Bản án số 1314/2024/HC-PT ngày 26/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1314/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1314/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1314/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1314/2024/HC-PT ngày 26/12/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1314/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Trương Sĩ Q. Sửa một phần Bản án hành chính sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1314/2024/HC-PT
Ngày 26 tháng 12 năm 2024
“V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính
về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng.
Các Thẩm phán: Ông Lê Hoàng Tấn.
Ông Trần Ngọc Tuấn.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Đức - Kiểm sát viên.
Ngày 26/12/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số:
856/2024/TLPT-HC ngày 18/10/2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính
về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 12/2024/HC-ST ngày 11/4/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3365/2024/QĐPT-HC
ngày 01/12/2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Trương Sĩ Quyến, sinh năm 1949. Địa chỉ: Ấp 3A, xã
Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai; có mặt.
2. Người bị kiện: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai; có văn bản xin
xét xử vắng mặt.
3. Người kháng cáo: Ông Trương Sĩ Quyến – Là người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại Đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án người khởi
kiện ông Trương Sĩ Quyến trình bày:
Ngày 08/4/1991, ông Trương Sĩ Quyến có mua thửa đất của vợ chồng Nguyễn
Lê Minh Tuấn và Trương Thị Huệ, chiều dài 25m x chiều rộng 20m, diện tích là
2
500m
2
tọa lạc tại ấp 3, xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Phần đất
có tứ cận: Hướng Bắc giáp lô điều Hoàng Văn Thượng và Trương Thị Dan; Hướng
Nam giáp nhà ông Đại; Hướng Đông giáp đường Xuân Tâm, Xuân Hưng; Hướng
Tây giáp nhà vợ chồng Trương Sĩ Dũng. Khi làm giấy mua đất có Trương Sĩ Dũng,
Trương Sĩ Bảy và Trương Thị Dan làm chứng. Sau đó, ông Quyến xây 01 căn nhà
cấp 4 trên thửa đất mới mua.
Ngày 02/5/1991, ông Quyến làm Giấy ủy quyền cho mẹ ruột là bà Nguyễn Thị
Kinh, sinh năm 1926 đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên nhằm mục
đích ở và thờ cúng ông bà tổ tiên, không được bán hay sang nhượng…sau này khi
bà Kinh chết thì ông Quyến được quyền thừa kế và lúc đó ông Quyến có quyền để
ở thờ cúng hay bán, có sáu người em ruột của ông Quyến làm chứng thửa đất diện
tích là 25m x 20m = 500m
2
.
Ngày 14/5/1991, bà Kinh được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm
thời số 1170 CN/RD có ghi diện tích là 500m
2
, mặt sau giấy có ghi chú: ông
Trương Sĩ Quyến, sinh năm 1949 là người con trai thừa kế khi bà Nguyễn Thị Kinh
qua đời, chủ quyền này có giá trị pháp lí đối với ông Trương Sĩ Quyến. Ngày
22/12/1999, bà Nguyễn Thị Kinh được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
thửa 266 tờ bản đồ số 42 diện tích 410,3m
2
, mất 89,7m
2
.
Ngày 13/6/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Trương Sĩ Quyến số CĐ155647 thửa 266 tờ bản
đồ số 42 diện tích 410,3m
2
tọa lạc tại ấp 3, xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh
Đồng Nai. Đất này nguồn gốc ông Quyến mua của vợ chồng Nguyễn Lê Minh
Tuấn và Trương Thị Huệ, chiều dài 25m x chiều rộng 20m, diện tích là 500m
2
, như
vậy ông Quyến bị mất diện tích 89,7m
2
.
Nên ông Quyến làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 155647 thửa 266 tờ bản đồ số 42 để
thực hiện thủ tục cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Quyến đúng
với diện tích mà ông Quyến đã mua của vợ chồng Nguyễn Lê Minh Tuấn và
Trương Thị Huệ, chiều dài 25m x chiều rộng 20m, diện tích là 500m
2
. Ông Quyến
cam đoan không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
- Người khởi kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai có ý kiến:
Ngày 20/5/2016, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả UBND huyện Xuân Lộc tiếp
nhận hồ sơ biên nhận số 741001222B1600353, 741001222B1600354,
741001222B1600355 của ông Trương Sĩ Quyến và chuyển Văn phòng Đăng ký đất
đai tỉnh Đồng Nai - Chi nhánh Xuân Lộc giải quyết theo quy định.
Ngày 26/5/2016, Văn phòng Đăng ký đất đai Chi nhánh Xuân Lộc lập phiếu
chuyển thông tin địa chính để chuyển Chi cục thuế đồng thời scan hồ sơ chuyển
Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh để in giấy chứng nhận theo quy định.
Ngày 13/6/2016, Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh đã trình Sở Tài nguyên và
Môi trường ký cấp giấy chứng nhận số CĐ 155649, CÐ 155648, CÐ 155647 cho
ông Trương Sĩ Quyến. Trong đó, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ
155647 hiện đang là đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính.
3
Đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sỡ hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CĐ 155647 ngày 13/6/2016 trước đây đã được Ủy ban
nhân dân (UBND) huyện Xuân Lộc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AK577092 ngày 12/12/1999 với diện tích 410,3m² (300m đất ở nông thôn; 110,3m²
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa 266, tờ 42 xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc cho
bà Nguyễn Thị Kinh (mẹ ruột ông Trương Sĩ Quyến). Năm 2009, bà Nguyễn Thị
Kinh lập di chúc với nội dung tặng cho ông Trương Sĩ Quyến thửa đất số 266 thuộc
tờ bản đồ số 42 xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, bản di chúc được UBND xã Xuân
Hưng chứng thực ngày 23/7/2009. Năm 2010, bà Nguyễn Thị Kinh mất. Ngày
20/5/2016, ông Trương Sĩ Quyến có đơn xin đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất
gửi UBND huyện Xuân Lộc. Căn cứ nội dung đơn và quá trình sử dụng đất cũng
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp trước đây cho bà Nguyễn Thị Kinh,
sau khi Văn phòng Đăng ký Đất đai chi nhánh Xuân Lộc thẩm định hồ sơ, Sở Tài
nguyên và Môi trường đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ
155647 ngày 13/6/2016) trên cơ sở giữ nguyên số tờ thửa và diện tích đã cấp cho
bà Nguyễn Thị Kinh sang cho ông Trương Sĩ Quyến. Ngày 22/6/2016, Chi cục
Thuế huyện Xuân Lộc có thông báo thực hiện nghĩa vụ tài chính, trên cơ sở đó,
Văn phòng Đăng ký chi nhánh Xuân Lộc hoàn tất hồ sơ và chuyển trả kết quả sang
bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của UBND huyện Xuân Lộc.
Như vậy, việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Trương Sĩ Quyến của Sở Tài nguyên và Môi trường tại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 155647 ngày 13/6/2016 là đúng quy định
pháp luật.
Về hồ sơ pháp lý có liên quan: Căn cứ Đơn xin đăng ký thừa kế quyền sử
dụng đất lập ngày 20/5/2016, được UBND Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc xác nhận
ngày 20/5/2016 của ông Trương Sĩ Quyến; Bản di chúc của bà Nguyễn Thị Kinh
tặng cho ông Trương Sĩ Quyến các thửa đất số 266 thuộc tờ bản đồ số 42 xã Xuân
Hưng, huyện Xuân Lộc, được UBND xã Xuân Hưng chứng thực ngày 23/7/2009;
Giấy chứng tử bà Nguyễn Thị Kinh được UBND xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc
xác nhận ngày 19/4/2016; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Văn phòng Đăng
ký đất đai chi nhánh Xuân Lộc đã lập hồ sơ, tham mưu Sở Tài nguyên và Môi
trường cấp giấy chứng nhận cho ông Trương Sĩ Quyến đối với các thửa đất nói trên
là đúng quy định pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 12/2024/HC-ST ngày 11/4/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã quyết định:
Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 116, khoản 1 Điều 157, Điều 158, Điều 193,
Điều 194, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; Khoản 3 Điều 105; Điều 204 của
Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí;
Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trương Sĩ Quyến về việc yêu cầu
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 155647 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đồng Nai cấp cho Trương Sĩ Quyến ngày 13/6/2016.
4
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định ông Trương Sĩ Quyến phải nộp án
phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 22/4/2024, ông Trương Sĩ Quyến kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người khởi kiện ông Trương Sĩ Quyến giữ nguyên kháng cáo yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CĐ 155647 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai
cấp ngày 13/6/2016 đối với thửa 266 tờ bản đồ số 42 tại xã Xuân Hưng, huyện
Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
- Người bị kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai có Văn bản xin
xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành
chính. Người khởi kiện của ông Quyến kháng cáo trong hạn luật định nên đủ điều
kiện xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo: Bản án hành chính sơ thẩm giải quyết không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông Quyến là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp
luật. Do đó, đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, bác kháng
cáo của ông Quyến, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của người khởi kiện ông Trương Sĩ Quyến trong thời hạn
luật định, hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
- Người bị kiện có văn bản xin xét xử vắng mặt (bút lục 242) nên Tòa án tiến
hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt người bị kiện theo quy định tại khoản 4
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[2] Ngày 09/03/2017, ông Trương Sĩ Quyến khởi kiện đề nghị huỷ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 155647 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Đồng Nai cấp cho ông Trương Sĩ Quyến ngày 13/6/2016 đối với thửa 266 tờ bản
đồ số 42 tại xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ
án và còn trong thời hiệu khởi kiện là đúng quy định tại các Điều 3, 30, 32, 116 của
Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[3] Xét tính hợp pháp của Quyết định hành chính bị khởi kiện:
[3.1] Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính: Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 155647 ngày
5
13/6/2016 thửa 266 tờ bản đồ số 42 cho ông Trương Sĩ Quyến là đúng thẩm quyền
theo quy định tại khoản 3 Điều 105 Luật Đất đai 2013.
[3.2] Căn cứ ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện:
Ngày 08/4/1991, bà Trương Thị Huệ lập giấy sang nhượng đất hoa màu cho
bà Nguyễn Thị Kinh và ông Trương Sĩ Quyến với diện tích dài 25m rộng 20m bằng
500m
2
đất. Trong giấy tay sang nhượng đất không ghi số thửa đất và không có biên
bản đo đạc diện tích thực tế.
Đến ngày 14/6/1999, bà Nguyễn Thị Kinh là mẹ ruột của ông Trương Sĩ
Quyến có đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất gửi UBND huyện Xuân Lộc đối với
diện tích 410,3m
2
đất T+V thửa đất số 226 tờ bản đồ 42 và được UBND xã Xuân
Hưng và cơ quan địa chính xác nhận ngày 11/11/1999 đủ điều kiện cấp giấy (bút
lục số 100).
Ngày 12/12/1999, UBND huyện Xuân Lộc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số Q320340 cho bà Nguyễn Thị Kinh đối với diện tích 410,3m
2
(300m
2
đất ở nông thôn; 110,3m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa 266, tờ 42 tọa lạc tại ấp
3 xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc (bút lục 18). Đến ngày 23/7/2009 bà Nguyễn
Thị Kinh lập di chúc với nội dung tặng cho ông Trương Sĩ Quyến thửa đất số 266
tờ bản đồ số 42 diện tích 410,3m
2
đất thổ + vườn tọa lạc tại ấp 3 xã Xuân Hưng,
huyện Xuân Lộc, bản di chúc được UBND xã Xuân Hưng chứng thực cùng ngày
23/7/2009 (bút lục số 172).
Năm 2010, bà Nguyễn Thị Kinh chết. Đến ngày 20/5/2016, ông Trương Sĩ
Quyến có đơn xin đăng ký thừa kế quyền sử dụng thửa đất số 266 tờ bản đồ số 42
diện tích 410,3m
2
đất thổ + vườn tọa lạc tại xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc. Cùng
ngày 20/5/2016, bộ phận tiếp nhận và trả kết quả UBND huyện Xuân Lộc tiếp nhận
hồ sơ của ông Trương Sĩ Quyến và chuyển Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đồng
Nai - Chi nhánh Xuân Lộc giải quyết theo quy định. Ngày 26/5/2016, Văn phòng
Đăng ký đất đai chi nhánh Xuân Lộc lập phiếu chuyển thông tin địa chính chuyển
Chi cục thuế huyện Xuân Lộc để xác định nghĩa vụ tài chính của ông Trương Sĩ
Quyến.
Đến ngày 13/6/2016 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
số CĐ 155647 cho ông Trương Sĩ Quyến đối với thửa đất số 266, tờ 42 diện tích
410,3m² (300m
2
đất ở nông thôn; 110,3m² đất trồng cây lâu năm) tọa lạc tại ấp 3,
xã Xuân Hưng, huyện Xuân Lộc là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Ông Quyến cho rằng Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông thiếu diện tích so với diện tích nhận chuyển
nhượng ban đầu là do ông Trương Sỹ Dũng lấn chiếm đất của ông Quyến. Sau đó
Quyến đã khởi kiện vụ án dân sự đòi ông Dũng trả lại lấn chiếm đất diện tích
93,9m
2
thuộc thửa cũ 408, vụ việc đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp
luật (Bản án dân sự phúc thẩm số: 167/2022/DSPT ngày 24/11/2022 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Nai) với nội dung bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
Quyến đòi ông Dũng trả lại đất.
6
Xét yêu cầu khởi kiện của ông Quyến cho rằng Sở Tài Nguyên và Môi trường
tỉnh Đồng Nai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Quyến không đủ
diện tích là không có căn cứ để chấp nhận. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Sĩ Quyến yêu cầu hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ
155647 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp cho ông Trương Sĩ
Quyến ngày 13/6/2016 đối với thửa đất số 266, tờ 42 diện tích 410,3m² (300m
2
đất
ở nông thôn; 110,3m² đất trồng cây lâu năm) tọa lạc xã Xuân Hưng, huyện Xuân
Lộc là đúng quy định của pháp luật.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm ông Quyến giữ nguyên kháng cáo nhưng không
xuất trình được chứng cứ nào mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình.
Do đó không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Quyến.
Xét ông Trương Sĩ Quyến là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí án phí
hành chính sơ thẩm quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Do đó, sửa một phần bản án sơ thẩm về án phí, miễn án phí hành chính sơ
thẩm cho ông Trương Sĩ Quyến. Hoàn trả cho ông Quyến số tiền đã nộp tạm ứng
án phí sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh đề nghị bác kháng cáo của ông Quyến là có căn cứ.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trương Sĩ Quyến được miễn nộp án
phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 2 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính; điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Trương Sĩ Quyến.
2. Sửa một phần Bản án hành chính sơ thẩm số: 12/2024/HC-ST ngày
11/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về án phí:
Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 116, khoản 1 Điều 157, Điều 158, Điều 193,
Điều 194, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; Khoản 3 Điều 105; Điều 204 của
Luật Đất đai năm 2013;
2.1. Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trương Sĩ Quyến về việc yêu
cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số CĐ 155647 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp
cho ông Trương Sĩ Quyến ngày 13/6/2016 đối với thửa đất số 266, tờ 42 diện tích
7
410,3m² (300m
2
đất ở nông thôn; 110,3m² đất trồng cây lâu năm) tọa lạc xã Xuân
Hưng, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
2.2. Ông Trương Sĩ Quyến được miễn nộp án phí hành chính sơ thẩm.
- Hoàn trả cho ông Trương Sĩ Quyến số tiền nộp tạm ứng án phí sơ thẩm
300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 007482 ngày 10/3/2017 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.
3. Ông Trương Sĩ Quyến được miễn nộp án phí hành chính phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh;
- Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai;
- Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai;
- Các đương sự;
- Lưu VP, hồ sơ vụ án, NTK.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thúy Hồng
Tải về
Bản án số 1314/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1314/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 07/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm