Bản án số 130/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh An Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 130/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 130/2025/DS-PT ngày 06/05/2025 của TAND tỉnh An Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh An Giang
Số hiệu: 130/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Th tranh chấp với K
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 130/2025/DS-PT
Ngày: 06/5/2025
V/v: Tranh chấp bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng về tài sản,
danh dự, uy tín bị xâm phạm
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đặng Thị Bích Vân
Các Thẩm phán: Bà Ngô Thị Minh Trang
Bà Trần Thị Trâm Anh
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Thu Vân - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Kiên Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Ngọc T - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 58/2025/TLPT-DS, ngày 02 tháng 4 năm
2025, về: Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm”.
Do bản án dân sự thẩm số 62/2024/DS-ST ngày 25/112024 của Tòa án
nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2025/QĐ-PT ngày 11 tháng 4
năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị T1, sinh năm 1963. Có mặt.
Địa chỉ: Số nhà E, Tổ D, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
- Người đại diện ủy quyền cho nguyên đơn là: Anh Phạm Minh T2, sinh
năm 1989. Có mặt.
Địa chỉ liên hệ: Số E N, phường V, TP ., tỉnh Kiên Giang.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc K, sinh năm 1979. Có mặt.
Địa chỉ: Số nhà E, Tổ D, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1967. Có đơn yêu cầu vắng mặt.
2
3.2. Bà Võ Thị B, sinh năm 1970. Có đơn yêu cầu vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
3.3. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1995. Có đơn yêu cầu vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang.
4. Người kháng cáo: Bà Võ Thị T1 - bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nguyên đơn Võ Thị T1 và người đại diện theo ủy quyền trình
bày: chị vợ của ông Nguyễn Văn N người trực tiếp trong nhà của
ông N tại số nhà E, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Vào tháng 01/2023 ông
Nguyễn Văn N kêu T1 thuê người múc đất dưới sông sáng Kênh N để lên
bến nhà ông N, ông N người trả tiền thuê, khoảng gần nửa tháng sau không
ở nhà thì anh K chở phần đất của ông N đổ qua nhà ông K, bà có hỏi thì ông N
nói ông K không hỏi ông N về việc lấy đất. gặp ông K thì ông K nói sau
này sẽ múc đất trả lại cho ông N nên bà bỏ về. Vào lúc 14h30 phút ngày
09/02/2023 đi mời các hộ dân để họp (do làm phụ nữ ấp nên mời họp
ngày 10/02/2023), lúc chuẩn bị đi thì ông K qua nhà chửi còn dùng loa để hát
Karaoke chửi thô tục, sau đó khóa cửa đi thì thấy ông K cầm cưa sắt qua
cưa ổ khóa nhà và bà có nói “mất đồ thì mày chịu trách nhiệm”, sau đó ông K cưa
cửa vào nhà lấy đồ của quăng ra ngoài, đợt đầu ông K quăng ra giữa lộ trước
cửa nhà ông N 1 cái cặp màu vàng (trong đó có để 12.000.000đ toàn tờ
500.000đ tiền T1 rút từ ngân hàng A về để trả tiền cho bà Ngọc D, trước
đó T1 mượn của D để trả tiền cho chghe múc đất một cái thẻ ATM
của Ngân hàng A mang tên chị Nguyễn Thị H chủ tài khoản) khi quăng ra thì
bà không thấy, vì lúc đó bà đang ở trong nhà của ông Châu Văn L là người kế bên
nhà của ông N, tiếp tục ông K vào trong nhà lấy thêm một cái cặp màu đen của bà
T1 ném ra giữa lộ trước cửa nhà ông N vài bộ quần áo của bà, trong đó một
cái áo khoác màu vàng để một sợi dây chuyền 04 chỉ vàng 24Kra (9999). Khi
ông K ném đồ ra thêm lần thứ 2 thì bà không thấy tiền, vàng văng ra ngoài đường,
sau đó lên trình báo với công an ấp T3, công an ấp điện công an xuống lập
biên bản tại chỗ, khi đó bà không biết ai đã mang đồ bỏ trong lề đường. Khi ông
K quăng đồ thì hàng xóm ở đó thấy.
Nay yêu cầu ông K bồi thường thiệt hại về tài sản bao gồm 12.000.000đ
04 chỉ vàng 24kra (9999) tương đương với 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng),
bồi thường danh dự nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm c thể
18.000.000đ do bà không đi làm mất thu nhập thực tế bị mất hiện T1 đang làm
Hội phụ nữ nông dân ấp Tân Lập từ tháng 02-10/2023 (một tháng bà T1 làm
được 2.000.000đ x 9 tháng = 18.000.000đ). Tổng số tiền ông K phải bồi thường là
50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).
- Theo bị đơn ông Nguyễn Quốc K trình bày: Ông thống nhất với lời trình
bày của bà T1 vnguyên nhân xảy ra sự việc cũng như thời gian dùng những lời
lẽ thô tục chửi T1, nhưng khi ông lấy đồ của bà T1 từ trong nhà quăng ra giữa
3
đường thì T1 đứng dưới sông nhà ông L nhìn lên, khi quăng đồ ra tông
không thấy tiền, vàng như lời trình bày của bà T1, lúc quăng đồ ra cũng có một số
con hàng xóm (cụ thể ai thì ông không biết) ngồi chung với chỗ T1 nhìn
qua, việc bà T1 trình bày khi đi báo công an về thì đồ đã được bỏ vào lề đường là
khi đó một xe chở vật liệu xây dựng chạy ngang thì tài xế xuống lấy chân gạt
vào lề đường còn xe của ai và do người nào chạy thì ông không biết. Theo như bà
T1 trình bày số tiền 12.000.000đ rút từ ngân hàng về để trả cho D thì không
đúng khi sáng múc đất thì T1 đã trả tiền cho chủ sáng múc ông Hai Đ, sở
ông biết do ông Đ nói, đồng thời ông Đ nói với ông T1 dặn nếu
có ai hỏi trả tiền múc đất chưa thì nói là chưa trả.
Nay ông không đồng ý bồi thường tài sản là số tiền 12.000.000đ và một sợi
dây chuyền trọng lượng 4 chỉ vàng 24Kra (9999) ông không làm mất. Ông K
đồng ý tự nguyện bồi thường danh dnhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cho T1
số tiền 5.000.000đ.
- Theo người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn N trình bày: Khi sự việc giữa T1, ông K xảy ra thì
vợ chồng ông không hay biết lúc đó ông đang đi làm Tây Ninh. Trước đây
ông có nhờ chị vợ ông là bà Thị T1 coi nhà dùm để vợ chồng ông đi làm. Nay
đối với vụ kiện này ông không có yêu cầu gì.
2. Chị Nguyễn Thị H trình bày: T1 ruột của chị, vào khoảng năm
2021 chị gửi cho T1 một cái thẻ ATM của Ngân hàng N1 số tài khoản
5701205151465 mang tên Nguyễn Thị H để chị gửi tiền hàng tháng về cho T1
nuôi con (2 đứa con), đóng hụi bình quân một tháng chị gửi vào tài khoản trên t
5.000.000đ đến 6.000.000đ, thông thường chị gửi vào ngày 10 tây hàng tháng,
tháng nào thì T1 xài hết tháng đó, hàng tháng chị đều kiểm tra qua App của
Ngân hàng t đều biết trong tài khoản còn lại bao nhiêu tiền, vào ngày
08/02/2023 chị gửi vào số tài khoản trên với số tiền 12.000.000đ để trả tiền
thngười múc đất vào ngày 07/02/2023 ông Nguyễn Chánh Đ1 để đắp nền
nhà tại tổ G, ấp T, T, huyện T, tỉnh Kiên Giang, (tổng cộng thuê ông Đ1 múc
đất 24.000.000đ khi đó T1 được 12.000.000đ chị mới kêu T1 mượn
thêm 12.000.000đ để trả cho ông Đ1 đã trả hết cho ông Đ1 24.000.000đ vào
ngày 07/02/2023). Đến ngày 08/02/2023 thì chị gửi 12.000.00 vào tài khoản
trên cho T1, đến ngày 09/02/2023 thì T1 rút số tiền 12.000.000đ để trả cho
ai thì chị không biết. Nay chị không có yêu cầu gì trong vụ kiện này.
- Theo lời khai người làm chứng Ngọc D trình bày: T1
hàng xóm với nhau, vào ngày tháng năm o thì không nhớ T1 xuống
nhà mượn 12 triệu đồng để trả tiền múc đất hẹn ngày hôm sau cháu gởi
tiền về thì T1 sẽ trả lại cho nhưng cháu bà T1 gởi tiền về thì bị mất nên
T1 hẹn lại để lo trả sau cho bà, khoảng 03 tháng sau thì T1 đã trả hết cho bà.
Nay bà không có yêu cầu gì trong vụ kiện này.
* Những người khác không có lời khai.
Tại Bản án dân sự thẩm số 62/2024/DS-ST, ngày 25/11/2024 của Tòa
4
án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang đã xét xử, quyết định:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị T1 về việc tranh
chấp “Bồi thường thiệt hại vtài sản, danh dự uy tín bị xâm phạm” đối với anh
Nguyễn Quốc K.
Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường thiệt hại về danh dự uy tín bị xâm phạm
của anh K cho T1 là 5.000.000đ.
Ngoài ra bản án còn quyết định ván phí, lãi suất chậm trả báo quyền
kháng cáo cho đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 12/12/2024 bị đơn Thị T1 kháng cáo với nội dung: Tòa
thẩm chưa xem xét đầy đchứng cứ, không đánh giá khách quan hành vi của ông
K tự ý xâm nhập vào nhà bà, pkhóa, quăng đồ đạc ra đường, gây tổn thất lớn
về tài sản làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của bà. Chưa
cân nhắc những tổn thất thực tế như mất thu nhập từ công việc do bị ảnh hưởng
tinh thần uy tín, tổn hại về danh dự, nhân phẩm khi bị xúc phạm công khai.
Yêu cầu buộc ông K bồi thường tiền bị mất 12.000.000đ, 04 chỉ vàng 24kra
20.000.000đ, tổn hại danh dự nhân phẩm uy tín 23.400.000đ (10 tháng lương
sở x 2.340.000đ) thu nhập bị mất do không đi làm được 18.000.000đ
(2.000.000đ/tháng x 9 tháng). Buộc ông K công khai xin lỗi.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn trình bày: Chỉ yêu cầu ông Nguyễn Quốc K bồi thường toàn
bộ thiệt hại với tổng số tiền là 25.000.000đ. Ngoài ra, không còn yêu cầu nào
khác.
- Bị đơn trình bày: Thống nhất bồi thường toàn bộ thiệt hại cho T1 với
tổng số tiền là 25.000.000đ
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang phát biểu ý kiến về việc
giải quyết vụ án:
Về thủ tục t tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán những
người tham gia tố tụng trong vụ án từ khi thụ vụ án đến thời điểm nghị án tại
phiên tòa phúc thẩm đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
Về nội dung vụ án và đề nghhướng giải quyết: Do các đương stự thỏa
thuận được về việc bồi thường toàn bộ thiệt hại với số tiền là 25.000.000đ, nên đề
nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của Thị T1, sửa Bản án dân sự thẩm
số 62/2024/DS-ST, ngày 25/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh
Kiên Giang, theo hướng công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa
phúc thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra công
bố công khai tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ,
toàn diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn và người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
5
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Văn N, bà Võ Thị B, chị Nguyễn Thị H
có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét
xử vắng mặt theo quy định tại Điều 296 Bộ luật TTDS.
[2] Về nội dung vụ án như sau: Do giữa T1 với ông K xảy ra mâu
thuẫn, nên vào ngày 09/02/2023 ông K chửi mloa hát karaoke chửi T1
bằng lời lẽ thô tục, sau khi T1 vừa khóa cửa ra khỏi nthì ông K đã cắt
khóa cửa vào nhà lấy đồ của T1 ném ra ngoài đường lộ, trong đó 1 cái túi
xách 01 cái áo khoác của T1. T1 thì cho rằng trong túi xách số tiền
12.000.000đ trong túi áo khoác 01 sợi dây chuyền 04 chỉ vàng 24kra nhưng
đã bị mất. T1 yêu cầu ông K bồi thường về tài sản, tổn thất tinh thần do danh
dự uy tín bị xâm phạm, mất thu nhập; Còn ông K cho rằng không làm mất tài sản
của T1 nên không đồng ý bồi thường, chỉ tự nguyện bồi thường thiệt hại về
danh dự uy tín bị xâm phạm với số tiền là 5.000.000đ.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự tự nguyện thỏa thuận về việc: Bà
Thị T1 chỉ yêu cầu ông Nguyễn Quốc K bồi thường toàn bộ thiệt hại với tổng
số tiền là 25.000.000đ. Ông K cũng thống nhất bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà
T1 với tổng số tiền 25.000.000đ. Ngoài ra, T1 không yêu cầu bồi thường
thêm khoản tiền o khác. Hội đồng t xử phúc thẩm nhận thấy sự thỏa thuận
của các đương sự tnguyện, không trái pháp luật đạo đức hội, vậy
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm.
[4] Từ những nhận định nêu trên, nhận thấy do các đương sự tự thỏa thuận tại
phiên tòa phúc thẩm nên Bản án thẩm bị sửa mang tính khách quan. Thống
nhất với đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát về việc: Chấp nhận kháng cáo của bà
Thị T1, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 62/2024/DS-ST, ngày 25/12/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, theo hướng công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm.
[5] Về án phí dân sự:
- Án phí dân sự thẩm: là 1.250.000đ, do các bên thỏa thuận nên mỗi bên
nộp ½, tuy nhiên Thị T1 thuộc trường hợp “người cao tuổi” u cầu
nên được chấp nhận miễn nộp án ptheo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Theo đó, buộc ông Nguyễn Quốc K phải nộp ½ án phí với số tiền
625.000đ.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Thị T1 được miễn nộp nên không xem
xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điều 300, Khoản 2 Điều 308, 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015;
6
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị T1.
Sửa Bản án dân sự thẩm số 62/2024/DS-ST, ngày 25/12/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.
Tuyên xử:
1. Công nhận sự thoả thuận của Thị T1 với ông Nguyễn Quốc K tại
phiên tòa phúc thẩm về việc: Ông Nguyễn Quốc K nghĩa vụ bồi thường toàn
bộ thiệt hại cho bà Võ Thị T1 với tổng số tiền là 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu
đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ
ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của s
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357, khoản
1 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc ông Nguyễn Quốc K phải chịu số tiền án phí 625.000 đồng (Sáu
trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
Bà Võ Thị T1 được miễn nộp.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Do được miễn nộp nên không xem xét.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án n sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Kiên Giang;
- TAND huyện Tân Hiệp;
- THA dân sự huyện Tân Hiệp;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đặng Thị Bích Vân
Tải về
Bản án số 130/2025/DS-PT Bản án số 130/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 130/2025/DS-PT Bản án số 130/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất