Bản án số 147/2025/DS ngày 28/08/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 147/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 147/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 147/2025/DS
Tên Bản án: | Bản án số 147/2025/DS ngày 28/08/2025 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 147/2025/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/08/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lương Mạnh T, ông Nguyễn Văn C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Mạnh T1. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 17/3/2025 Toà án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số:147/2025/DS - PT
Ngày: 28/8/2025
V/v: Tranh chấp kiện đòi
quyền sử dụng đất.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà:
Bà Nguyễn Thị Thủy
Các thẩm phán:
Bà Vũ Thị An
Bà Nguyễn Thị Thu Hà
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Đạt - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Thái Nguyên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tham gia phiên
tòa: Bà Đỗ Thị Thu Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên
tiến hành mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
29/2025/TLPT-DS ngày 06/5/2025 về “Tranh chấp kiện đòi quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 17/3/2025 của Tòa án nhân
dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (Nay là Tòa án nhân dân khu vực 5 -
Thái Nguyên) bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 83/2025/QĐ-PT ngày 25
tháng 6 năm 2025 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Lương Văn D, sinh năm 1964; Địa chỉ: Xóm H, xã K,
huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Nay là xóm H, xã V, tỉnh Thái Nguyên). Có mặt;
Bị đơn:
- Ông Lương Mạnh T, sinh năm 1964. Có mặt;
- Anh Lương Mạnh H, sinh năm 2000. Có mặt;
Cùng địa chỉ: Xóm H, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Nay là xóm H,
xã V, tỉnh Thái Nguyên);
- Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1978; Địa chỉ: Xóm N, xã L, thành phố T,
tỉnh Thái Nguyên (nay là Xóm N, phường L, tỉnh Thái Nguyên). Có mặt;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
- Ông Lương Mạnh T1, sinh năm 1929; HKTT: xóm T, xã L, thành phố T,
tỉnh Thái Nguyên (Nay là xóm T, phường L, tỉnh Thái Nguyên); C1 ở hiện nay:
Tổ C, thị trấn S, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Nay xã Đ, tỉnh Thái Nguyên). Có
mặt;
Người đại diện theo ủy quyền cho bị đơn ông Nguyễn Văn C và ông
Lương Mạnh T1: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1959; Địa chỉ: Xóm K, xã L, thành
phố T, tỉnh Thái Nguyên (Nay là Tổ dân phố K, phường L, tỉnh Thái Nguyên).
Có mặt;
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông T1: Ông Nguyễn Hồng T2
và bà Nguyễn Thị Hồng L, ông Ngô Văn K – Luật sư Công ty L1 và đồng
nghiệp. Địa chỉ: LK9 - C Tổ N, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội (Nay là
phường T, thành phố Hà Nội). Ông T2, bà L có đơn xin xét xử vắng mặt; ông K1
có mặt;
- Bà Lê Thị H1, sinh năm 1967 (vợ ông D). Có mặt;
- Bà Nguyễn Thị K2, sinh năm 1962 (vợ ông T). Vắng mặt;
Cùng địa chỉ: xóm H, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Nay là xóm H,
xã V, tỉnh Thái Nguyên);
- Ông Trương Đình V, sinh năm 1965; Địa chỉ: Tổ C, phường H, thành
phố T, tỉnh Thái Nguyên (Nay là tổ H, phường P, tỉnh Thái Nguyên). Vắng mặt;
Người đại diện theo ủy quyền của ông V: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm
1978; Địa chỉ: Xóm N, xã L, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (Nay là N, phường
L, tỉnh Thái Nguyên). Có mặt;
Người làm chứng:
- Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1967. Có mặt;
- Ông Tăng Văn S, sinh năm 1962. Có mặt;
- Ông Trần Ngọc N, sinh năm 1957. Có mặt;
- Ông Nguyễn Khắc Đ1, sinh năm 1954. Vắng mặt;
Cùng địa chỉ: xóm H, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (Nay là xóm H,
xã V, tỉnh Thái Nguyên);
- Ông Lương Mạnh H2, sinh năm 1968. Địa chỉ: xóm A, xã K, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên (Nay là xóm A, xã V, tỉnh Thái Nguyên);
- Ông Hoàng Văn T3, sinh năm 1967; Địa chỉ: Tổ A, phường H, thành
phố T, tỉnh Thái Nguyên (Nay là phường P, tỉnh Thái Nguyên). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa sơ
thẩm nguyên đơn ông Lương Văn D trình bày:

3
Năm 2018, ông nhận chuyển nhượng QSD đất của ông Hoàng Văn T3 với
diện tích chuyển nhượng là 56.230m
2
tại thửa đất số 340 TBĐ số 5, giá tiền là
350.000.000
đ
(Ba trăm năm mươi triệu đồng). Khi chuyển nhượng giữa ông và
ông T3, bà H3 có làm thủ tục theo quy định, hiện nay giấy chứng nhận QSD đất
đã được thay đổi mang tên ông Lương Văn D. Khi ông nhận chuyển nhượng,
ông T3 có chỉ cho ông giáp ranh bên trên với các hộ ông Đ, ông V thuộc xóm N,
xã K, phía dưới giáp đường đi. Thời điểm ông mua bán với ông T3 có cây keo
trồng trên đất nhưng không đáng kể, hiện nay ông vẫn tiếp tục trồng cây trên
đất. Diện tích đất đang tranh chấp thuộc thửa 340 có nguồn gốc toàn bộ của ông
T1, ông T1 bán toàn bộ cho ông T3, hiện nay ông T, anh H, ông C làm trên đất
của ông T1 thuộc thửa 340, tờ bản đồ số 5 đã chuyển nhượng cho ông T3. Việc
ông T1 cho các con như thế nào ông không được biết vì bố con chia nhau trong
gia đình. Còn ông T1 chuyển nhượng cho ông T3 như thế nào thì ông T3 chuyển
nhượng toàn bộ diện tích đất cho ông như vậy. Ông T1 đã lấn chiếm của ông T3
trước khi ông mua sau đó bán cho ông C, ông chỉ biết từ khi hoà giải ở xã ông C
đứng ra nhận mua bán với ông T1. Từ khi ông nhận chuyển nhượng của ông T3
cho đến nay thì chưa có cơ quan chuyên môn nào tiến hành đo đạc chỉnh lý bản
đồ, điều chỉnh diện tích cũng như thông báo thu hồi đất của ông.
Nay ông đề nghị ông T, ông C, anh H và người liên quan phải trả lại ông
toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm cho ông theo kết quả đo đạc là diện tích đất
nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông đã mua của ông T3.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và lời khai tại phiên tòa sơ thẩm bị
đơn là ông Nguyễn Văn C trình bày:
Ông là người trực tiếp mua bán với ông T1 nhưng giấy tờ mua bán ghi tên
ông Trương Đình V. Phần diện tích ông mua bán với ông T1 là 82.000m
2
vào
năm 2021, có nhiều thửa nhưng các thửa đều chưa có giấy chứng nhận QSD đất.
Việc mua bán chỉ có giấy tờ viết tay có xác nhận của trưởng xóm chứ không lập
thành hợp đồng chuyển nhượng công chứng theo quy định, vì các thửa đất chưa
được cấp giấy chứng nhận QSD đất nên chưa thể lập hợp đồng chuyển nhượng
được. Khi mua bán thực trạng trên đất có keo, cau, vải, nhãn và 1 phần nuôi
trồng thuỷ sản (thả cá) có ranh giới rõ ràng, có ô thửa và hiện nay ông vẫn đang
trồng keo và nuôi trồng thuỷ sản. Diện tích đất ông mua của ông T1 đã được lập
hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSD đất và đã được niêm yết tại UBND xã K
vào năm 2021 trong thời gian quy định không có ai khiếu kiện thắc mắc nhưng
sau đó mới phát sinh tranh chấp vào giữa năm 2023 với ông D đến nay chưa thể
tiến hành làm thủ tục cấp giấy chứng nhận QSD đất nêu trên. Trên diện tích đất
ông mua của ông T1 ông trồng keo nhưng không hiệu quả. Diện tích ông D đang
đòi lại của ông mà ông đang trực tiếp quản lý sử dụng là các thửa đất nông
nghiệp nằm trong tờ bản đồ 94 không nằm trong thửa đất rừng số 340, tờ bản đồ
số 5, nên việc ông D khởi kiện đòi lại diện tích đất này là không có căn cứ. Nay

4
ông D khởi kiện ông không nhất trí vì ông có giấy tờ mua bán, ranh giới rõ ràng,
ông vẫn đang sử dụng và đề nghị Toà án xem xét để đảm bảo quyền lợi cho ông.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và lời khai tại phiên tòa sơ thẩm bị
đơn là ông Lương Mạnh T trình bày:
Ông là con đẻ của ông Lương Mạnh T1, năm 1990 ông được bố ông cho
diện tích đất để trồng chè và được đo đạc năm 2010 tại thửa 94, lô 38 diện tích
1948m
2
, việc bố ông cho chỉ bằng miệng không có giấy tờ và cũng không lập
hợp đồng tặng cho theo quy định. Năm 1993 ông thuê máy ủi san thành ruộng
phẳng để trồng lúa, đến 5 năm sau do trồng lúa không có nước nên ông lại tiếp
tục trồng chè trên diện tích đất đó, hiện nay ông đã trồng keo xen lẫn với chè
khoảng 4 năm nay (Từ năm 2018- 2024). Ông trồng chè hàng cách hàng 1,2m,
cây cách cây 20 cm, keo trồng 1m/ 1 cây. Ông trồng toàn bộ trên diện tích đất
đang tranh chấp với ông D. Diện tích đất này ông chưa được cấp giấy chứng
nhận QSD đất, ông chưa kê khai lần nào. Hiện nay ông D đang khởi kiện ông,
ông không có tranh chấp với ai, ông không nhất trí việc ông D kiện đòi QSD đất
của ông.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và lời khai tại phiên tòa sơ thẩm bị
đơn anh Lương Mạnh H trình bày:
Anh là con của ông Lương Mạnh H2 là cháu nội của ông Lương Mạnh
T1, anh được biết ông nội anh là ông T1 có cho bố anh diện tích đất trồng chè và
cây ăn quả (vải) vào khoảng năm 1990, việc ông anh cho bố anh, anh được biết
không có giấy tờ gì, đến nay cũng chưa làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Vì bố anh bệnh tật (tâm thần không nhận thức được) nên anh
là người trực tiếp quản lý và trồng keo, năm 2010 cũng tiến hành đo đạc nhưng
anh không biết số lô, số thửa, diện tích, hiện nay anh đã trồng keo toàn bộ diện
tích đất mà bố anh được ông T1 cho. Mật độ trồng keo 1,2m/1 cây và trồng keo
vào năm 2019. Đến nay ông D khởi kiện đòi quyền sử dụng đất hiện nay anh
đang sử dụng, anh không nhất trí.
Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và lời khai tại phiên tòa thẩm
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày
Ông Lương Mạnh T1 trình bày:
Ông xác định chuyển nhượng QSD đất cho ông Hoàng Văn T3 với diện
tích 56.230m
2
với giá 30 triệu/1ha. Số diện tích bán cho ông T3, ông đã nhận
tiền của ông T3 là 600.000.000
đ
(Sau trăm triệu đồng). Ông đã giao đất và nhận
tiền của ông T3. Sau khi ông bàn giao đất cho ông T3, ông vẫn tiếp tục trồng
keo thuê cho ông T3 từ năm 2011 đến 2016 ông không trồng nữa, đất đó ông T3
tiếp tục quản lý, sử dụng. Tất cả diện tích đất và cây trồng trên đất ông T3 vẫn
sử dụng và khai thác. Diện tích đất ông chuyển nhượng cho ông Trương Đình V
khoảng 8ha trong đó có cả diện tích hiện nay đang tranh chấp với ông D. Diện
5
tích đất ông chuyển nhượng cho ông V không nằm trong diện tích ông chuyển
nhượng cho ông T3. Việc mua bán giữa ông và ông V chỉ có giấy viết tay có xác
nhận trưởng xóm H, không có hợp đồng công chứng. Phần diện tích đất chuyển
nhượng cho ông Trương Đình V ông chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất,
giấy chuyển nhượng ghi tên ông Trương Đình V nhưng người trực tiếp giao tiền
và thoả thuận mua bán với ông là ông C. Khi bán cho ông V thì ông bán đất
đang trồng keo, trồng cây ăn quả và 1 phần diện tích đất trồng lúa tại tờ bản đồ
94 cụ thể trồng lúa và trồng keo bao nhiêu ông không nắm rõ. Nguồn gốc đất
ông bán cho ông V là đất ông khai hoang từ năm 1984. Từ khi khai phá một
mình ông sử dụng, đến năm 1990 ông cho 1 phần diện tích cho con trai ông là
ông Lương Mạnh T và Lương Mạnh H2, diện tích bao nhiêu ông không nhớ.
Khi cho là đất chân đồi không trồng cấy gì, ông chỉ cho bằng miệng không có
giấy tờ gì. Trong quá trình sử dụng, năm 2010 có đoàn đo đạc đến đo, phần diện
tích ông đã cho các con là ông T, ông H2 trực tiếp dẫn đạc, phần diện tích còn
lại của ông chưa cho các con thì ông là người trực tiếp đi dẫn đạc, phần diện tích
ông đã cho các con và đã bán ông không có ý kiến gì. Nay ông D khởi kiện ông
Lương Mạnh T và ông Nguyễn Văn C và anh Lương Mạnh H ông xác định
không mua bán gì với ông D. Hiện nay ông không còn diện tích đất nào trong
khu vực diện tích đất đang tranh chấp giữa ông D và ông T, ông C. Tất cả diện
tích đất của ông đã trình bày từ năm 1984 đến năm 2020 ông chưa kê khai lần
nào, đến năm 2021 ông mới kê khai để cấp giấy chứng nhận QSD đất cho ông
và hiện nay có hồ sơ niêm yết tại UBND xã K. Đất của ông từ khi khai hoang
cho đến khi cho các con và chuyển nhượng cho ông T3, ông V thì chỉ có năm
2010 có đoàn đo đạc đến đo đạc, còn từ đó chưa có cơ quan chuyên môn nào
tiến hành đo đạc chỉnh lý bản đồ, chỉnh lý diện tích cũng như thông báo thu hồi
đất.
Bà Lê Thị H1 trình bày: Năm 2018 vợ chồng bà có mua mảnh đất trồng
rừng của ông Hoàng Văn T3 với diện tích 56.230m2, tại thửa 340, tờ bản đồ số
5, địa chỉ thửa đất tại xóm H, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, diện tích trên đã
được sang tên cho ông Lương Văn D. Sau khi mua đất xong hai vợ chồng đã
tiến hành trồng cây và khai thác cây, quá trình sử dụng thì phát hiện ông T, ông
C đang sử dụng diện tích của gia đình bà, nay yêu cầu phải trả lại gia đình bà
phần đất lấn chiếm.
Bà Nguyễn Thị K2 trình bày: Bà nhất trí với ý kiến, yêu cầu của ông T
chồng bà, bà được bố chồng là ông Lương Mạnh T1 cho đất và đã canh tác sử
dụng ổn định từ khi cho đến nay không có tranh chấp với ai và không hề chuyển
nhượng cho bất cứ ai, nay ông D khởi kiện là không có căn cứ nên không chấp
nhận.
Ông Trương Đình V trình bày: Thời điểm tháng 9/2021 ông cùng ông
Nguyễn Văn C cùng nhau bỏ tiền mua lại diện tích đất của ông T1. Ngay sau khi
6
thực hiện giao dịch mua bán với ông T1, ông đã bàn giao diện tích đất cho ông
C quản lý trồng cây và không có tranh chấp với ai từ đó đến nay, ông C được
phép thay ông toàn quyền quản lý, sử dụng.
Những người làm chứng trình bày:
Ông Hoàng Văn T3 trình bày: Năm 2011 ông có mua của ông Lương
Mạnh T1 thửa đất số 340, tờ bản đồ số 5, có diện tích 56.230m
2
, địa chỉ thửa đất
tại xóm H, xã K, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên với giá tiền 35.000.000đ/lha. Ông
đã trả đủ tiền cho ông T1 và ông đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
toàn bộ diện tích đất này. Khi vào thoả thuận mua bán ông T1 nói với ông để lại
toàn bộ diện tích đất của ông T1 gồm diện tích đất rừng 2 bên và khe ở giữa,
toàn bộ diện tích đất ông T1 chỉ ranh giới cho ông là từ chân núi đến đỉnh núi,
sau đó ông T1 chỉ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 1 phía với tổng
diện tích 56.230m2 nên đã làm thủ tục chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sang cho ông, sau đó ông thuê
người trồng cây, đến năm 2018 ông đã chuyển nhượng lại toàn bộ cho ông D.
Trong cả quá trình ông canh tác, sử dụng không thấy có thông báo về việc thu
hồi hay điều chỉnh biến động gì liên quan đến diện tích đất ông đã mua của ông
T1.
Ông Nguyễn Văn P trình bày: Diện tích đất hiện nay ông T đang canh
tác sử dụng là do ông Thục T4 khai phá để trồng lúa được vài năm sau đó thì
chuyển sang trồng chè và trồng keo.
Ông Tăng Văn S trình bày: Diện tích đất ông T đang canh tác là của ông
Thực bố đẻ ông Thục tra mố, trồng sắn, sau đó cho ông T, ông Thục S1 làm
ruộng năm 1990 – 1993 được vài năm thì chuyển sang trồng chè và đến nay
trồng sen keo. Năm 2010 hoặc 2014 ông có được dẫn bên đo đạc đến từng hộ để
đo và nhận đất.
Ông Trần Ngọc N trình bày: Diện tích đất của ông T là do ông Thục T4
khai phá từ năm 1991 cho đến nay.
Ông Nguyễn Khắc Đ1 trình bày: Ông làm địa chính xã K từ năm 1993
đến năm 2003 thì nghỉ. Ông được biết diện tích đất ruộng hiện nay đang tranh
chấp với ông D có nguồn gốc do ông T1 khai phá sử dụng từ năm 1990, 1991.
Khi ông T1 khai phá ban đầu là ruộng, ông Thực C2 được vài vụ, sau đó như thế
nào thì ông không nắm được. Ông làm địa chính được biết năm 1993 có tiến
hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho dân nhưng những thửa ruộng
này ông T1 tự khai phá, không kê khai nên chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Ông Lương Mạnh H2 trình bày: Diện tích đất của ông T là do ông Thục
tự khai phá trên đất rừng hoang từ năm 1991 đến năm 1992 để làm ruộng cấy
7
lúa, được 8, 9 năm vì không có nước nên ông T chuyển sang trồng chè, năm
2020 chuyển sang trồng keo lấy gỗ.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 17/3/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định:
Áp dụng: khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều
271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166 Bộ luật dân sự; Điều 203
Luật đất đai; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí lệ phí;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lương Văn D về việc K3 đòi tài
sản là quyền sử dụng đất.
2. Buộc anh Lương Mạnh H phải thu hoạch cây cối và tài sản trên đất trả
lại cho ông Lương Văn D diện tích 3.150,9m
2
thuộc một phần thửa đất số 340,
tờ bản đồ số 5 nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 987620 do
UBND huyện Đ cấp ngày 31/8/2011, địa chỉ thửa đất tại xóm H, xã K, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên, diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ từ 1, 2, h4, h2, h1, c20,
c21, c22, c35, c36, h6, h5 đến 1.
- Buộc ông Lương Mạnh T thu hoạch cây cối và tài sản trên đất trả lại
diện tích 2963,3m
2
thuộc một phần thửa đất số 340, tờ bản đồ số 5 nằm trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 987620 do UBND huyện Đ cấp ngày
31/8/2011 cho ông Lương Văn D, địa chỉ thửa đất tại xóm H, xã K, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên, cụ thể:
+ Trả lại diện tích 1472,8m
2
tại thửa 38 tờ bản đồ 94, diện tích đất được
thể hiện theo sơ đồ tử a1, a2, a3, c10, c9, a4,a4, a5, а6, Т3, a8, a9, c15, c14, c13,
c12 đến a1.
+ Trả lại diện tích 62,3m
2
tại thửa 45, tờ bản đồ số 94, diện tích đất được
thể hiện theo sơ đồ tử a1, a2, a3, c11 đến al và thửa 146, tờ bản đồ số 94 có diện
tích 421m
2
.
+ Trả lại diện tích 1007, 2m
2
đất rừng thuộc thửa 340, tờ bản đồ số 5 có vị
trí cụ thể: diện tích 436,2m
2
, gồm 382,7m
2
diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ
từ a4, a5, a6, T2, T1 đến a4 và 53,4m
2
diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ từ
a8, a9, c16, c17 đến a8. Diện tích 571m
2
, diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ
từ 41, 42, 43, 44, a13, T5, C 37 đến 41.
- Buộc ông Nguyễn Văn C thu hoạch cây cối, tài sản trên đất trả lại diện
tích 6243,2m
2
thuộc một phần thửa đất số 340, tờ bản đồ số 5 nằm trong Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 987620 do UBND huyện Đ cấp ngày
31/8/2011 cho ông Lương Văn D, địa chỉ thửa đất tại xóm H, xã K, huyện Đ,
tỉnh Thái Nguyên, cụ thể:

8
+ Trả lại diện tích 2907m
2
tại các thửa: thửa 43, tờ bản đồ 94, có diện tích
139m
2
; thửa 44, tờ bản đồ 94, có diện tích 84m
2
; thửa 45, tờ bản đồ 94, có diện
tích 587m
2
; thửa 60, tờ bản đồ 94, có diện tích 283m
2
; thửa 61, tờ bản đồ 94, có
diện tích 276m
2
; thửa 62, tờ bản đồ 94, có diện tích 26m2; thửa 63, tờ bản đồ 94,
có diện tích 179m2; thửa 64, tờ bản đồ 94, có diện tích 357m
2
; thửa 65, tờ bản
đồ 94, có diện tích 191m
2
; thửa 66, tờ bản đồ 94, có diện tích 11m
2
; thửa 67, tờ
bản đồ 94, có diện tích 318m
2
; thửa 68, tờ bản đồ 94, có diện tích 370m
2
; thửa
69, tờ bản đồ 94, có diện tích 425m
2
; thửa 70, tờ bản đồ 94, có diện tích 248m
2
.
+ Trả lại diện tích 524,7m
2
tại thửa 45, tờ bản đồ số 94, diện tích đất được
thể hiện theo sơ đồ từ a1, c11, a3, 28, 29, 30,31, 32, 33 đến a1.
+ Trả lại diện tích 334,4m
2
tại thửa 38 tờ bản đồ 94, diện tích đất được thể
hiện theo sơ đồ từ al, c12, c13, c14, c15, a9, a10, 35, 34,33 đến al.
+ Trả lại diện tích 2477, 1m
2
đất rừng thuộc thửa 340, tờ bản đồ số 5 có vị
trí cụ thể: trả lại diện tích 2008,2m2, diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ từ
35,36,37,38,39,40,41,c37,c36,c35,c22,c21,c20,c19,c18,c17,c16,a9,a10 đến 35.
Diện tích 304,4m
2
diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ từ c4,c5,c6,c7,a12,a15
đến c4. Diện tích 22,3m
2
diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ từ a11,a12,c8
đến a11. Diện tích 65,3m
2
diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ từ
16,17,18,c2,c1 đến 16. Diện tích 76,9m
2
diện tích đất được thể hiện theo sơ đồ
từ 21,22,a15,a16 đến 21. (Có bản trích đo hiện trạng sử dụng đất do Công ty
TNHH H4 đo đạc kèm theo)
3. Ông Lương Văn D có quyền liên hệ các cơ quan có thẩm quyền để điều
chỉnh diện tích đất có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và làm các thủ
tục khác liên quan đến các diện tích đất trên theo quy định.
4. Án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Lương Mạnh T. Buộc anh
Lương Mạnh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.678.265
đ
. Buộc ông
Nguyễn Văn C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 16.550.395
đ
. Trả lại ông
Lương Văn D 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Đồng Hỷ theo biên lai thu số 0006987 ngày 16/10/2023.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quy định về việc thi hành án và quyền kháng
cáo theo quy định.
Ngày 31/3/2025 bị đơn ông Nguyễn Văn C, ông Nguyễn Văn T5 và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Mạnh T1 kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm với lý do: Trình tự tố tụng và bản án sơ thẩm có vi phạm tố tụng nghiêm
trọng; HĐXX sơ thẩm không đưa một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là UBND huyện Đ và UBND xã K vào tham gia tố tụng; Không triệu tập đúng
tư cách tham gia tố tụng của đối tượng có liên quan trực tiếp đến vụ án là ông
Hoàng Văn T3; Không tiến hành xem xét đối chất làm rõ và tôn trọng các tài
9
liệu liên quan trực tiếp đến vụ án do UBND xã K cung cấp làm ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong vụ án.
Yêu cầu tòa án phúc thẩm xem xét các nội dung:
- Đề nghị đưa UBND huyện Đ và UBND xã K vào tham gia tố tụng vì
đây là các tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, có liên quan trực tiếp
đến việc xem xét, định đoạt các diện tích đất đai được đề cập trong vụ án.
- Đề nghị đưa ông Hoàng Văn T3, người mua đất của ông Lương Mạnh
T1 sau đó bán lại toàn bộ diện tích đất đã mua đó cho ông Lương Văn D vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ
án theo đúng quy định của tố tụng dân sự và bản chất của vụ việc.
- Đề nghị tiến hành kiểm tra đối chứng toàn bộ hồ sơ cấp GCNQSD đất
đối với 56.000m
2
mà ông T3 đã mua của ông Lương Mạnh T1 sau đó bán lại
cho ông Lương Văn D. Đề nghị làm rõ việc cấp GCNQSD đất cho ông Hoàng
Văn T3 với diện tích đất mua của ông Lương Mạnh T1 có đúng trình tự và quy
định của pháp luật hay không.
Đồng thời đề nghị tòa án giải quyết và làm rõ: Ông T3 mua đất của ông
T1 năm 2011, năm 2012 được cấp GCNQSD đất diện tích 56.000m
2
đất rừng đã
mua của ông T1. Năm 2018 ông T3 bán toàn bộ diện tích trong GCNQSD đất
cho ông Lương Văn D. Tuy nhiên năm 2019 UBND xã K vẫn xác nhận bằng
văn bản và niêm yết toàn bộ diện tích đất tại các thửa số 43, 44, 45, 60, 61, 62,
63, 64, 65, 67, 68, 69, 70 tờ bản đồ số 94 mà ông C đã mua của ông T1 năm
2021 và tại các văn bản đó UBND xã K đã khẳng định chưa được cấp GCNQSD
đất cho ông T1 là trái với nhận định và quyết định của tòa án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm
Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kháng cáo giữ nguyên
nội dung kháng cáo theo đơn kháng cáo và các nội dung đã trình bày tại Tòa án
cấp sơ thẩm. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông Lương Mạnh T đề nghị
ông D xem xét trả lại số tiền san ủi đất khi ông T6 san ủi đã thuê và trả tiền cho
ông D.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Lương Mạnh T1 là luật
sư Ngô Văn K trình bày: Toàn bộ các thửa đất đang tranh chấp thuộc tờ bản đồ
địa chính 94 mà Tòa án cấp sơ thẩm đang cho rằng thuộc thửa đất 340 TBĐ số 5
của ông T1 là không đúng. Vì: Tại biên bản xác minh tại Phòng T8 (BL 126) đã
xác định các thửa đất này là đất hoang, đất lúa chưa cấp QSD đất cho ai; Tại
công văn số 789 (BL 183) Chi nhánh VPĐKĐĐ đã xác nhận các thửa đất chưa
có thông tin v/v cấp giấy CNQSD đất, chưa chuyển đổi, chuyển nhượng cho ai.
Sổ mục kê tại UBND xã V đang quản lý ghi tên người sử dụng các thửa đất này
là ông T, ông H2, ông T1; Biên bản xác minh ngày 02/12/2024 (BL 157): Bản
10
đồ địa chính năm 2010 thửa 340 đã đo bao các thửa đất nông nghiệp đang tranh
chấp và các thửa đất này đã có tại BĐĐC năm 2010, bản đồ năm 2018 đã đo
tách thửa 340 với diện tích thực tế là hơn 49.000m
2
, loại đất RSX; 5904 m
2
tại
các thửa đất nông nghiệp là đất trồng lúa, BHK chưa có người sử dụng; Các
thửa đất thuộc TBĐ số 94 vẫn được các ông T, H2, Thực quản lý sử dụng;
HĐCN giữa ông T1 và ông T3 năm 2011 thửa 340 TBĐ số 5 là đất RSX, không
có đất lúa và hiện trạng các thửa đất thuộc TBĐ số 94 cũng là đất lúa. Do vậy đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông T, C, T1.
Sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Lương Văn D.
Những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Lương Mạnh T1
là luật sư Nguyễn Hồng T2 và luật sư Nguyễn Thị Hồng L vắng mặt tại phiên
tòa tuy nhiên có bản luận cứ bảo vệ với những nội đồng quan điểm với luật sư
Ngô Văn K.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Văn C và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Mạnh T1 trình bày: Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T2 và ông D chỉ có thửa 340 tờ bản đồ số 5
và thửa đất trên là đất rừng sản xuất (RSX) trong khi các thửa đất đang tranh
chấp thuộc tờ bản đồ địa chính 94 năm hoàn toàn độc lập và là loại đất (LUK),
ông T1 và các con đã được xem xét thực tế sử dụng đất và đưa vào sổ mục kê.
Việc có tên trên sổ mục kê tương đương với việc quản lý hợp pháp. Bị đơn quản
lý không liên quan gì đến thửa đất số 340 tờ bản đồ số 5. Trong quá trình bị đơn
quản lý sử dụng không có tranh chấp. Đến khi chuyển nhượng cho ông D thì
mới có tranh chấp vì ông D cho rằng các thửa đất bị đơn nằm trong thửa đất số
340. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
không có cơ sở pháp lý. Việc cấp đất cho ông T2, ông D là không đúng quy
định.
Nguyên đơn và bà Lê Thị H1 không nhất trí với toàn bộ kháng cáo của bị
đơn và ông T1, giữ nguyên các ý kiến đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ
án và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu:
- Về sự tuân theo pháp luật: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng
xét xử, các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi nghị án đã thực hiện
đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 308, đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 17/3/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (Nay là Tòa án nhân dân khu vực 5
11
- Thái Nguyên). Ngoài ra, đề nghị HĐXX xem xét đến đề nghị của ông T về
việc đề nghị ông D trả lại số tiền san ủi đất.
- Về án phí: Đề nghị HĐXX miễn án phúc thẩm cho ông T, T1; ông C
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
(HĐXX) nhận định:
[1].Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định
đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết. Đơn kháng cáo của
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hạn luật định được xem xét
theo trình tự phúc thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm vắng mặt một số người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng nhưng những người này đều đã
có lời khai trong hồ sơ vụ án và họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, Hội
đồng xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng
dân sự
[1.2] Xét kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
về việc đề nghị đưa UBND huyện Đ và UBND xã K vào tham gia tố tụng.
Trong vụ án này các đương sự không có yêu cầu khởi kiện về việc đề nghị Tòa
án hủy quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước hoặc cá
nhân thi hành công vụ thuộc UBND huyện Đ, UBND xã K. Mặt khác, Tòa án sơ
thẩm cũng đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại UBND huyện Đ và
UBND xã K nên không cần thiết phải đưa hai cơ quan trên vào tham gia tố tụng.
Do đóđề nghị của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc xem
xét đưa những người này vào tham gia tố tụng là không có căn cứ chấp nhận.
[1.3] Xét kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đề nghị đưa ông Hoàng Văn T3 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án theo đúng quy định của tố tụng dân sự
và bản chất của vụ việc. HĐXX xét thấy do trong vụ án các đương sự không đề
nghị tòa án xem xét yêu cầu hủy hoặc tuyên vô hiệu các hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T1 với ông T3 và giữa ông T3 với ông D
mà chỉ yêu cầu giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất hiện nay đang được cấp
QSD cho ông D và hiện ông T, ông C, anh H đang sử dụng. Ông T3 không phải
người đang quản lý sử dụng đất tranh chấp. Phần đất trên đã được ông T3
chuyển nhượng cho ông D và thực hiện các thủ tục đăng ký, sang tên GCN QSD
đất nên việc tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông T3 vào tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng không làm ảnh hưởng đến việc
giải quyết vụ án. Mặt khác, ông T3 cũng đã có lời khai về những nội dung liên
12
quan ở trong hồ sơ vụ án. Do vậy đề nghị của người kháng cáo là không có căn
cứ chấp nhận.
[2.] Về nội dung vụ án: Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn C,
ông Lương Mạnh T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương
Mạnh T1:
[2.1.] Ông Lương Văn D khởi kiện ông Lương Mạnh T1, anh Lương
Mạnh H, ông Lương Văn C3 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất khoảng
8.530m
2
nằm trong thửa đất số 340, tờ bản đồ số 5 có diện tích 56.230m
2
, được
cấp GCNQSD đất số BA 987620, số vào sổ cấp GCN số CH00163 ngày
31/8/2011 mang tên ông Hoàng Văn T3 (theo Đơn khởi kiện và GCNQSD đất –
BL26, 7, 8).
[2.2.] Tại phiên tòa các đương sự đều thừa nhận toàn bộ diện tích đất tại
thửa đất 340 tờ bản đồ số 5 và các thửa đất thuộc tờ bản đồ số 94 (38, 43, 44, 45,
từ 60 đến 69, 103), thửa đất 146 tờ bản đồ số 95 là của ông Lương Mạnh T1 do
khai hoang và được giao đất giao rừng năm 1994 (ông T1 đã được cấp giấy
chứng nhận QSD đất). Năm 2011, ông T1 đã chuyển nhượng toàn bộ 56.230m
2
đất RSX thuộc thửa 340, tờ bản đồ số 5 cho ông Hoàng Văn T3 (ông T3 đã được
cấp giấy CNQSD đất). Sau khi nhận chuyển nhượng, ông T3 đã nhận đất nhưng
thuê ông T1 trồng rừng hộ, đến năm 2018 do ông T3 không trả tiền thuê trồng
rừng nên ông T1 không trồng rừng nữa. Cùng thời gian trên, ông T3 đã chuyển
nhượng toàn bộ thửa đất 340 tờ bản đồ số 5 cho ông Lương Văn D (ngày
25/9/2018 được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ xác nhận nội
dung thay đổi chuyển nhượng toàn bộ diện tích cho ông Lương Văn D). Đây là
các tình tiết sự kiện rõ ràng và có thật, được nhiều người biết, cũng thừa nhận
nên không phải chứng minh theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 92 của Bộ
luật tố tụng dân sự.
[2.3.] Qua đối chiếu trên bản đồ địa chính xã K năm 2018 thì thửa đất
340, tờ bản đồ số 5 (bản đồ đất rừng) nay là các thửa đất tờ bản đồ địa chính:
+ Thửa đất số 340, tờ bản đồ số 5, diện tích 49.851,1m
2
, loại đất (RSX);
+ Thửa đất số 38, tờ bản đồ số 94, có diện tích 1948 m², loại đất (BHK);
+ Thửa đất số 43, tờ bản đồ số 94, có diện tích 139 m², loai đất (LUK);
+Thửa đất số 44, tờ bản đồ số 94, có diện tích 84 m
2
, loai đất (LUK);
+ Thửa đất số 45, tờ bản đồ số 94, có diện tích 587 m
2
, loại đất (BCS);
+ Thửa đất số 60, tờ bản đồ số 94, có diện tích 283 m², loai đất (LUK);
+ Thửa đất số 61, tờ bản đồ số 94, có diện tích 276 m², loai đất (LUK);
+ Thửa đất số số 62, tờ bản đồ số 94 là đất ông Lương Mạnh T1, diện tích
26 m
2
;
+ Thửa đất số 63, tờ bản đồ số 94, có diện tích 179 m², loai đất (LUK);
+ Thửa đất số 64, tờ bản đồ số 94, có diện tích 357 m
2
, loai đất (LUK);
13
+ Thửa đất số 65, tờ bản đồ số 94, có diện tích 191m
2
, loai đất (LUK);
+ Thửa đất số 66, tờ bản đồ số 94, có diện tích 11m
2
, mục đích sử dụng
BCS (đất hoang).
+ Thửa đất số 67, tờ bản đồ số 94, có diện tích 318m
2
, loai đất (LUK);
+ Thửa đất số 68, tờ bản đồ số 94, có diện tích 370 m
2
, loai đất (LUK);
+ Thửa đất số 69, tờ bản đồ số 94, có diện tích 425m
2
, loai đất (LUK);
+ Thửa đất số 103, tờ bản đồ số 94, có diện tích 77m
2
, loại đất BCS (đất
hoang);
+ Thửa đất số 146, tờ bản đồ số 95, có diện tích 421m
2
, loại đất (BHK).
Các thửa đất trên tại tờ bản đồ số 94, 95 đã được đo đạc theo bản đồ địa
chính năm 2010 xã K.
[2.4.] Về nguồn gốc thửa đất 340, tờ bản đồ số 5 diện tích 56.230m
2
: Các
biên bản xác minh tại UBND xã K (B, 155-157), Biên bản hòa giải tranh chấp
QSD đất ngày 02/8/2023 (BL 21-25) và ý kiến, lời khai của các đương sự trong
quá trình hòa giải tại UBND xã K và quá trình giải quyết tại tòa án đều xác định
nguồn gốc thửa đất 340, tờ bản đồ số 5 diện tích 56.230m
2
là của ông Lương
Mạng T7, đã được cấp GCNQSD đất ngày 28/5/1994 mang tên ông Lương
Mạnh T1 (BL51). Ngày 22/7/2011 tại Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản thì
ông T1 và vợ đã thỏa thuận về việc phân chia tài sản, theo đó ông T1 được
quyền sử dụng đất 99.400m
2
đất rừng ở lô số 61,64,65,70,71,74, tờ bản đồ số 0.
Ngày 16/8/2011, ông T1 thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 340,
tờ bản đồ số 5, diện tích 56.230m
2
cho ông Hoàng Văn T3, “Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất” lập ngày 16/8/2011 được chứng thực của Chủ tịch
UBND xã K (BL67). Theo Biên bản về việc kiểm tra hiện trạng sử dụng đất
ngày 05/8/2011 và ngày 12/8/2011 xác định thửa 340 có diện tích 56.230m
2
, loại
đất RST, gồm các lô đất rừng: lô số 61 diện tích 19.400m
2
, lô số 64 diện tích
18.300m
2
, lô số 65 diện tích 13.200m
2
, lô số 70 diện tích 17.500m
2
, lô số 71
diện tích 18.000m
2
, lô số 74 diện tích 13.000m
2
, đất đã được cấp GCNQSD đất
số 00054 ngày 28/5/1994 hiện trạng sử dụng của ông Lương Mạnh T1 và ông
T1 đã chuyển quyền sử dụng cho ông T3. Ông T3 được cấp UBND huyện Đ cấp
GCNQSD đất số BA 987620, số vào sổ CH00193 ngày 31/8/2011 mang tên ông
Hoàng Văn T3 đối với thửa đất số 340, tờ bản đồ số 5, diện tích 56.230m
2
, đất
rừng sản xuất (BL 7). Ngày 10/9/2018 ông Hoàng Văn T3 đã chuyển nhượng
toàn bộ diện tích đất thửa 340, tờ bản đồ số 5, diện tích 56.230m
2
cho ông
Lương Văn D, hợp đồng chuyển nhượng ngày 10/9/2018 được chứng thực tại
UBND xã K. Ngày 25/9/2018 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ đã
xác nhận nội dung chuyển nhượng từ ông T3 sang ông D (BL 8).
Từ những căn cứ nêu trên, HĐXX xét thấy thửa đất số 340, tờ bản đồ số 5
có nguồn gốc của ông Lương Mạnh T1 khai phá, sử dụng, được cấp quyền sử
14
dụng đất, quá trình quản lý, sử dụng đất ông T1 đã chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thửa 340, tờ bản đồ số 5, diện tích 56.230m
2
cho ông T3 và ông T3 lại
tiếp tục chuyển nhượng cho ông D. Việc cấp quyền sử dụng đất cho ông T1,
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông T1 sang ông T3 và từ ông T3
sang ông D đúng quy định pháp luật.
[2.5.] Về đất của ông Lương Mạnh T: Theo lời khai của ông T thì năm
1990 ông T được bố là ông Lương Mạnh T1 cho diện tích đất để trồng chè và
được đo đạc năm 2010 tại thửa 94, lô 38 diện tích 1.948m
2
, việc cho chỉ bằng
miệng không có giấy tờ và cũng không lập hợp đồng tặng cho theo quy định,
ông T chưa kê khai xin cấp GCN quyền sử dụng đất lần nào và cũng chưa được
cấp giấy chứng nhận QSD đất. Qua đo đạc hiện trạng, xác định được diện tích
đất ông T xác định tại thực địa là 1.971,3m
2
tại thửa số 38 bản đồ địa chính và
nằm toàn bộ trong ranh giới thửa 340, tờ bản đồ số 5 (đối chiếu trên bản đồ địa
chính xã K năm 2006). Xét thấy việc ông T1 cho ông T đất không có giấy tờ,
xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyèn, ông T cũng không có chứng cứ
nào khác chứng minh việc ông T1 được cho đất và được cấp quyền sử dụng đối
với diện tích đất này. Mặt khác, như phân tích ở trên, năm 2011 ông Lương
Mạnh T1 đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất của thửa 340, tờ bản đồ số 5
(trong đó có có cả phần đất ông T khai được ông T1 cho năm 1990) cho ông
Hoàng Văn T3, việc chuyển nhượng thực hiện đúng quy định của pháp luật do
vậy không có cơ sở để xác định phần đất tranh chấp diện tích 1.971,3m
2
trên
thuộc quyền sử dụng của ông T.
[2.6.] Về đất của anh Lương Mạnh H: Anh H1 khai, khoảng năm 1990
ông nội anh là ông T1 có cho bố anh là ông Lương Mạnh H2 diện tích đất trồng
chè và cây ăn quả (vải). Việc ông anh cho bố anh không có giấy tờ gì, đến nay
cũng chưa làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh không
biết số lô, số thửa, diện tích. Tại bản Trích đo hiện trạng sử dụng đất (BL140a)
anh H xác định diện tích đất được cho là 3150,9m
2
, toàn bộ diện tích này nằm
trong ranh giới của thửa 340 theo bản đồ địa chính năm 2006 và bản đồ địa
chính năm 2018. Do việc tặng cho không có văn bản giấy tờ, xác nhận của cơ
quan nhà nước, không rõ số lô, thửa và diện tích đất này sau đó năm 2011 ông
T1 đã bán cho ông T3, do vậy không có căn cứ xem xét quyền sử dụng của anh
H2 đối với diện tích 3150,9m
2
đất trên.
[2.7.] Về đất của anh C3: Theo lời khai của ông T1, anh V, anh C3 thì
năm 2021 ông T1 đã viết giấy bán đất cho anh V (thực chất là bán cho anh C3),
đất mua bán gồm 14 thửa tại tờ bản đố số 94 và 01 thửa thuộc tờ bản đồ số 5,
“Giấy chuyển nhượng đất” đề ngày 29/6/2021 được lập giữa hai bên không ghi
rõ số thửa đất chuyển nhượng. Theo kết quả đo đạc hiện trạng của Công ty H4
xác định diện tích đất anh C3 chỉ là 15.982,2m
2
, trong đó có diện tích 6243,2m
2
là nằm trong ranh giới thửa 340 (đối chiếu theo bản đồ địa chính xã K năm
15
2006), theo bản đồ đất nông nghiệp (bản đồ địa chính năm 2018) thì nằm vào
các thửa đất số 340, 38, 45, 60, 61, 63, 44, 64, 43, 65, 66, 67, 68, 69, 70, tờ bản
đồ số 94 xã K (BL 104a). Do năm 2011 ông T1 đã chuyển nhượng toàn bộ diện
tích đất thửa 340, tờ bản đồ số 5, diện tích 56.230m
2
cho ông T3, sau đó năm
2018 ông T3 tiếp tục chuyển nhượng cho ông D (trong đó có diện tích đất
6243,2m
2
sau này ông T1 chuyển nhượng cho ông C3), việc chuyển nhượng là
hợp pháp và có hiệu lực, do vậy thời điểm năm 2021 ông T1 không còn quyền
sử dụng đối với 6.243,2m
2
đất này nữa và không có quyền chuyển nhượng
quyền sử dụng diện tích đất này cho anh V và anh C3.
[2.8.] Những người kháng cáo cho rằng năm 2019 UBND xã K đã xác
nhận bằng văn bản và niêm yết toàn bộ diện tích đất tại các thửa số 43, 44, 45,
60, 61, 62, 63, 64, 65, 67, 68, 69, 70 tờ bản đồ số 94 mà ông C3 đã mua của ông
T1 năm 2021 và tại các văn bản đó UBND xã K đã khẳng định chưa được cấp
GCNQSD đất cho ông T1 là trái với nhận định và quyết định của tòa án sơ thẩm.
Tuy nhiên HĐXX thấy việc niêm yết tại UBND xã chỉ là trình tự, thủ tục tiến
hành để thực hiện việc cấp GCNQSD đất cho công dân, sau khi niêm yết cơ
quan có thẩm quyền chưa thực hiện việc cấp GCNQSD đất cho công dân, việc
UBND xã K xác định các thửa đất trên chưa được cấp GCNQSD đất là do khi
Bản đồ rừng năm 2006 thửa 340, tờ bản đồ số 5 đã đo bao vào các thửa đất nông
nghiệp số 38, 43, 44, 45, 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 103 tờ bản đồ 94 và
thửa số 146 tờ bản đồ số 95. Đến năm 2018, sau khi đo đạc chỉnh lý thì thửa 340
có diện tích 49.851,1m
2
(BL 78-79, 155-157). Do thửa 340 tờ bản đồ số 5 cấp
GCNQSD đất cho ông T1 năm 1994, được chuyển nhượng cho ông T3 năm
2011 có diện tích 56.230m
2
là được xác định theo Bản đồ rừng năm 2006, do
vậy đã được chuyển nhượng toàn bộ cho ông D và thuộc quyền sử dụng của ông
D, bao gồm diện tích 49.851,1m
2
của thửa 340 và diện tích các thửa đất số 38,
43, 44, 45, 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70 tờ bản đồ số 94, thửa 146 tờ
bản đồ số 95.
[2.9.] Người đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Văn C, ông Lương Mạnh
T1 cho rằng các thửa đất thuộc thửa đất số 94 và nằm hoàn toàn độc lập là
không có căn cứ do thời điểm cấp GCN QSD đất cho ông Lương Mạnh T1 các
thửa đất trên thuộc thửa đất số 340, việc cấp GCN QSD đất đối với thửa đất số
340 là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Mặt khác không có hồ
sơ, tài liệu hay chứng cứ thể hiện các thửa đất thuộc tờ bản đồ số 94 là đất LUK
tại thời điểm cấp GCN QSD đất đối với thửa đất 340 cho ông Lương Mạnh T1.
[2.10.] Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông
Lương Mạnh T1 cho rằng toàn bộ các thửa đất đang tranh chấp thuộc tờ bản đồ
địa chính 94 mà Tòa án cấp sơ thẩm đang cho rằng thuộc thửa đất 340 TBĐ số 5
của ông T1 là không đúng vì thửa đất 340, tờ bản đồ số 5 đã đo bao cả các thửa
đất nông nghiệp đang tranh chấp. Như phân tích ở trên, thời điểm cấp GCN

16
QSD đất cho ông Lương Mạnh T1 các thửa đất trên thuộc thửa đất số 340, việc
cấp GCN QSD đất đối với thửa đất số 340 là đúng trình tự, thủ tục theo quy định
của pháp luật. Mặt khác không có hồ sơ, tài liệu hay chứng cứ thể hiện các thửa
đất thuộc tờ bản đồ số 94 là đất LUK tại thời điểm cấp GCN QSD đất đối với
thửa đất 340 cho ông Lương Mạnh T1. Việc bản bản đồ địa chính năm 2018 đã
đo tách thửa 340 với diện tích thực tế là hơn 49.000m
2
, loại đất RSX; 5904 m
2
tại các thửa đất nông nghiệp là đất trồng lúa, BHK chưa có người sử dụng; Các
thửa đất thuộc TBĐ số 94 là đo theo hiện trạng sử dụng đất. HĐXX xét thấy
nguồn gốc các thửa đất trên đều thuộc thửa đất số 340 đã được cấp GCN QSD
đất cho ông Lương Mạnh T1. Do vậy ý kiến trên của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho ông Lương Mạnh T1 là không có căn cứ. Yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
[3.] Từ những căn cứ, nhận định nêu trên HĐXX xét thấy tòa án cấp sơ
thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết,
danh sách những người tham gia tố tụng. Về nội dung, tòa án cấp sơ thẩm chấp
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
Kháng cáo của bị đơn ông Lương Mạnh T, anh Nguyễn Văn C, ông Lương
Mạnh T1 không có căn cứ chấp nhận, cần bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
[4.] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, HĐXX giữ nguyên
bản án sơ thẩm nên người kháng cáo phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy
nhiên ông Lương Mạnh T, ông Lương Mạnh T1 là người cao tuổi nên được
miễn án phí dân sự phúc thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội .
[5.] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nội dung vụ án đúng quy định
của pháp luật và có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Lương Mạnh T, ông
Nguyễn Văn C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Mạnh T1.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 02/2025/DS-ST ngày 17/3/2025 Toà án
nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (Nay là Tòa án nhân dân khu vực 5
- Thái Nguyên).
2. Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn C phải chịu 300.000
đ
(Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí
dân sự phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm
17
ứng án phí, lệ phí tòa án số 0002380 ngày 11/4/2025 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (Trước sáp nhập).
- Ông Lương Mạnh T và ông Lương Mạnh T1 được miễn án phí dân sự
phúc thẩm.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND Khu vực 5 - Thái Nguyên;
- THADS tỉnh Thái Nguyên;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Thủy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm