Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 18/07/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 143/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 143/2025/DS-PT ngày 18/07/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 143/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ngày 07-10-2024, ông Nguyễn Đăng H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nói trên vì cho rằng Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ khách quan và toàn diện, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm công nhận giao dịch mua bán nhà đất giữa ông Nguyễn Đăng H với bà Phan Thị Kim C có hiệu lực pháp luật; hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất ngày 30-5-2019 giữa bà Phan Thị Kim C với bà Nguyễn Thị Như H1
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số 143/2025/DS-PT
Ngày 18 7 2025
V/v “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu
tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà
đất, yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất vô hiệu”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
----------------------------------
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thanh Mai
Các Thẩm phán: Ông Vũ Việt Dũng
Ông Ngô Hà Nam
Thư phiên tòa: Trần Ngô Khánh Loan - Thư Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Ông Huỳnh Mạnh -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 18-7-2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ 174/2024/TLPT-DS ngày 12-11-2024
về việc “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mua
bán nhà đất, yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài
sản gắn liền với đất vô hiệu”.
Do Bản án dân sự thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 25-9-2024 của Tòa án
nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm s130/2025/QĐ-PT ngày
25-3-2025; giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đăng H, sinh năm 1987; địa chỉ: Số I đường
Đ, phường T (phường T, quận T cũ), thành phố Đà Nẵng; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn Đăng H: Ông
Đinh Xuân L; Luật thuộc Đoàn Luật thành phố Đ; địa chỉ; Công ty L1; 5
T, phường H, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
* Bị đơn: Phan Thị Kim C, sinh năm 1976; địa chỉ: Số D đường M,
phường H (xã H, huyện H cũ), thành phố Đà Nẵng. Hiện đang tạm giam tại Trại
tạm giam Công an thành phố Đ; vắng mặt.
2
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Nguyễn Thị Như H1, sinh năm 1972; địa chỉ: Số B đường N, phường
H (phường T, quận H cũ), thành phố Đà Nẵng; có mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nguyễn Thị Như H1: Ông
Đồng T; Luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đ; địa chỉ: Văn phòng L2; F
H, phường H, thành phố Đà Nẵng; có mặt.
- Văn phòng C1; địa chỉ: Số B đường X, phường C (phường K, quận C cũ),
thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.
* Người kháng cáo: Nguyên đơn – ông Nguyễn Đăng H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo Bản án sơ thẩm, tóm tắt như sau:
Nguyên đơn - ông Nguyễn Đăng H trình bày tại đơn khởi kiện quá trình
tham gia tố tụng tại Toà án:
Vào ngày 25-4-2019 ông Nguyễn Đăng H Phan Thị Kim C thỏa
thuận về việc mua nhà và đất của Phan Thị Kim C tại thôn D (nay là thôn H),
H, huyện H, thành phố Đà Nẵng đối với thửa đất số 64, tờ bản đồ số 5, diện
tích 210 m
2
(gồm 150 m
2
đất 60 m
2
đất trồng cây hằng năm khác) đã được
UBND huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với
đất số BG 704182 ngày 09-9-2011, đăng biến động đứng tên bà Phan Thị
Kim C theo hồ số 011250 CN.005, ngày đăng 10-4-2019 nhưng chưa làm
thủ tục chuyển nhượng, sau khi nhận chuyển nhượng nhà đất ông H đã giao đầy
đủ tiền sinh sống tại thửa đất trên, số tiền hai bên thỏa thuận
1.500.000.000đ. Cụ thể, ông Nguyễn Đăng H đã giao cho C tổng cộng 02 lần
tiền, lần thứ nhất giao số tiền: 1.300.000.000đ hai bên tiến hành giao nhận
nhà, số tiền còn lại 200.000.000đ hai bên hẹn đến ngày 03-5-2019 ông Nguyễn
Đăng H sẽ giao đủ cho bà C tại Phòng Công chứng để sang tên cho ông H.
Vào ngày 30-4-2019 bà Phan Thị Kim C tiếp tục nhận thêm số tiền
200.000.000đ của ông H. Đến ngày hẹn ra công chứng để sang tên thì Phan
Thị Kim C nói dối ông H làm mất bản gốc Giấy chứng nhận QSDĐ đang
tiến hành yêu cầu làm lại sổ để hoàn tất thủ tục được cấp giấy chứng nhận để
sang tên cho ông H. Tuy nhiên, bà C lại chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Như
H1. vậy, ông Nguyễn Đăng H khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết
buộc Phan Thị Kim C tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất
theo giấy bán nhà ngày 25-4-2019. Vì, việc mua bán giữa bà Phan Thị Kim C
ông Nguyễn Đăng H là thật đã hoàn thành việc mua bán nhà đất tại thửa
đất số 64, tbản đồ số 5 tại thôn D (nay thôn H), H, huyện H, thành phố
Đà Nẵng. Do đó, Ông Nguyễn Đăng H khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải
quyết công nhận giao dịch mua bán nhà đất giữa ông Nguyễn Đăng H với
Phan Thị Kim C có hiệu lực pháp luật. Và yêu cầu Tòa án hủy Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 5491, quyển số
3
01TP/CC - SCC/HĐGD ngày 30-5-2019 tại Văn phòng C1 giữa Phan Thị
Kim C với bà Nguyễn Thị Như H1.
Bị đơn - Phan Thị Kim C trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:
Tôi (Phan Thị Kim C) thỏa thuận bán nhà đất cho ông Nguyễn Đăng
H tại thửa đất số 64, tbản đồ số 5 địa chỉ thôn D (nay thôn H), H, huyện
H, thành phố Đà Nẵng với giá mua bán lúc đó 1.500.000.000đ, tôi đã nhận
tiền đầy đvào ngày 25-4-2019 bàn giao nhà cho ông Nguyễn Đăng H. Do
tin tưởng tôi nên ông H sau khi mua nhà đất đưa lại cho tôi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đtôi ợn. Do trước khi chuyển nhượng nhà đất cho
ông H, tôi mượn tiền của Nguyễn Thị Như H1 số tiền 800.000.000đ
đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất tôi đã chuyển nhượng
cho ông H để làm tin với H1, tôi ghi giấy chuyển nhượng cho bà H1, hai bên
hẹn khi tôi tiền thì tôi sẽ trả lại tiền cho chị H1 snhận lại bản gốc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay tôi đề nghị H1 cho tôi trả lại số tiền
800.000.000đ mà tôi đã mượn trước đó (giấy tờ mượn tiền H1 hiện tôi không
còn giữ do thất lạc) đồng thời H1 cho tôi nhận lại bản gốc giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để trả lại và tôi làm thủ tục công chứng sang tên cho ông
Nguyễn Đăng H. Tôi đề nghị Tòa án hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền s
dụng đất tài sản gắn liền với đất sổ 5491, quyển số 01TP/CC - SCC/HĐGD
ngày 30-5-2019 tại Văn phòng C1 giữa tôi (Phan Thị Kim C) với bà Nguyễn Thị
Như H1.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Như H1 trình
tại đơn cầu độc lập và trong quá trình giải quyết vụ án:
Giữa tôi (Nguyễn Thị Như H1) Phan Thị Kim C không quan hệ
quen biết nhau. Trong khoảng thời gian tháng 5-2019, thông qua mạng hội
Facebook, tôi thấy trong dịch vụ nhà đất, tôi không nhớ trang web cụ thể
đăng bán một thửa đất số 64, tờ bản đồ số 05, diện tích 210 m
2
, địa chỉ thôn H,
H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (gọi tắt thửa đất s 64) với giá
1.350.000.000đ trên trang web tên số điện thoại người bán Phan Thị
Kim C.
Khoảng ngày 20-5-2019 từ số điện thoại trên trang Web tôi liên hệ với
Phan Thị Kim C được C giới thiệu thửa đất số 64. C dẫn tôi và một
người cháu của tôi tên Đồng Văn D đến xem đất và tài sản trên đất tại thôn H, xã
H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. Sau khi xem, tôi đồng ý mua thửa đất trên của
C với giá 1.350.000.000đ. Ngày 30-5-2019, tại Văn phòng C1, tôi và bà C
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền trên đất đối
với thửa đất số 64, Hợp đồng được Công chứng bởi Công chứng viên Trần Công
M, tại đây tôi đã giao cho C đủ số tiền 1.350.000.000đ. Sau khi công chứng
chuyển nhượng xong tôi không đủ tiền để làm Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sang tên cho tôi nên tôi vẫn giữ bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của C Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa tôi
bà C .
4
Đến tháng 12-2019 tôi thỏa thuận bán lại thửa đất trên cho ông Trần
Quốc Đ với giá 1.350.000.000đ. Tôi đã nhận cọc từ ông Đ 500.000.000đ. Tôi và
ông Đ thỏa thuận sau khi nhận tiền của ông Đ tôi snộp thuế chuyển tên trong
Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, sau đó slàm Hợp đồng chuyển nhượng
cho ông Đ và ông Đ sẽ giao cho tôi hết số tiền còn lại. Tuy nhiên sau khi tôi nộp
hồ đsang tên vào Văn phòng đăng đất đai huyện H thì tôi nhận được
thông báo đất có tranh chấp tôi không làm được thủ tục sang tên chuyển nhượng
cho tôi được. Sau đó ông Đ đã nhận lại tiền đặt cọc nên giữa tôi và ông Đ đã giải
quyết xong không liên quan trong vụ án này.
Trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giữa tôi bà
Phan Thị Kim C tại Văn phòng C1 ngày 30-5-2019 có ghi giá chuyển nhượng là
100.000.000đ nhưng thực tế giá chuyển nhượng 1.350.000.000đ, trong đó tôi
chuyển khoản vào tài khoản của bà Phan Thị Kim C 02 lần: Lần 1 chuyển
160.000.000đ; lần 2 chuyển 300.000.000đ giao tiền mặt tại Văn phòng C1
vào ngày 30-5-2019 890.000.000đ mục đích để nhận chuyển nhượng thửa
đất số 64, tờ bản đồ số 05, diện tích 210 m
2
, địa chỉ thôn H, H, huyện H,
thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
với đất số BG 704182 do UBND huyện H cấp ngày 09-9-2011, đăng biến
động đứng tên sở hữu bà Phan Thị Kim C.
vậy, tôi đề nghị Tòa án xem xét giải quyết để bảo vệ quyền lợi của
tôi theo quy định của pháp luật mà bà Phan Thị Kim C đã chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của thửa đất nói trên đã được công chứng
tại Văn phòng C1 ngày 30-5-2019. Yêu cầu Tòa án xem xét công nhận Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất số 5491,
quyển s01TP/CC - SCC/HĐGD ngày 30-5-2019 tại Văn phòng công chúng
Trần Công M giữa Phan Thị Kim C với Nguyễn Thị Như H1 hiệu lực
pháp luật.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1 trình bày tại công
văn số 41/CV-CCTCM ngày 13-9-2022:
Văn phòng C1 cung cấp toàn bộ bản sao mục lục hồ công chứng liên
quan đến thửa đất số 64, tờ bản đồ số 05, diện tích 210 m
2
, địa chỉ thôn H, xã H,
huyện H, thành phố Đà Nẵng theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất số BG 704182 do UBND huyện H cấp ngày 09-9-2011 giữa
Phan Thị Kim C Nguyễn Thị Như H1. Đề nghị Tòa án giải quyết đúng
theo quy định của pháp luật.
* Bản án dân sự thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 25-9-2024 của Tòa án
nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định (tóm tắt):
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều
39, 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 117, 122, 123, 124, 129, 131 Bộ luật
dân sự; Điều 167 Luật đất đai 2013; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
5
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đăng
H đối với bị đơn bà Phan Thị Kim C. Tuyên giao dịch mua bán nhà đất ngày 25-
4-2019 giữa ông Nguyễn Đăng H với bà Phan Thị Kim C bị vô hiệu.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị Như H1. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền với đất ngày 30-5-2019 tại Văn phòng C1 giữa Phan Thị
Kim C với bà Nguyễn Thị Như H1 hiệu lực pháp luật. Nguyễn Thị Như
H1 được quyền sử dụng đối với thửa đất số 64, tờ bản đồ số 5, diện tích 210 m
2
,
trong đó 150m
2
đất 60 m
2
đất trồng cây hàng năm khác và tài sản trên đất,
tại thôn D (nay là thôn H), H, huyện H, thành phố Đà Nẵng. H1 được
quyền liên hệ quan nhà nước thẩm quyền để chỉnh biến động sang tên
trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Hậu quả của hợp đồng vô hiệu, tranh chấp giao dịch vay tiền giữa ông H và
bà C sau này nếu ông H, bà C có yêu cầu thì giải quyết trong một vụ án khác.
3. Về chi phí tố tụng: Chi phí thẩm định giá tài sản Chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ nguyên đơn ông Nguyễn Đăng H phải chịu.
4. Án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Đăng H phải chịu
300.000đ. Bị đơn bà Phan Thị Kim C không phải chịu án phí.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo nghĩa vụ thi
hành án của các đương sự.
* Đơn kháng cáo:
Ngày 07-10-2024, ông Nguyễn Đăng H đơn kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm nói trên vì cho rằng Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá tài liệu,
chứng cứ khách quan toàn diện, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của ông và đề nghị Toà án cấp phúc thẩm công nhận giao dịch mua
bán nđất giữa ông Nguyễn Đăng H với Phan Thị Kim C hiệu lực pháp
luật; hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
ngày 30-5-2019 giữa bà Phan Thị Kim C với bà Nguyễn Thị Như H1.
* Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
phát biểu tại phiên tòa phúc thẩm:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án giai đoạn
phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử
không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Đăng H do không căn cứ
pháp luật và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 25-9-
2024 của Tòa án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
6
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng; Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn- bà Phan Thị Kim C hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an
thành phố Đ nên không thể tham gia phiên toà Người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan- Văn phòng C1 đơn đề nghị xét xvắng mặt nên Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này theo quy định tại Khoản 3 Điều 296
Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Xét Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Đăng H:
[2.1] Ti h sơ v án tn tại hai văn bản chuyển nhượng quyn s hu nhà,
quyn s dụng đất gm:
1. “Giấy bán nhà” ngày 25-4-2019, không công chng, chng thc,
ni dung: Bà Phan Th Kim C bán cho ông Nguyễn Đăng H toàn b din tích đất
ngôi ncp 4 trên thửa đất s 64, t bản đồ s 5, địa ch thôn D, xã H,
huyn H, thành ph Đà Nẵng, din tích 210m
2
, với gbán 1.500.000.000đ,
C đã nhận 1.300.000.000đ, số tin còn lại 200.000.000đ hn ngày 03-5-2019
c hai bên mua và bên bán s cùng nhau đến Văn phòng công chứng Trn Công
M để làm th tc công chứng sang tên cho bên mua và bên mua thanh toán đủ.
2. “Hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đt và tài sn gn lin vi
đất” ngày 30-5-2019, công chng, chng thc ti Văn phòng C1, ni
dung: Phan Th Kim C chuyển nhượng cho Nguyn Th Như H1 tha đất
s 64, t bản đ s 5, đa ch thôn H, H, huyn H, thành ph Đà Nẵng, din
tích 210m
2
, tài sn gn lin với đất là nhà cp 4 din tích 45m
2
; vi giá chuyn
nhượng là 100.000.000đ; sau khi ra công chng bà H1 giao đủ tin thì bà C giao
nhà đất giy t nhà đất; vic thanh toán tin do hai bên t thc hin chu
trách nhiệm trước pháp lut.
Như vậy, cùng mt thửa đất s 64 nhưng Phan Th Kim C chuyn
nhưng cho ông Nguyễn Đăng H vào ngày 25-4-2019 và chuyển nhượng cho bà
Nguyn Th Như H1 vào ngày 30-5-2019.
V trình bày ca các đương sự thì c ông Nguyễn Đăng H Nguyn
Th Như H1 đều cho rng vic nhn chuyển nhượng thửa đất s 64 t bà Phan
Th Kim C giao dịch thông thường. Phn bà C thì cho rng vic chuyn
nhượng nhà đất gia bà C và ông H là s tht, còn vic bà C chuyển nhượng cho
H1 là để đảm bo giao dịch vay mượn tin.
Tuy nhiên, ti các Biên bn ghi li khai do Công an huyn H Công an
qun C, thành ph Đà Nẵng lập vào đầu năm 2020 trong giai đon mi phát sinh
v án này - khi ông H t cáo bà C lừa đo chiếm đoạt tài sn, thì ông H C
đều khai: Bà Phan Th Kim C nhn chuyển nhượng thửa đất s 64 ca v chng
ông Trần Phước N, Nguyn Th N1 với giá 1.500.000.000đ nhưng bà C ch
200.000.000đ đã đặt cc nên ngày 09-4-2019 C vay ông H
7
1.300.000.000đ và giao cho vợ chng ông N ti Văn phòng C1. V chng ông N
ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất s 64 cho bà C. Ông H và bà C tho thun
khi nào bà C hoàn thành th tục đ được đứng tên quyn s dụng đất thửa đất s
64 thì ông H s giúp C vay tin ngân hàng tr n ông H. Ngày 10-4-2019
C đưc chnh lý, biến động đứng tên quyn s dụng đất thửa đất s 64, t bản đồ
s 5, ti thôn H, H, huyn H, thành ph Đà Nẵng. Do giá đt gim nên Ngân
hàng không cho vay đủ s tiền để tr n ông H nên ngày 25-4-2019 ông H yêu
cu C viết giấy bán nhà đt ti thửa đất s 64 (không công chng, chng
thc) cho ông H với giá 1.500.000.000đ…
Như vy, lời khai ban đu này ca Phan Th Kim C ông Nguyn
Đăng H phù hp vi nội dung “Giấy bán nhà” ngày 25-4-2019. Vic bà C viết
“Giấy bán nhà” cho ông H là xut phát t giao dịch vay mượn tin.
Hội đồng xét x phúc thm xét thy li khai ca bà C và ông H là bt nht.
Do vậy, căn cứo các tài liu, chng c khác có ti h sơ để gii quyết v án.
[2.2] Xét vic giao dch chuyển nhượng thông qua “Giấy bán nhà” viết tay
gia bà Phan Th Kim C ông Nguyễn Đăng H diễn ra trước giao dch chuyn
nhưng gia C bà H1 nhưng không thể hiện được các giao dch thông
thường như giao dịch đặt cc, giao dch giao nhn tin ra công chng hp
đồng thc tế, trong khi ông H n người trc tiếp nm gi bn chính Giy
chng nhn quyn s dng đất đến sau này mi giao li cho C nên không
cơ sở để đưc Hội đồng xét x công nhn giao dch chuyn nhượng.
Ông Nguyễn Đăng H cung cp cho Toà án “Đơn xác nhận” lập ngày 25-12-
2022 vi ni dung ông H sau khi thanh toán hết tin mua bán nhà cho Phan
Th Kim C thì được C bàn giao, quản nhà đất. Văn bản này được Trưởng
thôn Hương Lam, T trưởng t dân ph s 1 UBND H, huyn H, thành
ph Đà Nẵng xác nhận. Ngược li, phía Nguyn Th Như H1 cũng cung cấp
cho Toà án 01 USB chứa đng video ni dung ti thời điểm bà H1 đến xem tha
đất 64 thì thửa đt không ai qun lý, s dụng, USB này cũng sự tham gia
của Trưởng thôn Hương Lam, Tổ trưởng t dân ph s 1. Do đó, không xác thực
đưc thông tin v người được bà C giao qun lý, s hữu nhà đất.
Toà án cp phúc thẩm đã xem xét, thẩm đnh ti ch thc tế nhà đất vào
ngày 11-6-2025 thì thy: Thửa đt s 64 đang tranh chp hin nay không
điện, nước là nhng nhu cu thiết yếu trong sinh hot nên vic ông H khai đã
qun t khi nhn chuyển nhượng ngày 25-4-2019 không phù hp. Tài sn
tranh chp hin do H1 qun lý, là người m khcho Toà án và chính quyn
địa phương vào làm vic, bà H1 cũng người đang nm gi bn chính Giy
chng nhn quyn s dụng đất.
Phan Th Kim C cho rng vay tin ca Nguyn Th Như H1
nên phi lp Hợp đồng chuyển nhượng quyn s dụng đất đ đảm bo khon
vay nhưng không cung cấp được tài liệu nào đ chng minh việc vay mượn
tin, bà H1 trong sut quá trình gii quyết v án t năm 2020 đến nay đều không
tha nhn việc vay mượn tiền như C trình bày. Trong khi đó, H1 li
cung cấp được chng t chuyn s tiền 460.000.000đ thông qua ông Đồng Văn
8
D1 vi phn ni dung th hin ti chng t là “đặt cc mua thửa đất 64”. Sau đó
ngày 30-5-2019, C H1 tiến hành kết “Hợp đồng chuyển nhượng
quyn s dụng đất tài sn gn lin với đất” ti Văn phòng C1. Do vậy,
s để xác định giao dch chuyển nhượng gia bà C và H1 là có tht.
[2.3] Từ những tình tiết, nhận định ntrên, Hội đồng xét xử phúc thẩm
xét thấy Toà án cấp thẩm đã xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông Nguyễn Đăng H; Tuyên giao dịch mua bán nhà đất ngày 25-4-2019 giữa
ông Nguyễn Đăng H với Phan Thị Kim C bị hiệu chấp nhận yêu cầu
độc lập của Nguyễn Thị Như H1; Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất i sản gắn liền với đất ngày 30-5-2019 giữa Phan Thị
Kim C với Nguyễn Thị Như H1 hiệu lực pháp luật; Nguyễn Thị Như
H1 được quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng thửa đất 64 phù hợp với các quy
định của pháp luật.
[2.4] Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, ông H không cung cấp được thêm tài
liệu, chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình
căn cứ nên không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận; giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
[2.5] Tuy nhiên, tại phần quyết định của bản án thẩm đã tuyên nội
dung “Hậu quả của hợp đồng hiệu, tranh chấp giao dịch vay tiền giữa ông H
và bà C sau này nếu ông H, bà C có yêu cầu thì giải quyết trong một vụ án khác”
là chưa phù hợp mà nội dung này thuộc về phần nhận định của bản án.
[2.6] Án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Đăng H phải chịu do không
được chấp nhận yêu cầu kháng cáo.
[3] Đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại
phiên tòa phúc thẩm phù hợp các tình tiết khách quan của vụ án quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Điều 148, Điều 293, Khoản 3 Điều 296, Khoản 1 Điều 308, các Điều 311,
312, 313 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Các Điều 117, 122, 123, 124, 129, 131 Bộ luật dân sự; Điều 167 Luật đất
đai 2013.
- Nghị quyết 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Đăng H;
9
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 79/2024/DS-ST ngày 25-9-2024 của
Tòa án nhân dân huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Đăng
H đối với bị đơn bà Phan Thị Kim C. Tuyên giao dịch mua bán nhà đất ngày 25-
4-2019 giữa ông Nguyễn Đăng H với bà Phan Thị Kim C bị vô hiệu.
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị Như H1.
Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất số 5491, quyển số 01TP/CC - SCC/HĐGD ngày 30-5-2019 tại Văn
phòng C1 giữa bà Phan Thị Kim C với bà Nguyễn Thị Như H1 hiệu lực pháp
luật. Nguyễn Thị Như H1 được quyền sử dụng đối với thửa đất số 64, tờ bản
đồ số 5, diện tích 210m
2
, trong đó 150m
2
đất và 60m
2
đất trồng cây hàng năm
khác tại thôn D (nay thôn H), H (xã H, huyện H cũ), thành phố Đà Nẵng.
Trên đất 01 ngôi nhà cấp 4, móng đá, trụ tông cốt thép, tường xây gạch
trát vữa sơn vôi, nền lót gạch men 60 x 60 (cm), mái lợp tôn, trần la phông, diện
tích xây dựng 73,008m
2
, hiên bên và ng rào phía trước. Theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BG704182 do Ủy ban nhân dân huyện H, thành phố
Đà Nẵng cấp ngày 09-9-2011 cho hộ Ngô Thị P, được chỉnh biến động
sang tên Phan Thị Kim C được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai huyện
H xác nhận ngày 10-4-2019 (Giấy chứng nhận trên hiện do bà Nguyễn Thị Như
H1 nắm giữ).
Nguyễn Thị Như H1 được quyền liên hệ quan nhà nước thẩm
quyền để chỉnh biến động sang tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
theo quy định pháp luật.
3. Về chi phí tố tụng:
Chi phí thẩm định giá tài sản số tiền 10.000.000đ theo phiếu thu ngày 19-7-
2021 Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ số tiền 3.000.000đ. Do không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện nên nguyên đơn ông Nguyễn Đăng H phải chịu (đã thu
và đã chi).
4. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Án pdân sự thẩm: 300.000đ nguyên đơn ông Nguyễn Đăng H phải
chịu nhưng được trừ o số tiền tạm ứng án phí 300.000đ ông H đã nộp tại biên
lai thu số 0008168 ngày 22-3-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà
Vang, thành phố Đà Nẵng.
Tại Quyết định số 375 ngày 07-02-2023 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng đã hoàn trả cho ông H số tiền 300.000đ
tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0008167 ngày 22-3-2021.
- Bị đơn bà Phan Thị Kim C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả cho Nguyễn Thị Như H1 số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai thu số 0008369 ngày 19-7-2021 tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.
10
Tại Quyết định số 374 ngày 06-02-2023 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng đã hoàn trả cho H1 số tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm stiền 300.000đ theo biên lai thu số 0004616 ngày 13-10-2022
tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng.
Tại Quyết định số 87 ngày 03-02-2023 của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng thi hành quyết định Nguyễn Thị Như
H1 hoàn trả cho ông Nguyễn Đăng H Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền trên đất số: BG 704182 do Uỷ ban nhân huyện H, thành phố Đà
Nẵng cấp ngày 09-9-2011 thì tại Quyết định số 34 ngày 22/09/2023 của Chi cục
thi hành án dân sự đã đình chỉ thi hành theo Quyết định giám đốc thẩm số
29/2023/DS GĐT ny 09-8-2023 của Toà án nhân dân Cấp Cao tại Đà Nẵng.
II Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Đăng H phải chịu nhưng được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số
0002376 ngày 14-10-2024 của Chi cục Thi hành án dân shuyện Hoà Vang,
thành phố Đà Nẵng; đã nộp đủ.
III. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Thành phố Đà Nẵng;
- TAND KV4-ĐN;
- Phòng THADS KV4-ĐN;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Trần Thị Thanh Mai
Tải về
Bản án số 143/2025/DS-PT Bản án số 143/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 143/2025/DS-PT Bản án số 143/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất