Bản án số 140/2025/DS-PT ngày 16/07/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 140/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 140/2025/DS-PT ngày 16/07/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Đà Nẵng
Số hiệu: 140/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Võ Văn L - Trần Văn T, Hoàng Thị Vân N
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGA VIỆT NAM
THÀNH PHĐÀ NẴNG Độc lp - T do - Hạnh pc
Bản án s: 140/2025/DS-PT
Ny 16/7/2025
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Vũ Việt Dũng
Các Thẩm phán: Bà Mai Vương Thảo
Bà Trần Thị
Thư ký phiên tòa: Bà Lại Thị Thanh Huyền - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Ông Anh Pha - Chức
vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sthụ số 15/2025/TLPT-DS ngày 03 tháng 3 năm
2025 về việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sthẩm số 03/2025/DS-ST ngày 10/01/2025 của Tòa án nhân
dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2025/QĐ-PT ngày 24 tháng 4 năm
2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 258/2025/QĐ-PT ngày 19 tháng 5 năm
2025 Quyết định tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm số: 291/2025/QĐPT-DS ngày 16
tháng 6 năm 2025 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Văn L - Sinh năm: 1946 - Đa chỉ: 675/12 đường T ,
phường H, quận C (nay là phường A), thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Võ Văn L: Ông Võ Trường S - Sinh năm:
1980 - Địa chỉ: 675/12 đường T, phường H, quận C (nay phường A), thành phố Đà
Nẵng. (Theo Giấy ủy quyền ngày 28/02/2023 tại Văn phòng Công chứng Phạm
Tuyên). (Có mặt)
* Bị đơn: Ông Trần Văn T - Sinh năm: 1981 và Hoàng Thị Vân N - sinh năm:
1983 - Địa chỉ: 675/6 đường T, phường H, quận C (nay phường A), thành phố Đà
Nẵng. (Có mặt).
2
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trường S - Sinh năm: 1980 - Địa chỉ: 675/12 đường T, phường H ,
quận C (nay là phường A), thành phố Đà Nẵng. (Có mặt).
2. Bà Trần Thị M - Sinh năm: 1949 - Địa chỉ: 675/12 đường T, phường Hòa Phát,
quận C (nay là phường A), thành phố Đà Nẵng.
3. Thị Tường V - Sinh năm: 1994 - Địa chỉ: 675/12 đường T, phường H,
quận C (nay là phường A), thành phố Đà Nẵng.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị M Thị Tường V: Ông
Trường S - Sinh năm: 1980 - Địa chỉ: 675/12 đường T, phường H, quận C (nay phường
A), thành phố Đà Nẵng. (Theo Giấy ủy quyền ngày 28/02/2023 tại Văn phòng ng
chứng Phạm Tuyên). (Có mặt).
* Người giám định (người đo đạc): Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên Môi
Trường Đà Nẵng - Địa chỉ: Tầng 5, Tòa nhà số 48 đường V, phường H, quận Cẩm Lệ
(nay là phường H), thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt)
- Người kháng cáo: Ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân N, là Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau:
* Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung; biên bản hòa giải và tại phiên tòa đại
diện nguyên đơn ông Văn L cũng người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đại
diện cho người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Thị M, ThTường V
là ông Võ Trường S trình bày:
Gia đình tôi 01 đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm
1996 với diện tích 976m
2
. Năm 1999 gia đình tôi chuyển cho ông C diện tích
324m
2
. phần diện tích đất này được ông C bán cho 04 gia đình khác nhau. Cho
đến cuối năm 2020 thì 03 đất kia đã xây dựng kiên cố và gia đình ông T, N đến xây
dựng phần đất giáp ranh với gia đình tôi. Trong quá trình xây dựng, gia đình N ông
T đã đào bới phần móng tường rào, phần móng nhà bếp, phần móng phòng ngủ và phần
móng nhà vệ sinh của gia đình tôi nhưng không cho tông hay đá vào lại vị trí móng
đó. Nguyên nhân là do ông T bà N cho rằng phần tường gia đình nhà tôi đã xây dựng từ
năm 2000 thuộc phần đất nằm trong sổ đỏ gia đình họ. Tuy trước đó ông T cam
kết hoàn trả lại những phần làm hỏng trong quá trình thi công và ông L1 hàng xóm
ký làm chứng.
Sự việc được gia đình tôi kiến nghị lên UBND phường H cho tạm đình chỉ thi
công nhưng sau đó bà N đã tự ý thi công tiếp tục đến khi hoàn thiện công trình. UBND
3
phường H đã hòa giải 02 lần nhưng bà N không chịu bồi thường phần tường làm hư hại
mà luôn khẳng định phần tường gia đình tôi thuộc diện tích trong sổ đỏ của gia đình bà.
Việc ngộ nhận toàn bộ phần tường o giáp ranh, tường phòng vệ sinh, tường
phòng ngủ nhà tôi thuộc phần đất của gia đình bà N, ông T thể hiện rõ trong những biên
bản họp hòa giải tại UBND phường H và đơn kiến ngh bà N gửi cho UBND quận C.
Trong quá trình thi công gia đình N làm rơi cây gồ 5 mét lên phần tole
gia đình tôi và nhiều vật dụng khác làm hỏng hơn 50m
2
tole của gia đình tôi, UBND
phường có yêu cầu bà N bồi thường 10.000.000đ vào tháng 11/2020 và trong cuộc họp
này ông Mai Xuân T1 chủ tịch phường hỏi ông Võ Linh Q - n bộ địa chính phường
H “ việc hư hỏng tường nhà ông S có phải do xây dựng bên nhà bà N không? thì ông Q
báo cáo sau khi thẩm định thực địa”. Tuy nhiên, N không đồng ý bồi thường mà
cho rằng diện tích đất và bờ tường giáp ranh đang là diện tích thể hiện trong sổ đỏ của
gia đình bà.
Từ đó đến nay, phần tường phòng ngủ, nhà bếp, nhà vệ sinh tường rào phần
giáp ranh nhà tôi tiếp tục xuống cấp kéo theo những kết cấu khác của gia đình tôi
cũng bị hỏng theo. Cho đến bây giờ có nguy cơ sụp đổ nên gia đình tôi muốn xây dựng
lại nhà để đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, do Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia
đình tôi giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình đã nên không làm thủ tục xin cấp
giấy phép xây dựng được. Gia đình tôi làm thủ tục xin phép xây dựng giáp ranh
thì gia đình N không và gửi đơn kiến nghị đến UBND quận C cho rằng phần
tường rào nhà tôi thuộc gia đình mặc nhà N hiện nay đã xây dựng xong 2
tầng kiên cố và giữa 2 nhà phía sau vẫn còn một khe hẹp 10cm do năm 2017 đo đạc lại
đất nhân viên địa chính không lấy phần trụ tường lấy phần bờ tường làm mốc nên
gia đình bà N không thể xây dựng vào phần đất này.
Gia đình tôi có xin đo lại đất và hiện nay đang thiếu 98,8m
2
do 01 phần mở đường
vào nhà, đất gia đình tôi không thừa như đơn kiến nghị ca bà N.
Do đó, theo đơn khởi kiện thì gia đình tôi khởi kiện đối với ông Trần Văn T và
Hoàng Thị Vân N. Gia đình yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận phần diện tích bờ tường
giáp ranh giới giữa nhà ông Võ Văn L với nhà ông Trần Văn T, bà Hoàng Thị Vân N có
diện tích: dài 15,5m x rộng 10cm ; tổng cộng diện tích là 1,55m
2
thuộc thửa đất 141, tờ
bản đồ số 19 tọa lạc tại xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (nay là số 675/12 đường T,
phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I
922022 do UBND huyện H, thành phố Đà Nẵng cấp ngày 17/12/1996 cho hộ ông
Văn L mà hiện nay bà Hoàng Thị Vân N và ông Trần Văn T đang tranh chấp với hộ gia
đình tôi thuộc quyền sở hữu, sử dụng của gia đình hông Văn L. Về kết quả đo
đạc và thẩm định giá do Tòa án tiến hành thì tôi thống nhất.
4
Trong quá trình Tòa án tiến hành giải quyết vụ án; đã tiến hành thủ tục đo đạc và
định giá tài sản theo quy định. Sau khi kết quả đo đạc định giá của Tòa án tiến
hành đã xác định phần diện tích đất mà gia đình chúng tôi tranh chấp với gia đình ông T
bà N là 2,3m
2
nên ngày 18/11/2024 cha tôi ông Võ Văn L đã bổ sung thêm yêu cầu khởi
kiện đòi trả lại phần diện tích đất theo kết quả đo đạc thực tế đã xác định được hiện
nay 2,3m
2
(theo đơn khởi kiện ban đầu 1,55m
2
qua đo đạc thực tế khi Tòa án
giải quyết tranh chấp đã xác định phần diện tích đất này là 2,3m
2
); đại diện cho cha tôi
ông L tôi thống nhất đề nghị Tòa án xác định phần diện tích đất tranh chấp của bức
tường là bằng phần diện tích đất có bức tường cũ đã được đo đạc theo kết quả đo đạc có
diện tích 2,3m
2
; giá trị tranh chấp là theo kết quả định giá tài sản; và phần diện tích bức
tường gia đình tôi tranh chấp phần diện tích của bức tường giữa nhà tôi giáp với
nhà ông T, N; phần bức tường nằm giữa nhà anh Đinh Tân L1 với nhà ông T, bà N
qua đo đạc diện tích 2,1m
2
gia đình tôi không tranh chấp; phần bức tường sau phía giáp
nhà thờ tộc gia đình tôi cũng không tranh chấp. Đề nghị Tòa án xem xét công nhận
phần diện tích đất tranh chấp của bức tường theo kết quả đo đạc diện tích 2,3m
2
thuộc quyền sử dụng của gia đình tôi và buộc ông T bà N phải trả lại cho gia đình tôi.
Tại đơn kiến nghị ngày 10/01/2022 của Hoàng Thị Vân N gửi cho UBND quận
C thì bà N khẳng định diện tích đất bờ tường giáp ranh nhà ông L đang diện tích thể
hiện trong diện tích sổ đỏ của gia đình bà N.
Về lý do khởi kiện: Đến thời điểm hiện tại diện tích đất và bờ tường giáp ranh đó
chưa được giải quyết nên UBND quận C văn bản trả lời yêu cầu gia đình tôi phải khởi
kiện để lấy kết quả giải quyết Tòa án thì UBND quận C mới tiếp tục làm thủ tục cấp đổi
lại bìa đỏ cho gia đình tôi. Do vậy, gia đình tôi mới khởi kiện vụ án ra Tòa án.
Tại phiên tòa hôm nay, tôi đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của cha tôi ông Văn L. Đối với bức tường nằm trên đoạn phần đất tranh chấp
(đoạn giữa từ hướng kiệt 657 đường T kéo về phía sau) theo như ý kiến bị đơn ông T,
N trình bày cho rằng ông C chủ của thửa đất hiện nay ông T N đang sử
dụng là người đã xây dựng nên bức tường; do vậy ông T, bà N cho rằng phần diện tích
đất có bức tường cũ là thuộc quyền sử dụng được ghi nhận trong bìa đỏ của ông T bà N
là không đúng. Phần bức tường cũ nằm đoạn giữa (đoạn giữa nhà tôi với nhà ông T, bà
N) là do gia đình tôi xây dựng nên chứ không phải do ông Võ C xây dựng; vì lý do như
vậy nên sau này gia đình tôi xây thêm lên từ bức tường thành tường nhà bếp, phòng
ngủ phòng vệ sinh của nhà chúng tôi. Riêng đoạn bức tường phía trước (hướng
kiệt 675 T và đoạn phía sau (hướng nhà thờ Tộc Võ) thì tôi xác nhận ông Võ C là người
đã xây dựng nên bức tường. Chính vậy giữa phần tường nhà tôi phần tường nhà
thờ tộc Võ mới có hai trụ tường sát nhau. Ngoài ra, theo kết quả đo đạc thì hiện nay nhà
5
ông T, bà N sdụng diện tích đất lớn hơn so với diện tích ghi trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; nếu xác định phần đất tranh chấp là của N ông T thì phần diện
tích này sẽ lớn hơn nhiều so với diện tích Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông
T, bà N.
* Tại các văn bản trình bày, biên bản hòa giải; đơn xin bổ sung hồ chứng cứ
tại phiên tòa bị đơn chị Hoàng Thị Vân N ông Trần Văn T cùng thống nhất trình
bày:
Tại phiên tòa hôm nay chúng tôi vẫn giữ nguyên những ý kiến đã trình bày
trong Đơn trình bày ngày 18/01/2023 và Đơn trình bày ngày 19/6/2023
Nhà và đất của vợ chồng tôi thuộc thửa đất số thửa đất số 76, tờ bản đồ số 75 tọa
lạc tại 675/6 đường T, Tổ 1 phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng (theo Giấy chứng
nhận QSDĐ; QSHN ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP 854500 do Sở Tài Nguyên
Môi Trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/01/2019 cho ông Trần Văn T
Hoàng Thị Vân N).
Nay ông Văn L khởi kiện tranh chấp với vchồng tôi diện tích đất nêu trên
chúng tôi không đồng ý.
Bờ tường rào của gia đình tôi không dài và rộng với diện tích như nội dung khởi
kiện của ông L được nêu trong thông báo thụ vụ án. Bức tường gồm phần tường
trụ tường không thể tách rời nhau được chiều rộng 20cm; chiều dài
25,4m; bức tường y kéo dài và giáp nhà ông L1; ông L và nhà thờ Tộc tính từ
đường kiệt 675 T (mặt tiền nhà tôi) ra phía sau. Dưới bức tường móng đá của bức
tường; móng đá bức tường này là do chủ cũ lô đất là ông Võ C xây (ông Võ C là người
đã bán đất mà hiện nay vợ chồng i đang sử dụng); móng đá bức tường rộng khoảng
20cm đến 30cm; như vậy tính cả phần móng bức tường phần bức tường thì bề rộng
diện tích bức tường tranh chấp phải 35cm đến 45cm. Việc nhà ông L cắt khúc chia
nhỏ phần bức tường ra để kiện gia đình tôi là không hợp lý.
Theo Giấy chứng nhận QSDĐ; QSHN tài sản khác gắn liền với đất số CP
854500 do Sở Tài Nguyên và Môi Trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 10/01/2019 cho
ông Trần Văn T Hoàng Thị Vân N thì cạnh phía sau của thửa đất gia đình tôi sử
dụng chiều rộng 5,63m; do đó cả diện tích bờ tường cũng như trụ móng của bức
tường tranh chấp hiện đang nằm trong diện tích sổ đỏ được ghi nhận cho gia đình tôi.
Tôi khẳng định bức tường gia đình ông L tranh chấp không phải thuộc phần
diện tích đất của gia đình ông L; cũng không phải của gia đình ông L xây dựng vì bức
tường này 03 đoạn tiếp giáp với nhà ông L1; nhà thờ tộc nhà ông L nên
không thể thuc quyền sử dụng của nhà ông Lộc được.
6
Về kết quả đo đạc do Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi trường tiến hành đo đạc
chúng tôi thấy nhiều điểm chưa hợp lý, chưa ràng vì: chưa cung cấp vị trí tọa độ
điểm đo trên sơ đồ vị trí thửa đất mà trung tâm đã cung cấp cho Tòa án; cạnh phía sau
theo kết quả đo đạc không đúng với diện tích thực tế vchồng tôi xây dựng (vợ chồng
xây dựng chiều rộng cạnh sau 5,43m trong khi đó kết quả đo chiều rộng
5,54m); chiều dài cạnh bên trái theo đo đạc là 24,79m nhưng thực tế theo sổ đỏ của tôi
24,7m như vậy là đo không chính xác; theo sổ đỏ cấp cho gia đình tôi đất có diện
tích 130,7m
2
(chiều ngang phía trước 4,85m; chiều ngang phía sau 5,63m; chiều dài
bên trái là 24,7m; chiều dài bên phải là 25,4m; tổng diện tích là 130,7m
2
) nhưng kết quả
đo đạc thì xác định diện tích đất chúng tôi sử dụng thực tế 130,9m
2
(chiều ngang
sau 5,54m; chiều ngang trước là 4,84m; chiều dài bên trái là 24,79m; chiều dài bên phải
có 04 đoạn: đoạn 1 dài 0,90m; đoạn 2 dài 3,49m; đoạn 3 dài 11,65m; đoạn 4 dài 8,88m).
Theo kết quả đo đạc chiều dài các cạnh đều nhỏ hơn so với diện tích ghi trong sổ đ
nhưng tổng diện tích đo đạc lại lớn hơn so với diện tích ghi trong sổ đỏ; chúng tôi đề
nghị Trung tâm đo đạc xác định lại cho rõ về tổng diện ch đo.
Chúng tôi chỉ đề nghị Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên và Môi Trường Đà Nẵng
cung cấp cho chúng tôi về nội dung như ý kiến chúng tôi đã trình bày trên nhưng hiện
nay chúng tôi chưa yêu cầu Tòa án trưng cầu đo đạc lại.
Thực tế hiện nay vợ chồng tôi đang xây dựng trên phần diện tích đất nhỏ hơn so
với diện tích đất được ghi nhận theo sđỏ cấp cho đình tôi; do vậy chúng tôi không tranh
chấp với gia đình ông L. Chúng tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông L.
Tại đơn kiến nghị ngày 10/01/2022 của tôi Hoàng Thị Vân N gửi cho UBND quận
C thì tôi có yêu cầu khi gia đình ông Võ Văn L chuyển nhượng đất hoặc làm thủ tục cấp
lại sổ đỏ mới phải chữ ký giáp ranh của gia đình tôi; khi đo đạc xác định lại ranh giới
thửa đất của gia đình ông L phải chữ schứng kiến của vợ chồng tôi chứ tôi
không khởi kiện hay tranh chấp gì với nhà ông L.
tại đơn xin bổ sung hồ chứng cứ ngày 16/10/2024 Hoàng Thị Vân N
trình bày thêm: Qua nội dung đơn kiện của ông Võ Văn L gia đình tôi không nhất trí và
bác bỏ những nội dung trong kiện của ông L bởi các lý do sau:
Nội dung đơn kiện không có căn cứ, không đúng với các nội dung ghi trong biên
bản hòa giải ở phường, có nội dung còn vu khống hai vợ chồng tôi.
- Trong đơn kiện ông L nói vợ chồng tôi làm nhà đào móng đã đào hỏng phần
tường móng nhà bếp, phần móng phòng ngủ, phần móng nhà vệ sinh của gia đình ông
không căn cứ, vu khống. giữa nhà tôi nông L bờ tường rào ngăn làm
ranh giới. Bờ tường rào có phần trụ tường rào và phần móng đá tường rào được xây lồi
sâu sang đất nhà tôi nên khi làm nhà gia đình đã đào bỏ phần móng đá bờ tường rào của
7
gia đình tôi để xây móng nhà hoàn toàn hợp chứ không liên quan đến móng nhà
ông L. Những hình ảnh ông L cung cấp cho Tòa án để cáo buộc gia đình chúng tôi
xây nhà đào sâu móc hàm ếch vào sâu móng phòng ngủ, phòng bếp, phòng vệ sinh
làm lún, nứt tường nhà ông L hoàn toàn sai sự thật. Đó là hình ảnh bờ tường rào nhà
tôi, bờ tường rào đó chạy dài thẳng từ trước ra phía sau thành một khối thống nhất, không
chỉ giáp với nhà ông L còn giáp với nhà ông L1 ở phía trước và giáp với nhà tộc thờ họ
Võ. Hiện nay bờ tường vẫn còn nguyên trạng.
- Trong đơn kiện ông L nói gia đình tôi không hỗ trợ, không bồi thường cho gia
đình ông L sai sự thật. Theo biên bản hòa giải của phường H ngày 21/10/2020 gia
đình tôi đã hỗ trợ cho ông L 10.000.000đ để khắc phục một số hư hỏng trong quá trình
gia đình tôi thi công xây dựng nhà đã gây ra. Đồng thời gia đình ông L tạo điều kiện cho
gia đình tôi tường đóng tole chống thấm. Ông S con ông L đã nhận đã số tiền
10.000.000đ vào ngày 07/12/2020 (có ký giấy nhận tiền).
- Phần diện tích bờ tường rào giáp ranh mà ông L kiện đòi gia đình tôi trả lại
chiều dài 15,5m rộng 10cm tổng diện tích 1,55m
2
không đúng với nguồn gốc bờ
tường và hiện trạng bờ tường rào thực tế. Tôi xin giải thích như sau:
Năm 2019 khi gia đình tôi mua lô đất tường rào cổng ngõ bao quanh lô đất của
gia đình tôi. Phần tường rào bên phải tiếp giáp nhà ông L được xây kéo dài từ trước ra
sau là 25,40cm và tiếp giáp với 03 nhà, đó là nhà ông L1, ông L và nhà thờ tộc Võ. Bờ
tường rào là một khối thống nhất gồm tường rào, trụ tường và móng đá của tường. Phần
tường rào và trụ tường là 20cm, phía dưới tường và trụ là móng đá của bờ tường, trụ và
móng đá phải 30-40cm. (Chúng tôi có hình ảnh chứng minh). Điều đặc biệt quan trọng
hơn nữa hiện trạng btường rào hiện nay của gia đình tôi chiều dài chia làm 03
đoạn khớp với biên bản thẩm định tại chỗ ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân quận C.
Tại các biên bản họp hòa giải ở phường H: biên bản cuộc họp ngày 21/10/2020
biên bản cuộc họp ngày 02/3/2022 (có đính kèm văn bản này) ông Võ Văn D tổ trưởng
tổ dân phố số 1 đã khẳng định bờ tường rào là do ông Võ C xây dựng (ông Võ C là chủ
đất cũ của gia đình tôi). Các bên tham gia trong buổi hòa giải đã ký đồng ý vào biên bản
và không có ý kiến gì thêm.
Tại biên bản thẩm định tại chỗ ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân quận C đã
xác định bờ tường rào được chia làm 03 đoạn: Đoạn 1 giáp nhà tôi với nông L1; Đoạn
2 giáp nhà tôi với nhà ông L; Đoạn 3 giáp nhà tôi với nhà thờ tộc Võ. Tuy nhiên, gia
đình ông L xác định tranh chấp đoạn 1 và đoạn 2. Trong đơn ông L đòi vợ chồng tôi trả
lại phần bờ tường diện tích chiều dài 15,5m rộng 10cm không khớp với chiều
dài đoạn 1 và đoạn 2 (chiều dài đoạn 1: 9,16m; đoạn 2 dài 11,62m; tổng cộng 2 đoạn là
20,78m chiều dài 20cm chiều rộng tổng diện tích 4,156m
2
. Trong đơn ông L khẳng
8
định bờ tường do gia đình ông L xây vào năm 2000 nhưng điều vô lý là ông L xây dựng
mà không biết chiều dài thực tế của bức tường là bao nhiêu.
Đối với kết quả đo đạc của Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên Môi Trường Đà
Nẵng:
Trên cùng một thửa đất năm 2019 Sở Tài Nguyên và Môi Trường cấp sổ đỏ cho
gia đình tôi có chiều dài cạnh trái là 24,70m; chiều dài cạnh phải là 25,40m; chiều rộng
phía trước là 4,85m; chiều rộng cạnh sau là 5,63m. Tổng diện tích thửa đất là 130,7m
2
.
Kết quả đo đạc của Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên và Môi Trường Đà Nẵng cung cấp
có chiều dài cạnh trái là 24,79m; chiều dài cạnh phải là 25,20m (chia làm 03 đoạn: đoạn
1 9,16m; đoạn 2 11,65m; đoạn 3 4,39m); chiều rộng cạnh phía trước 4,84m;
chiều rộng cạnh sau là 5,54m; tổng diện tích thửa đất là 130,9m
2
.
Điều đặc biệt đây cạnh chiều rộng phía sau Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên
và Môi Trường Đà Nẵng đo đạc là 5,54m (ít hơn so với Sở Tài Nguyên và Môi Trường
cấp 0,09m x 25,40m chiều dài = 2,286m
2
). Như vậy, chúng tôi không xây dựng và mất
2,286m
2
mà tổng diện tích lại bằng 130,9m
2
.
Trong buổi hòa giải tại Tòa án nhân dân quận C ngày 09/4/2024 gia đình tôi đã
yêu cầu Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên và Môi Trường Đà Nẵng cung cấp cho gia đình
tôi tọa độ điểm cụ thể và giải tch sao kết quả đo đạc nhiều điểm lý. Tuy nhiên,
đến hiện nay Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường Đà Nẵng chưa cung cấp bản
tọa độ điểm cho gia đình tôi, chưa giải thích những điểm chúng tôi đã nêu
buổi hòa giải. Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường Đà Nẵng chỉ trả lời chung
chung căn cứ vào s liệu đo đạc hiện trạng thực tế 130,9m
2
(Tại văn bản số
661/TTKTTNMT-ĐĐBĐ ngày 17/6/2024).
* Người giám định Trung tâm kỹ thuật i Nguyên Môi Trường Đà Nẵng
văn bản số 661/TTKTTNMT-ĐĐBĐ ngày 17/6/2024; văn bản số 1664/TTKTTNMT-
ĐĐBĐ ngày 20/11/2024 với nội dung:
Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên và Môi Trường Đà Nẵng có nhận được Công văn
số 507/CV-TA ngày 22/10/2024 của Tòa án nhân dân quận C về việc yêu cầu giải thích
số liệu. Theo ni dung công văn đề nghị Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên Môi Trường
Đà Nẵng giải thích về việc tính diện tích tổng từ các số liệu các cạnh thửa đất được đo
đạc thực tế ông T N đang sử dụng dựa trên sở nào (tức vị trí tọa độ điểm và
cách tính để cho ra số liệu diện tích thực tế N, ông T đang sử dụng hiện nay 130,9m
2
)? Việc tính toán diện tích như vậy đã đảm bảo về số liệu chưa tỷ lxác xuất về
sai số hay không? Vấn đề này, Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên Môi Trường Đà Nẵng
có ý kiến như sau:
9
Thực hiện theo Hợp đồng số 1767/HĐ-2023 giữa Trung tâm và Tòa án nhân dân
quận C về việc trích đo: Trích đo địa chính, phục vụ xác định diện tích thửa đất số thửa
đất số 141, tờ bản đồ số 19; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 922022 cấp ngày
17/12/1996 tọa lạc tại 675/12 đường T, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Trung
tâm tiến hành đo đạc hiện trạng thửa đất, ranh giới, mốc giới được ông Trần Văn T, ông
Võ Văn L xác định tại địa chỉ số 675/6 đường T (nhà bà N, ông T) và số 675/12 đường
T (nhà ông L) phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng Biên bản thẩm định tại chỗ
được ký xác nhận ngày 04/7/2023.
Căn cứ số liệu đo đạc hiện trạng thực tế, Trung tâm cung cấp Sơ đồ vị trí thửa đất
thể hiện diện tích của ông Trần Văn T 130,9m
2
; diện tích của ông Văn L 373,4m
2
được xác nhận ngày 12/10/2023. Sliệu đo đạc của Trung tâm đúng theo hiện
trạng thực tế, việc tính toán diện tích sai số đo đạc được quy định tại Thông số
25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường.
Vậy Trung tâm kỹ thuật Tài Nguyên Môi Trường thông tin để Tòa án nhân dân
quận C được biết.
* Với nội dung vụ án như trên, tại bản án dân s sơ thẩm số 03/2025/DS-ST ngày
10/01/2025 của Tòa án nhân dân quận C (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3), thành phố
Đà Nẵng đã quyết định:
Căn cứ: - Điều 158; 159; 163; 164; 166 Bộ luật Dân sự 2015;
- Khoản 5 Điều 166; Điều 170; Điều 202; 203 Luật đất đai năm 2013.
- Điều 147, 157, 161,165, 266 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
I/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn L đối với ông Trần Văn T
Hoàng Thị Vân N.
1/ Công nhận phần diện tích đất tranh chấp diện tích 2,3m
2
gtrị 42.110.366
đồng (Bốn mươi hai triệu, một trăm mười ngàn, ba trăm sáu mươi sáu đồng) là thuộc
quyền sử dụng của hộ ông Văn L. Phần diện tích đất tranh chấp 2,3m
2
tứ cận như
sau:
Cạnh Bắc dài 11,65m giáp nhà đất ông T, bà N;
Cạnh Nam dài 11,62m giáp nhà đất ông Võ Văn L;
Cạnh Đông dài 0,19m giáp phần diện tích đất bức tường nằm giữa nhà ông Thế
bà N với nhà ông Đinh Tân L1;
Cạnh Tây dài 0,20m giáp phần diện tích đất có bức tường nằm giữa nhà ông Thế
bà N với nhà thờ Tộc Võ.
10
2/ Buộc vợ chồng ông Trần Văn THoàng Thị Vân N trả lại phần diện tích
đất tranh chấp 2,3m
2
trên đó bức tường chiều cao khoảng 1,5m và chiều dài
khoảng 11,62m (bức tường nên không còn giá trị sử dụng) tcận nêu trên thuộc
thửa đất số 141, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (nay s
675/12 đường T, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số I 922022 do UBND huyện H, TP Đà Nẵng cấp cho hộ ông Văn L
ngày 17/12/1996) cho hộ ông Võ Văn L.
(Phần diện tích 2,3m
2
có tứ cận được mô tả thể hiện theo sơ đồ kèm theo bản án).
Các bên đương sự được quyền liên hệ với quan Nhà nước thẩm quyền để
làm thủ tục liên quan đến nhà đất theo quy định.
II/ Án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân N cùng phải chịu án phí dân sự
thẩm số tiền 2.105.518 đồng (Hai triệu, một trăm lẻ năm ngàn, năm trăm mười tám
đồng).
III/ Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; chi phí đo đạc và chi phí thẩm định giá tài
sản:
Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 4.000.000 đồng; chi phí đo đạc 7.082.212 đồng;
chi phí thẩm định giá tài sản 7.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền là 18.082.212 đồng (đã
nộp, đã chi) ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân N cùng phải chịu. Do ông Võ Văn L
đã nộp tạm ứng số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; chi phí đo đạc chi phí thẩm
định giá tài sản nên ông T bà N trách nhiệm hoàn trả lại cho ông L số tiền 18.082.212
đồng (Mười tám triệu, không trăm tám mươi hai ngàn, hai trăm mười hai đồng).
IV/ Ktừ ngày người được thi hành án đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải
thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản
2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo nghĩa vụ thi hành án
của các đương sự.
* Sau khi xét xsơ thẩm Bị đơn ông Trần Văn T Hoàng Thị Vân N
đơn kháng cáo bản án dân sự thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 10/01/2025 của Tòa án
nhân dân quận C (nay Tòa án nhân dân khu vực 3), thành phố Đà Nẵng. Ông Trần
Văn T và bà Hoàng Thị Vân N đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm trưng cầu đo đạc lại vì có
sự mâu thuẫn về số liệu sửa bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Nguyên đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm ,ông Trần Văn T Hoàng Thị Vân N giữ nguyên
nội dung kháng cáo.
11
* Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng phát
biểu về việc giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
ở giai đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về quan điểm giải quyết: Đnghị HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân
N Giữ nguyên nội dung bản án dân sự thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 10/01/2025
của Tòa án nhân dân quận C (nay là Tòa án nhân dân khu vực 3), thành phố Đà Nẵng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi Đại diện Viện kiểm sát
phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thủ tục t tụng:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, Người đại diện theo ủy quyền của ông Văn L
trình bày: Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Võ Văn L
thì ông L M cùng 07 người con sinh sống trên thửa đất nhưng Tòa án cấp
thẩm chưa xác minh làm rõ những người trong hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất xác định những người hiện sinh sống trên thửa đất tại thời
điểm khởi kiện để đưa vào tham gia tố tụng là chưa có cơ sở vững chắc. Tuy nhiên, Tòa
án cấp sơ thẩm đã đưa ông L và bà M (là đại diện chủ hộ gia đình) tham gia tố tụng cũng
đảm bảo quy định của pháp luật không ảnh hưởng quyền lợi ích hợp pháp của
người khác.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân N đề nghị a
án trưng cầu đo đạc lại vì có sự mâu thuẫn về số liệu. Xét yêu cầu của ông T và bà N t
thấy: Theo Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số CP 854500 thì thửa đất ông T N đang sử dụng chiều ngang phía
trước 4,85m chiều ngang phía sau 5,63m (rộng về phía sau). Tại bên bản xem
xét, thẩm định tại chỗ ngày 10/7/2025 thể hiện: Chiều ngang ngôi nhà trên đất cách
bức tường phía sau khoảng 01m bao gồm cả 02 bức tường 5,45m”. Do vậy, chiều
ngang phía sau của thửa đất 5,54m như kết quả đo đạc của Trung tâm kỹ thuật tài
nguyên và Môi trường Đà Nẵng là phù hợp nên không chấp nhận yêu cầu đo đạc lại của
ông T và bà N.
* Về nội dung:
12
Tại phiên a phúc thẩm, ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân N giữ nguyên nội
dung kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của Nguyên đơn. Xét kháng cáo của ông Trần Văn T và Hoàng Thị Vân N thì
thấy:
[3] Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số I 922022 do UBND huyện H ,
thành phố Đà Nẵng (cũ) cấp ngày 17/12/1996 thì hộ ông Võ Văn L sử dụng thửa đất số
141, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (nay là số 675/12
đường T, phường A, thành phố Đà Nẵng) có diện tích 976m
2
; Ngày 10/11/ 1999 hộ ông
L đã chuyển nhượng cho ông Võ C Thị Xuân H diện tích đất 324m
2
; Ngày
08/10/2001 hộ ông L tiếp tục chuyển nhượng cho bà Võ Thị N, bà Võ Thị Trường G,
Thị Hồng Tr, bà Thị H1 tổng cộng diện tích 200m
2
(chuyển cho mỗi diện tích
đất 50m
2
) hiến đất mở rộng đường diện tích đất 50m
2
, nvậy phần diện tích
đất còn lại mà hộ ông Võ Văn L đang sử dụng là 402 m
2
(976m
2
- 574m
2
= 402m
2
).
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số CP 854500 do Sở Tài Nguyên Môi Trường thành phố Đà Nẵng cấp
ngày 10/01/2019 thì ông Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân N sử dụng thửa đất số 76, tờ
bản đồ số 75 tọa lạc tại 675/6 đường T, Tổ 1 phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng có
diện tích 130,7m
2
có phía Đông giáp đường bê tông có chiều ngang là 4,85m và phía
Tây có chiều ngang là 5,63m.
[4] Tại kết quả đo đạc của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường Đà Nẵng
ngày 12/10/2023 được thực hiện với schứng kiến của các bên đương sự thì diện tích
đất tranh chấp giữa hộ ông L ông T, N 2,3m
2
chiều ngang phía Đông 0,19m
và chiều ngang phía Nam là 0,20m.
Đối với thửa đất s141, tờ bản đs19 của hộ ông Văn L diện tích 373,4m
2
(không kể diện tích đất tranh chấp) có chiều dài phía Bắc đoạn giáp đất của ông T và bà
N là 11,62m.
Đối với thửa đất số 76, tờ bản đồ số 75 của ông T N diện tích 130,9m
2
(không kể diện tích đất tranh chấp) chiều dài phía Nam đoạn giáp đất hộ ông L
11,65m.
[5] Đối chiếu với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CP 854500 do Sở Tài Nguyên và Môi Trường thành phố Đà
Nẵng cấp ngày 10/01/2019 thì kết quả đo đạc thực tế của thửa đất số 76, tờ bản đ số 75
thể hiện chiều ngang phía Đông thiếu 0,01m (01cm) và chiều ngang phía Nam thiếu
0,09m (09cm) nhưng diện tích đất biến động tăng là 0,2m
2
. HĐXX xét thấy:
Chiều ngang phía Nam thửa đất của ông T bà N thiếu 0,09m, tuy nhiên thửa
đất của ông T N rng dần về phía sau nên tại điểm bắt đầu tranh chấp phía sau
13
cách cạnh phía Nam 4,39m thì thửa đất của ông T và N thiếu theo chiều ngang là nhỏ
hơn 0,09m trong khi chiều ngang của diện tích đất tranh chấp 0,2m. Như vậy, nếu kéo
một đường thẳng từ phía trước là 4,85m và phía sau là 5,63m thì diện tích đất của ông T
N nằm trong diện tích đất các bên đang tranh chấp rất nhỏ nằm trong phạm vi
sai số cho phép theo quy định tại Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của
Bộ Tài Nguyên và Môi Trường như trình bày của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi
trường Đà Nẵng tại Công văn số 661/TTKTTNMT-ĐĐBĐ ngày 17/6/2025 căn cứ.
Hơn nữa, qua xem xét thẩm định tại chỗ thì thấy bức tường nằm trên diện tích đất tranh
chấp thẳng với tường nhà vệ sinh ông L đã xây dựng tnăm 1998, nội dung này phù
hợp với kết quả đo đạc của Trung tâm kỹ thuật tài nguyên môi trường Đà Nẵng thể
hiện trên phần diện tích đất tranh chấp phần diện tích xây dựng của hộ ông L 0,9m
2
;
sau khi xây dựng hộ ông L đã sử dụng nhà vệ sinh từ thời gian đó đến nay chủ sử
dụng đất ông C sau khi nhận chuyển nhượng lại thì ông T và N cũng
không có tranh chấp.
Ngoài ra, ông T N trình bày khi xây nhà ông dự định xây tường nhà sát
với bức tường nhưng do ông L không đồng ý nên ông đã xây tường nhà cách tường
khoảng 0,1m. Như vậy, tại thời điểm phát sinh tranh chấp ông Tbà N không yêu
cầu Cơ quan thẩm quyền giải quyết tranh chấp để xác định ranh giới quyền sử dụng
đất mà tự nguyện xây nhà kiên cố như hiện trạng và sinh sống ổn định, chỉ khi hộ ông L
làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới tranh chấp.
Hơn nữa, ông T và bà N cho rằng trên phần diện tích đất tranh chấp có bức tường
do chủ đất cũ là ông Võ C xây dựng nên khẳng định phần diện tích 2,3m
2
thuộc quyền
sử dụng của ông không sở, bởi lẽ lời trình bày của ông T N không được
Người đại diện theo ủy quyền của ông L thừa nhận, mặt khác căn cứ mà ông T và bà N
đưa ra chưa đủ để xác định phần tường rào là do ông Võ C xây dựng, hơn nữa nếu đúng
tường rào là ông C xây cũng không thể khẳng định ông C xây dựng đúng vị trí
đất thuộc quyền sử dụng được ghi nhận theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
mình hay đã xây trên phần đất được ghi nhận cho hộ ông L.
Do vậy, ông T N cho rằng bức tường trên diện tích đất tranh chấp diện
tích 2,3m
2
là của ông T và bà N là không có cơ sở.
Từ những phân tích trên, HĐXX thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông L buộc ông T N trả lại phần diện tích đất tranh chấp 2,3m
2
trên đó có bức tường là có căn cứ. Do vậy HĐXX không chấp nhận kháng cáo của ông
Trần Văn T và bà Hoàng Thị Vân N và Giữ nguyên nội dung Bản án dân sự sơ thẩm số
03/2025/DS-ST ngày 10/01/2025 của Tòa án nhân dân quận C (Nay là Tòa án nhân dân
14
Khu vực 3), thành phố Đà Nẵng như lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên
tòa.
[6] Về án phí:
[6.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Văn L nên ông Trần Văn T
Hoàng Thị Vân N phải chịu án p n sự sơ thẩm (42.110.366 đồng x 5%) =
2.105.518 đồng.
[6.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo nên ông Trần
Văn T và bà Hoàng Thị Vân N phải chịu án phí n s phúc thẩm là 300.000 đng, nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009524
ngày 22/01/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận C, thành phố Đà Nẵng (cũ).
[7] Về chi phí tố tụng:
- Chi p xem xét thẩm định tại chỗ 4.000.000 đồng; chi phí đo đạc 7.082.212
đồng chi phí thẩm định giá tài sản 7.000.000 đồng. Tổng cộng 18.082.212 đồng
ông Trần Văn T Hoàng Thị Vân N phải chịu. Do ông Văn L đã nộp tạm ứng
số tiền trên (đã nộp, đã chi) nên ông Trần Văn T bà Hoàng Thị V Ngọc trách nhiệm
hoàn trả lại cho ông Võ Văn L số tiền 18.082.212 đồng.
- Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ tại cấp phúc thẩm ông Trần Văn T
Hoàng Thị Vân N phải chịu là 2.000.000 đồng (Đã nộp và chi xong).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 166; 170; 202 và 203 của Luật Đất đai năm 2014;
- Căn cứ các Điều 158; 159; 163; 164 và 166 của Bộ luật Dân sự 2015.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn T Hoàng Thị Vân N. Gi
nguyên Bản án dân sự thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 10/01/2025 của Tòa án nhân dân
quận C (Nay là Tòa án nhân dân Khu vực 3), thành phố Đà Nẵng.
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Văn L đối với ông Trần Văn T
Hoàng Thị Vân N.
15
1. Công nhận phần diện tích đất tranh chấp diện tích 2,3m
2
giá trị 42.110.366
đồng (Bốn mươi hai triệu, một trăm mười ngàn, ba trăm sáu mươi sáu đồng) thuộc quyền
sử dụng của h ông Văn L. Phần diện tích đất tranh chấp 2,3m
2
có tứ cận như sau:
- Cạnh Bắc dài 11,65m giáp nhà đất ông T, bà N;
- Cạnh Nam dài 11,62m giáp nhà đất ông Võ Văn L;
- Cạnh Đông dài 0,19m giáp phần diện tích đất có bức tường nằm giữa nhà ông T
bà N với nhà ông Đinh Tân L1;
- Cạnh Tây dài 0,20m giáp phần diện tích đất bức tường nằm giữa nhà ông T
bà N với nhà thờ Tộc Võ.
2. Buộc vợ chồng ông Trần Văn T bà Hoàng Thị Vân N trả lại phần diện tích
đất tranh chấp 2,3m
2
trên đó bức tường chiều cao khoảng 1,5m và chiều dài
khoảng 11,62m (bức tường nên không còn giá trị sử dụng) tcận nêu trên thuộc
thửa đất số 141, tờ bản đồ số 19 tọa lạc tại xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng (nay s
675/12 đường T, phường A, thành phố Đà Nẵng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số I 922022 do UBND huyện H, thành phố Đà Nẵng cấp cho hộ ông Võ Văn L ngày
17/12/1996) cho hộ ông Võ Văn L.
(Có sơ đồ bản vẽ kèm theo)
Các bên đương sự được quyền liên hệ với quan Nhà nước thẩm quyền đ
làm thủ tục liên quan đến nhà đất theo quy định.
3. Về án phí:
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Án phí dân sự sơ thẩm ông Trần Văn T và bà Hoàng
Thị Vân N phải chịu là 2.105.518 đồng.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Án phí dân sự phúc thẩm ông Trần Văn T
Hoàng Thị Vân N phải chịu là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án p
đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009524 ngày 22/01/2025 tại Chi cục Thi
hành án dân sự quận C, thành phố Đà Nẵng.
4. Về chi phí tố tụng:
- Chi p xem xét thẩm định tại chỗ 4.000.000 đồng; chi phí đo đạc 7.082.212
đồng chi phí thẩm định giá tài sản 7.000.000 đồng. Tổng cộng 18.082.212 đồng
ông Trần Văn T Hoàng Thị Vân N phải chịu. Do ông Văn L đã nộp tạm ứng
số tiền trên (đã nộp, đã chi) nên ông Trần Văn T và Hoàng Thị Vân N trách nhiệm
hoàn trả lại cho ông Võ Văn L số tiền 18.082.212 đồng.
- Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ tại cấp phúc thẩm ông Trần Văn T
Hoàng Thị Vân N phải chịu là 2.000.000 đồng (Đã nộp và chi xong).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
16
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi nh án dân
sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hánh án theo quy
định tại Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND Khu vực 3, Đà Nẵng;
- Phòng THADS Khu vực 3;
- VKSND TP. Đà Nẵng;
- Lưu: Hồ vụ án (1b), Tổ nghiệp vụ
- Văn phòng (1b).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký và đóng dấu)
Vũ Việt Dũng
Tải về
Bản án số 140/2025/DS-PT Bản án số 140/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 140/2025/DS-PT Bản án số 140/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất