màu vàng sọc xanh, đã được niêm phong theo quy định.
2.2. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu: OPPO, màu đen: số IMEI 1: 869447053616655; IMEI 2: 869447053616648, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 898404800881593xxxx, đã được niêm phong bằng bì thư theo quy định, kí hiệu M23.
- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia, màu đen, số sê ri: 35285805349xxxx, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 898404800090027xxxx, đã được niêm phong bằng bì thư theo quy định, kí hiệu M24.
- 01 (một) xe mô tô không có gắn biển số, số máy: không có; số khung: không có, không có gắn ốp nhựa bên ngoài, chắn bùn phía trước bằng nhựa màu sơn xanh, trên xi lanh có dòng chữ “HAVICO KOREA”, dung tích: 107cm3, đã qua sử dụng.
2.3. Trả cho anh Lê H.A: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu POCOPHONE, màu xanh, số IMEI 1: 862665040196054, IMEI 2: 862665040196062, đã qua sử dụng, bên trong gắn 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 898404800031842xxxx và 01 (một) sim Viettel có số sê ri: 89840480003214xxxx, đã được niêm phong bằng bì thư theo quy định, kí hiệu M25.
3. Án phí: căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Võ Hải N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!