Bản án số 13/2024/DS-PT ngày 28/08/2024 của TAND tỉnh Yên Bái về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 13/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 13/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 13/2024/DS-PT ngày 28/08/2024 của TAND tỉnh Yên Bái về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Yên Bái |
Số hiệu: | 13/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH YÊN BÁI
Bản án số: 13/2024/DS-PT
Ngày 28-8-2024.
V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Dũng
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Hải
Bà Hoàng Hải Anh
- Thư ký phiên tòa: Bà Tô Kim Hiên- Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, xét xử
phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 09/2024/TLPT-DS ngày 27 tháng 6 năm 2024,
về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2024/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 09/2024/QĐPT-DS ngày
30-7-2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2014/QĐ-TA ngày 14-8-2024, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị L sinh năm 1959; địa chỉ: thôn Đ 2, xã NA, thị
xã NL, tỉnh Yên Bái; có mặt.
2. Bị đơn: ông Nguyễn Đình A sinh năm 1970; địa chỉ: tổ 6, phường TA, thị
xã NL, tỉnh Yên Bái; có mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Đình V sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ 6, phường TA, thị xã NL,
tỉnh Yên Bái; vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Văn phòng công chứng Nguyễn Minh T; địa chỉ: Tổ 4, phường TA, thị xã
NL, tỉnh Yên Bái; Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh T- Trưởng văn
phòng; vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Trong đơn khởi kiện và tại các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày: bà và ông Nguyễn Đình A có thỏa thuận bằng
miệng với nhau về việc mua bán đất từ năm 1996 và bà cũng đã nộp thuế đất từ
năm 1996, nhưng chính thức từ năm 2000 thì hai bên mới viết giấy mua bán với
nhau thửa đất tại Thôn Đ 2, xã NA, huyện VC (Nay là xã NA, thị xã NL), với diện
tích đất chiều mặt đường quốc lộ đi Nghĩa Lộ-Trạm Tấu dài 10m, chiều sâu bình
quân 7,5m với số tiền là 8.000.000đ. Bà L đã trả hết tiền cho ông A. Đến năm 2019,
bà L và ông A mới lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công chứng
ngày 21-3-2019, có diện tích chuyển nhượng là 76m
2
, ghi giá trị chuyển nhượng là
160.000.000đồng. Tuy nhiên, giá trị chuyển nhượng thực tế là 8.000.000đ đã được
bà L đã trả cho ông A từ năm 2000. Khi bà L đi làm thủ tục sang tên quyền sử dụng
đất, trong quá trình làm hồ sơ thì có đơn khiếu nại đến Chi nhánh văn phòng đất
đai thị xã NL với nội dung thửa đất trên là của gia đình bố đẻ ông A. Do đó Chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã NL không làm thủ tục sang tên cho bà với
lý do đất hiện nay đang có tranh chấp. Do đó, bà Trần Thị L khởi kiện yêu cầu ông
Nguyễn Đình A phải tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất đã ký đối với thửa đất số 1 diện tích 76m
2
đất ở tại địa chỉ thôn Đ 2, xã NA,
huyện VC, tỉnh Yên Bái.
Quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình gồm: Bản sao CCCD
mang tên Trần Thị L; Bản photo CMND mang tên Nguyễn Đình A; Bản gốc giấy
bán đất ghi ngày 16/2/2002 số tiền 8.000.000đ (viết tay); Bản sao Giấy CNQSDĐ
mang tên hộ ông Nguyễn Đình A. Bản sao hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 21-3-2019; Bản sao đơn xin xác nhận ngày 19-3-2019 của Nguyễn
Đình A; Bản sao giấy xác nhận tình trạng hôn nhân của bà Trần Thị L; Bản gốc
giấy hợp đồng mua bán đất (viết tay); Bản gốc giấy mượn bìa đỏ ghi ngày 28-01-
2006; Bản photo giấy chứng nhận kết hôn giữa Nguyễn Đình A và Trần Thị E; Bản
gốc giấy bàn giao nhà và hoa màu giữa Nguyễn Ngọc A và Lê Văn T; Giấy xác
nhận thông tin nơi cư trú của ông Nguyễn Đình A ghi ngày 16-8-2021; Biên lai thu
thuế sử dụng đất phi nông nghiệp số 0020940 ngày 30-11-2023; Thông báo nộp
tiền về thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (mã thửa đất CN 03110300111) ngày 17-
8-2023.
Bị đơn ông Nguyễn Đình A trình bày: Khoảng năm 1993, bố mẹ ông mua
thửa đất của ông Lê Văn T ở thôn Đ 2, xã NA, thị xã NL với giá 4.500.000đ để
ông A làm mộc. Do ông A có vay mượn tiền của bà Trần Thị L, nhưng không trả
được, nên đến năm 2000, ông A đã chuyển nhượng cho bà L thửa đất nêu trên với
giá 8.000.000đ. Việc mua bán giữa hai người chỉ làm giấy viết tay, khi đó thửa đất
3
chỉ có Giấy CNQSDĐ thổ cư (còn gọi là bìa trắng). Đến năm 2003, Ủy ban nhân
dân huyện VC đã cấp Giấy CNQSDĐ số X 853357 ngày 15-10-2003 đối với thửa
đất số 1 diện tích 76m
2
đất ở tại địa chỉ thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái
mang tên hộ ông Nguyễn Đình A. Sau khi có Giấy CNQSDĐ ông A đã mang thế
chấp vào ngân hàng để vay tiền, đến năm 2006 thì xóa thế chấp, ông đưa Giấy
CNQSDĐ này cho bà L quản lý cho đến nay. Năm 2019 bà L yêu cầu ông lên
phòng Công chứng số 2 tỉnh Yên Bái (Nay là Văn phòng công chứng Nguyễn Minh
T) để ký kết hợp đồng chuyển nhượng, tại phòng công chứng ông đã ký vào hợp
đồng chuyển nhượng còn về nội dung thì ông không đọc do không có kính. Đến
khi bà L làm thủ tục chuyển nhượng thì Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị
xã NL không thực hiện ông Nguyễn Đình V (Em trai ông A) không đồng ý bán.
Ông A đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông và bà L đã ký từ trước đến nay vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô
hiệu. Ông A cũng thống nhất và đề nghị tòa án lấy kết quả xem xét thẩm định tại
chỗ về đất và tài sản trên đất ngày 12-5-2022 của Tòa án nhân dân thị xã NL để
tính bồi thường, hoàn trả.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đình V trình bày: Ông
V và ông Nguyễn Đình A là hai anh em ruột. Nguồn gốc thửa đất ông A chuyển
nhượng cho bà L là do bố mẹ ông mua từ năm 1993, việc ông A chuyển nhượng
đất cho bà L ông A không hỏi ý kiến ai trong gia đình, bản thân ông cũng không
biết. Đến năm 2019, bà L đến nhà ông V yêu cầu ký vào hợp đồng chuyển nhượng
đất nhưng ông V không ký vì không đồng ý, ông cũng không biết việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông A và bà L trị giá bao nhiêu tiền. Nay ông
không chấp nhận việc ông A chuyển nhượng thửa đất trên cho bà L vì đây là tài
sản do bố mẹ để lại. Vì lý do sức khỏe nên ông V xin vắng mặt tại phiên hòa giải,
phiên tòa, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Nguyễn Minh
T trình bày: ngày 21-3-2019, công chứng viên Nguyễn Minh T thuộc Phòng công
chứng số 2 tỉnh Yên Bái (nay là Văn phòng công chứng Nguyễn Minh T) đã tiếp
nhận yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên
chuyển nhượng là hộ ông Nguyễn Đình A bên nhận chuyển nhượng là bà Trần Thị
L theo Giấy CNQSDĐ số X 853357 do UBND huyện VC, tỉnh Yên Bái cấp ngày
15-10-2003 là thửa đất số 1 diện tích 76m
2
đất ở tại địa chỉ thôn Đ 2, xã NA, huyện
VC, tỉnh Yên Bái (Nay là thôn Đ 2, xã NA, thị xã NL, tỉnh Yên Bái). Sau khi kiểm
tra hồ sơ xét thấy thửa đất nêu trên có đủ điều kiện chuyển nhượng nên Phòng công
chứng số 2 tỉnh Yên Bái đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nêu trên theo số công chứng 491, quyển số 01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD chứng
nhận ngày 21-3-2019.
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn thống nhất kết quả xem
xét thẩm định tại chỗ về đất và tài sản trên đất ngày 12-5-2022 của Tòa án nhân

4
dân thị xã NL, cụ thể như sau: Thửa đất có diện tích 94,4m
2
tại thôn Đ 2, xã NA,
thị xã NL, tỉnh Yên Bái.
- Phía bắc tiếp giáp đất bà Phạm Thị X có ranh giới được xây bằng tường
gạch bavanh, kích thước 10,5m.
- Phía Tây giáp đường Nguyễn Quang B, kích thước: 8,9m
- Phía đồng giáp mương nước có bờ kè bằng đá, kích thước: 7,6m
- Phía Nam giáp đất nhà ông Nguyễn Ngọc K, kích thước: 10,1m.
Trên đất có trồng: 01 cây Mít; 03 cây Bưởi; 01 cây Đu Đủ; 11 cây Nhãn; 01
cây Xoan Đào; 02 cây Mãng Cầu; 01 cây Xoài; 05 bụi chuối.
Tại Chứng thư thẩm định giá số 08.260224.A.TA003/CTVFI ngày 11-3-
2024 của Công ty cổ phần thẩm định và đầu tư tài chính Hoa Sen xác định:
- Giá trị quyền sử dụng đất thửa đất số 1 tại thôn Đ 2, xã NA, thị xã NL, tỉnh
Yên Bái theo Giấy CNQSDĐ số X 853357 do UBND huyện VC, tỉnh Yên Bái cấp
ngày 15/10/2003 có giá trị là: 630.800.000 đồng.
- Giá trị cây trồng trên đất: 28.350.000đồng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái đã quyết định:
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 144, 147, 157, 165, 166, 271 và Điều 273 của
Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Căn cứ các Điều 117, 122, 131, 357, 468, 407, 500, 501, 502, 503 Bộ luật
Dân sự năm 2015. Điều 188 Luật đất đai 2013.
Căn cứ điểm đ khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L:
1. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã ký và công
chứng ngày 21/3/2019 cũng như các hợp đồng viết tay đã ký trước đó giữa ông
Nguyễn Đình A và bà Trần Thị L vô hiệu.
1.1 Bà Trần Thị L trả lại cho ông Nguyễn Đình A thửa đất tại thôn Đ 2, xã
NA, thị xã NL, diện tích đất theo kết quả thẩm định tại chỗ về đất và tài sản trên
đất ngày 12/5/2022 của Tòa án nhân dân thị xã NL (có sơ đồ kèm theo), các tài sản
trên đất gồm:
TT
Tài sản
Số lượng
(cây)
Đơn giá
(đồng)
Hệ số
(%)
Thành tiền
(đồng)

5
1
Cây Mít
1
1.100.000
1.100.000
2
Cây đu đủ
1
200.000
200.000
3
Cây nhãn
11
1.930.000
21.230.000
4
Cây Xoan Đào
1
30.000
30.000
5
Cây Chuối
5 (bụi)
80.000
400.000
6
Cây bưởi
3
1.100.000
3.300.000
7
Cây Mãng Cầu
2
700.000
1.400.000
8
Cây Xoài
1
690.000
690.000
TỔNG CỘNG:
28.350.000
(Bằng chữ: Hai mươi tám triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng chẵn./.)
Và Giấy CNQSDĐ số X 853357 do UBND huyện VC, tỉnh Yên Bái cấp
ngày 15/10/2003 mang tên: "hộ ông Nguyễn Đình A".
1.2 Ông Nguyễn Đình A hoàn trả cho bà Trần Thị L trị giá thửa đất và tài
sản trên đất bà Trần Thị L đã nhận chuyển nhượng của ông A là 659.150.000đ (Sáu
trăm năm mươi chín triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).
1.3 Chi phí định giá tài sản: 10.000.000đ, các bên cùng chịu chi phí định giá
tài sản ngang nhau là 5.000.000đ, bà Trần Thị L đã ứng trước chi phí định giá tài
sản 10.000.000đ, nên ông Nguyễn Đình A có trách nhiệm hoàn trả cho bà L
5.000.000đ.
Tổng cộng ông Nguyễn Đình A hoàn trả cho bà Trần Thị L số tiền là:
(659.150.000đ + 5.000.000đ) = 664.150.000đ (Sáu trăm sáu mươi tư triệu một
trăm năm mươi nghìn đồng chẵn).
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 21 tháng 5 năm 2024, nguyên đơn Trần Thị L kháng cáo không nhất
trí với quyết định của Bản án sơ thẩm; đề nghị hủy Bản án dân sự sơ thẩm số
05/2022/DS-ST ngày 13-5-2024 của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái để
xét xử lại.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
6
Nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày quá trình mua của ông Nguyễn Đình A
thửa đất tại thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái như đã trình bày tại giai
đoạn sơ thẩm. Tuy nhiên, nguyên đơn cho rằng thửa đất nêu trên là tài sản riêng
của ông Nguyễn Đình A, chứ không liên quan đến gia đình bố đẻ ông A; sau khi
nhận chuyển nhượng thì nguyên đơn đã quản lý, sử dụng thửa đất từ năm 1996 đến
nay mà không có ai phản đối hoặc có ý kiến gì. Do đó, nguyên đơn không đồng ý
với Tòa án sơ thẩm tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Trần Thị L và ông Nguyễn Đình A vô hiệu. Nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị L và ông
Nguyễn Đình A đối với thửa đất tại thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái có
hiệu lực để nguyên đơn làm thủ tục đứng tên trong Giấy CNQSDĐ. Nguyên đơn
công nhận kết quả xác định ranh giới, mốc giới, diện tich thửa đất và tài sản trên
đất tại Biên bản xem xét thẩm định, tại chỗ ngày 12-5-2022 của Tòa án nhân dân
thị xã NL là đúng sự thực; thống nhất với giá trị quyền sử dụng đất và giá trị cây
trông trên đất theo Chứng thư thẩm định giá số 08.260224.A.TA003/CTVFI ngày
11-3-2024 của Công ty cổ phần thẩm định và đầu tư tài chính Hoa Sen.
Bị đơn ông Nguyễn Đình A công nhận việc chuyển nhượng thửa đất tại thôn
Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái giữa ông A và bà L như bà L đã trình bày.
Về nguồn gốc thửa đất trên là do ông A mua của ông Lê Văn T từ năm 1993 bằng
tiền của bố, mẹ cho để ông làm mộc. Do vay nợ tiền của bà L, việc nên ông A đã
chuyển nhượng thửa đất trên cho bà L rồi chuyển về sinh sống cùng bố mẹ tại tổ
6, phường TA, thị xã NL. Đến năm 2003, xã NA, huyện VC có yêu cầu ông A kê
khai làm hồ sơ để cấp Giấy CNQSDĐ. Tại Giấy CNQSDĐ số X 853357 ngày 15-
10-2003 ghi chủ sử dụng đất là hộ ông Nguyễn Đình A thì là do UBND huyện VC
ghi như thế, ông A cũng không để ý và không biết tại sao lại ghi như thế. Về yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông A đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc theo quy
định của pháp luật. Ông A cũng công nhận kết quả xác định ranh giới, mốc giới,
diện tich thửa đất và tài sản trên đất tại Biên bản xem xét thẩm định, tại chỗ ngày
12-5-2022 của Tòa án nhân dân thị xã NL là đúng sự thực; thống nhất với giá trị
quyền sử dụng đất và giá trị cây trông trên đất theo Chứng thư thẩm định giá số
08.260224.A.TA003/CTVFI ngày 11-3-2024 của Công ty cổ phần thẩm định và
đầu tư tài chính Hoa Sen.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những
người tiến hành tố tụng và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự; kháng cáo của nguyên đơn làm trong hạn luật định nên được
xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị L;
7
giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái; đề nghị miễn án phí phúc thẩm cho
nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra công khai,
xem xét tại phiên tòa, cũng như kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử
nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn đúng hình thức, trong
hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt,
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Toà án căn cứ khoản 2 Điều 296 của Bộ luật Tố
tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên
đơn bà Trần Thị L khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Đình A thực hiện Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1 diện tích 76m
2
đất ở tại
thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái đã được cấp Giấy CNQSDĐ số X 853357
ngày 15-10-2003 mang tên hộ ông Nguyễn Đình A. Bản án sơ thẩm xác định đây
là vụ án tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã NL là đúng quy định tại khoản 3 Điều
26; Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận: năm
1996, do ông Nguyễn Đình A vay tiền của bà Trần Thị L không trả được, nên ông
A bán cho bà L 01 thửa đất có diện tích 76m
2
tại thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh
Yên Bái (Nay là xã NA, thị xã NL, tỉnh Yên Bái) với giá 8.000.000đồng. Ông A
đã nhận đủ tiền từ việc trừ vào khoản nợ tiền của bà L trước đó, bà L cũng đã tiếp
nhận sử dụng thửa đất chuyển nhượng. Đến ngày 16-02-2002, bà L và ông A đã
lập Giấy bán đất viết tay về thỏa thuận chuyển nhượng đất nêu trên. Ngày 15-10-
2003, Ủy ban nhân dân huyện VC đã cấp Giấy CNQSDĐ số X 853357 mang tên
hộ ông Nguyễn Đình A đối với thửa đất số 1 diện tích 76m
2
đất ở tại địa chỉ thôn
Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái. Ông A đã có viết tay Giấy mượn bìa đỏ ngày
28-01-2006 rồi sử dụng Giấy CNQSDĐ nêu trên để thế chấp ngân hàng vay tiền.
Sau khi xóa thế chấp, ông A đã đưa Giấy CNQSDĐ này cho bà L quản lý từ năm
2006 cho đến nay. Ngày 21-3-2019, bà L và ông A đã lập Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất tại phòng Công chứng số 2 tỉnh Yên Bái (nay là Văn phòng
công chứng Nguyễn Minh T) đối với thửa đất số 1 diện tích 76m
2
đất ở tại địa chỉ
thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái.
[4] Nguyên đơn và bị đơn đều công nhận kết quả xác định ranh giới, mốc
giới, diện tich thửa đất và tài sản trên đất tại Biên bản xem xét thẩm định, tại chỗ
8
ngày 12-5-2022 của Tòa án nhân dân thị xã NL (có sơ đồ kèm theo) là đúng sự
thực.
[5] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy:
[5.1] Về nguồn gốc của thửa đất: Tại giai đoạn sơ thẩm, ông Nguyễn Đình
A và ông Nguyễn Đình V (em trai ông A) trình bày: Năm 1993, bố mẹ ông A và
ông V mua của ông Lê Văn T thửa đất tại thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên
Bái với giá 4.500.000đ rồi để ông A làm mộc. Tuy nhiên, ông A và ông V không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lời khai này. Tại phiên tòa
phúc thẩm, ông A thừa nhận đã dùng tiền của bố, mẹ cho để mua đất của ông Lê
Văn T, khi đó trên đất chỉ có một ngôi nhà 3 gian đã cũ và hoa mầu. Lời khai này
của ông A phù hợp với Giấy giao nhà và hoa màu viết tay năm 1993 chỉ thể hiện
việc mua bán giữa hai người là ông A và ông T. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận
thửa đất tại thôn Đ 2, xã NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái là của ông Nguyễn Đình A
mua và là tài sản của ông A.
[5.2] Nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận việc mua bán đất thực hiện từ
năm 1996, do ông Nguyễn Đình A vay tiền của bà Trần Thị L, nên năm 2000 ông
A ký Giấy hợp đồng mua bán đất viết tay bán cho bà L. Ông A đã nhận đủ tiền từ
việc trừ vào khoản nợ tiền của bà L trước đó, bà L cũng đã tiếp nhận thửa đất
chuyển nhượng và sử dụng trồng cây ăn quả lâu năm từ đó đến nay. Sau đó, bà L
và ông A đã lập Giấy bán đất ngày 16-02-2002 viết tay về thỏa thuận chuyển
nhượng thửa đất nêu trên. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận ông A và bà L đã thực
hiện xong giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất tại thôn Đ 2, xã NA,
huyện VC, tỉnh Yên Bái từ năm 2000.
[5.3] Về xác định quyền sử dụng đất trong Giấy CNQSDĐ số X 853357
ngày 15-10-2003 của UBND huyện VC cấp cho hộ ông Nguyễn Đình A.
Bản án sơ thẩm xác định tại thời điểm cấp Giấy CNQSDĐ (15-10-2003) thì
hộ ông Nguyễn Đình A có 03 nhân khẩu gồm ông Nguyễn Đình Ư (Đã chết); ông
Nguyễn Đình V và ông Nguyễn Đình A, nên đất thuộc quyền sử dụng chung của
ông Ư, ông V và ông A. Tuy nhiên, văn bản số 117/CV-CAP ngày 12/12/2023 của
Công A phường TA, thị xã NL có nội dung thể hiện: Tại thời điểm ngày 15-10-
2003 thì ông Nguyễn Đình Ư đang là chủ hộ, ông V và ông A chỉ là thành viên hộ
gia đình. Như vậy, không có căn cứ để xác định rằng quyền sử dụng đất của hộ ông
Nguyễn Đình A cũng đồng thời là quyền sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Đình Ư.
Mặt khác, trong toàn bộ hồ sơ đề nghị cấp Giấy CNQSDĐ thể hiện duy nhất họ tên
ông Nguyễn Đình A. Sau khi được cấp Giấy CNQSDĐ, ông A đã viết Giấy mượn
bìa đỏ ngày 28-01-2006 cho bà L để mang đi thế chấp ngân hàng vay tiền, sau khi
xóa thế chấp, ông A đã đưa Giấy CNQSDĐ cho bà L quản lý từ năm 2006 cho đến
nay. Bà L trên thực tế đã quản lý, sử dụng thửa đất từ năm 1996 đến nay mà ông
Ư, ông V và ông A không có ý kiến phản đối. Như vậy đã đủ căn cứ xác định Giấy
CNQSDĐ số X 853357 ngày 15-10-2003 của UBND huyện VC được cấp sau khi
9
thửa đất đã được ông A chuyển nhượng cho bà L, nên ông A và những thành viên
trong gia đình ông Nguyễn Đình Ư đã không có quyền sử dụng thửa đất đó nữa.
[5.4] Xét giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn
Đình A và bà Trần Thị L thể hiện tại Giấy Hợp đồng mua bán đất viết tay năm
2000, Giấy bán đất ngày 16-02-2002 đối với thửa đất của ông A tại thôn Đ 2, xã
NA, huyện VC, tỉnh Yên Bái, không có chứng nhận của Công chứng nhà nước
hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền; đất chuyển nhượng chưa
được cấp Giấy CNQSD đất là vi phạm điều kiện chuyển nhượng, thuộc trường hợp
được hướng dẫn tại điểm a.4; a.6 tiểu mục 2.3 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10-4-2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Sau đây
ghi là Nghị quyết số 02/2004). Cũng tại điểm b tiểu mục 2.3 phần II Nghị quyết
này đã quy định:
“b.2) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm
giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục
2.3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp
Giấy CNQSDĐ hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5
Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày
01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do
vi phạm điều kiện này.
b.3) Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện
được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực
hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã
làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước
về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng”
Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Trần Thị L và ông Nguyễn
Đình A được thực hiện từ năm 2000, mặc dù có vi phạm điều kiện chuyển nhượng
như nêu ở trên, nhưng sau khi chuyển nhượng thì các bên đã thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, bà L đã nhận đất, trồng cây lâu năm, ông A đã
nhận đủ tiền và không có ý kiến gì về việc bên mua sử dụng đất; thửa đất chuyển
nhượng đã được cấp Giấy CNQSDĐ. Nên việc bà L và ông A lập Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 21-3-2019, được công chứngư tại phòng Công
chứng số 2 tỉnh Yên Bái (nay là Văn phòng công chứng Nguyễn Minh T) là nhằm
hoàn thiện về mặt thủ tục chuyển nhượng theo đúng quy định của pháp luật. Do
đó, Tòa án cần công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà
Trần Thị L và ông Nguyễn Đình A có hiệu lực.
[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy việc Bản án sơ thẩm
tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà L và ông A vô hiệu
và giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu là không đúng quy định của pháp luật. Do
đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa,
10
đồng thời chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để sửa Bản án sơ thẩm theo
hướng công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị
L và ông Nguyễn Đình A có hiệu lực. Bà Trần Thị L có quyền sử dụng đối với
thửa đất có diện tích 94,4m
2
đất ở nông thôn tại thôn Đ 2, xã NA, thị xã NL, tỉnh
Yên Bái (Trong đó có 76m
2
đã được cấp Giấy CNQSDĐ số X 853357 ngày 15-10-
2003 mang tên hộ ông Nguyễn Đình A).
[7] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận, nên bị đơn Nguyễn Đình A phải chịu toàn bộ chi phí định giá tại chỗ là
10.000.000đ (Mười triệu đồng). Do bà Trần Thị L đã ứng trước toàn bộ chi phí
định giá, nên ông Nguyễn Đình A có trách nhiệm hoàn trả cho bà L 10.000.000đ
[8] Về án phí: Nguyên đơn không phải chịu án phí. Bị đơn thuộc diện hộ
nghèo nên được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày
30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án,
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2022/DS-ST ngày 13 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái như sau:
Căn cứ vào điểm đ khoản 1, khoản 2 Điều 132; điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ
luật Dân sự năm 2015; Điều 105, khoản 1 Điều 106 Luật đất đai năm 2003; khoản
3 Điều 26, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L như sau:
- Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị
L và ông Nguyễn Đình A ngày 21-3-2019 có hiệu lực.
- Bà Bà Trần Thị L có quyền sử dụng đối với thửa đất có diện tích 94,4m
2
đất ở nông thôn tại thôn Đ 2, xã NA, thị xã NL, tỉnh Yên Bái (Trong đó có 76m
2
đã được cấp Giấy CNQSDĐ số X 853357 ngày 15-10-2003 mang tên hộ ông
Nguyễn Đình A). Có sơ đồ thửa đất kèm theo.
2. Về chi phí tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Đình A có nghĩa vụ hoàn trả chi
phí định giá cho bà Trần Thị L là 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi xuất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015.
11
3. Về án phí:
- Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự.
- Bị đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yên cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân
sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- TAND cấp cao tại Hà Nội; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Yên Bái;
- TAND Tx NL;
- VKSND Tx NL; (Đã ký)
- Chi cục THADS Tx NL;
- Đương sự (4);
- Lưu: HCTP; Hsơ vụ án;
Nguyễn Trung Dũng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm