Bản án số 1182/2024/HC-PT ngày 01/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1182/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1182/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1182/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1182/2024/HC-PT ngày 01/11/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1182/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/11/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị B, bà Trần Thị M và ông Trần Hùng M1. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 97/2024/HC-ST ngày 05 tháng 4 năm 2024 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1182/2024/HC-PT
Ngày 01 tháng 11 năm 2024.
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi
thường giải phóng mặt bằng”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Xuân Thành
Các Thẩm phán: Ông Hà Huy Cầu
Ông Lê Thành Long
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Phạm Công Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 01 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý
số 550/2024/TLPT-HC ngày 24 tháng 6 năm 204 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về bồi thường giải phóng mặt bằng”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 97/2024/HC-ST ngày 05 tháng 4 năm
2024 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3275/2024/QĐPT-HC
ngày 15 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 1972 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A, đường D, KDC N, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quang Đ, sinh năm: 1973.
Địa chỉ: Số A đường D, KDC N, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
(có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Phạm Văn V – Văn
phòng Luật sư Công dân và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
Địa chỉ: Số C, Đường số E, KĐT V, phường H, thành phố T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Người bị kiện:
2
1/ Ủy ban nhân dân Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin
vắng mặt).
2/ Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có
đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: A T, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
- Ông Hồ Thanh P – Phó Trưởng Ban bồi thường giải phóng mặt bằng thành
phố T (có đơn xin vắng mặt);
- Ông Nguyễn Tấn T – Phó Chánh Thanh tra xây dựng thành phố T (có đơn
xin vắng mặt);
- Ông Nguyễn Minh V1 – Cán sự Thanh tra xây dựng thành phố T (có mặt);
- Ông Trương Văn T1 – Phó trưởng phòng Tiếp dân TTVĐ & GQKNTC
thuộc Ban bồi thường giải phóng mặt bằng thành phố T (có mặt);
- Ông Huỳnh T2 – Nhân viên Ban bồi thường giải phóng mặt bằng thành
phố T (có mặt).
3/ Ủy ban nhân dân Thành phố H (vắng mặt).
Địa chỉ: H, L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Trần Thị N, sinh năm: 1964 (có mặt).
Địa chỉ : Số A Tỉnh lộ 43, khu phố B, phường B, thành phố T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà N: Bà Bùi Thị Bích V2, sinh năm:
1964 (vắng mặt).
Địa chỉ thường trú: 9 N, Phường C, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: 25A, đường L, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh.
2/ Bà Trần Thị M, sinh năm: 1968 (có mặt).
Địa chỉ: Số B C, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: C1103, Chung cư S, số B, Đường A, phường T, thành phố
T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà M: Luật sư Phạm Văn V
– Văn phòng Luật sư Công dân và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (có
mặt).
3/ Ông Trần Hùng M1, sinh năm: 1964 (vắng mặt).
Địa chỉ thường trú: 31 N, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: C1103, Chung cư S, số B, Đường A, phường T, thành phố
T, Thành phố Hồ Chí Minh.
3
Người đại diện theo ủy quyền của ông M1: Bà Trần Thị M, sinh năm:
1968 (có mặt).
Địa chỉ: Số B C, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: C1103, Chung cư S, số B, Đường A, phường T, thành phố
T, Thành phố Hồ Chí Minh.
4/ Ông Vũ Viết H (đã chết).
Người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông H:
- Ông Vũ Ngọc H1, sinh năm: 1958 (vắng mặt);
Địa chỉ: E Đường số B, khu phố F, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh. Vắng mặt.
- Bà Vũ Thu H2, sinh năm: 1978 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số A, Khóm A, Phường A, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H1, bà H2: Bà Trần Thị M, sinh
năm: 1968 (có mặt).
Địa chỉ: Số B C, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: C1103, Chung cư S, số B, Đường A, phường T, thành phố
T, Thành phố Hồ Chí Minh.
5/ Ông Nguyễn Quang Đ, sinh năm: 1973 (có mặt).
Địa chỉ: Số A đường D, KDC N, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị B, bà Trần Thị M, ông Trần Hùng M1.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm nội dung vụ án như sau:
* Theo đơn khởi kiện ngày 03/02/2021, các đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung,
bản tự khai và tại phiên tòa, người khởi kiện bà Nguyễn Thị B có ông Nguyễn
Quang Đ đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 8/4/2002, bà Nguyễn Thị B cùng với bà Trần Thị N, bà Trần Thị M
có nhận chuyển nhượng của ông Phạm Công T3 lô đất diện tích 812m
2
đường L
thuộc một phần thửa 1024, 1025, tờ bản đồ số 03, phường T, Quận I, Thành phố
Hồ Chí Minh, trong đó, phần diện tích bà B mua riêng là 164m
2
.
Do bà N, bà M không có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh, nên đã nhờ
ông Trần Hùng M1 đứng tên hộ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày
15/4/2002, Ủy ban nhân dân Quận I đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số vào sổ 00394QSDĐ/TNPA cho ông Trần Hùng M1.
Trong quá trình các bên liên quan đang thực hiện các thủ tục xin chuyển
mục đích sử dụng đất và tách thửa theo quy định pháp luật thì Ủy ban nhân dân
Quận I (nay là Ủy ban nhân dân thành phố T) ban hành quyết định thu hồi đất để
thực hiện dự án khu công nghệ cao. Ngày 22/5/2007 ông Trần Hùng M1 có đơn
4
cam kết không tranh chấp đối với phần đất mà ông M1 đứng tên hộ cho bà B, bà
N và ông H (thay cho bà M) và được Ủy ban nhân dân phường T xác nhận ngày
25/5/2007.
Ngày 14/5/2009, bà B nhận được Quyết định số 716/QĐ – U do Ủy ban
nhân dân Quận I ban hành ngày 16/4/2009 về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ
trợ cho hộ bà B diện tích 164m2 với giá đền bù là 200.000 đồng/m2. Không đồng
ý nên bà B khiếu nại Quyết định 716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009. Tháng
8/2010 bà B nhận được Quyết định số 411/QĐ-U do Ủy ban nhân dân Quận I ban
hành ngày 27/7/2010 về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 716/QĐ-UBND-
BBT ngày 16/4/2009 với lý do ban hành quyết định bồi thường không đúng đối
tượng sử dụng đất. Bà B tiếp tục khiếu nại cả hai quyết định trên.
Ngày 01/10/2019, Ban bồi thường giải phóng mặt bằng Quận I trả lời bà B
bằng Công văn số 476/BBT và cung cấp thêm cho bà B Quyết định số 410/QĐ-
UBND ngày 18/04/2014 của I về việc công bố giá trị bồi thường vật kiến trúc của
bà B.
Bà B liên hệ với ông M1 và được biết ông có nhận Quyết định số 2380/QD-
UBND-BBT của I ngày 30/11/2011 về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ và
tái đinh cư đối với việc thu hồi toàn bộ diện tích 812m
2
thuộc thửa 1024,1025 tờ
bản đồ số 03; trong đó có phần diện tích 164m2 thuộc quyền quản lý, sử dụng của
bà B, Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 về việc điều chỉnh Điều 1
Quyết định số 2380/QĐ-UBND-BBT và Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày
25/12/2014 về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Trần Hùng M1, nhưng ông cho
rằng ông không liên quan và không có quyền lợi gì nên không có ý kiến và cũng
không giao lại hay thông báo cho bà B biết.
Bà B cho rằng toàn bộ khu đất có diện tích 812m
2
thuộc thửa 1024, 1025 tờ
bản đồ số 03 phường T, thành phố T không được xác định vị trí là thuộc dự án
nào trong khu công nghệ cao, nên Ủy ban nhân dân Quận I ban hành các quyết
định bồi thường là không có căn cứ và không đúng quy định pháp luật. Trên cùng
một thửa đất, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành nhiều quyết định thu hồi, bồi
thường, hỗ trợ cho nhiều chủ thể sử dụng đất khác nhau, nội dung quyết định ban
hành không đúng đối tượng là người quản lý, sử dụng đất, mặc dù hồ sơ thu hồi
đất đã thể hiện rõ chủ sử dụng đất là bà B. Hiện nay khu đất của bà B đang bị bỏ
hoang, chưa đưa vào sử dụng cho bất kì dự án nào, hay mục đích sử dụng đất nào
khác, vì vậy bà B khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
hủy các quyết định:
- Quyết định số 716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận I về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ của hộ bà Nguyễn Thị
B;
- Quyết định số 411/QĐ-UBND-BBT ngày 27/7/2010 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận I về việc ban hành Quyết định thu hồi và hủy bỏ Quyết định số
716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009;
5
- Quyết định số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày 30/11/2011 của Ủy ban nhân
dân Quận I về việc Công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của ông Trần
Hùng M1;
- Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 của Ủy ban nhân dân Quận
I về việc công bố giá trị bồi thường vật kiến trúc của bà Nguyễn Thị B;
- Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 của Ủy ban nhân dân Quận
I về việc điều chỉnh Điều 1 Quyết định số số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày
30/11/2011 của Ủy ban nhân dân Quận I;
- Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận I về cưỡng chế thu hồi đất;
- Quyết định số 1651/QĐ-UBND ngày 11/5/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố T về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị B (lần đầu).
- Quyết định số 425/QĐ-UBND ngày 28/8/2020 của Ủy ban nhân dân Quận
I về việc bồi thường bổ sung cho ông Trần Hùng M1.
- Một phần Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2020 của
Ủy ban nhân dân Thành phố H về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ sung đối với 49
trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao Thành phố, Quận I
theo kết luận của Thanh tra Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ tướng
Thường trực Trương Hòa B1 tại Thông báo số 370/TB-VPCP ngày 17 tháng 8
năm 2017 của Văn phòng Chính phủ
Đồng thời thực hiện các thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư theo đúng quy định. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bà B đồng
ý để ông Trần Hùng M1 đứng tên toàn bộ hồ sơ bồi thường theo, bao gồm cả phần
của bà N, đồng ý để ông M1 phân chia giá trị bồi thường theo tỷ lệ đất của từng
người và xin rút yêu cầu hủy một phần Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18
tháng 02 năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố H.
* Người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố T, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
T tại văn bản số 3713/UBND-BBT ngày 09/6/2021, văn bản số 3006/UBND-BBT
ngày 23/5/2022 có ý kiến như sau:
Phần nhà, đất diện tích 812m
2
tọa lạc tại vị trí thuộc thửa 1024, 1025 tờ bản
đồ số 03 (theo tài liệu 02/CT-UB) tại phường T đã được Ủy ban nhân dân Quận I
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R957974 cho hộ ông Trần Hùng M1
nằm trong phạm vi giải tỏa dự án đầu tư xây dựng Khu Công nghệ cao tại Quận
I, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, phần đất diện tích 164m
2
thuộc một phần
thửa 1024, 1025 tờ bản đồ số 03 (theo tài liệu 02/CT-UB) tại phường T có nguồn
gốc do ông Trần Hùng M1 sang nhượng lại bằng giấy tự lập cho bà Nguyễn Thị
B. Ngày 16/4/2009 Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số
716/QĐ-U về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ cho hộ bà Nguyễn Thị B kèm
Bảng tính giá trị bồi thường ngày 08 tháng 4 năm 2009.
Ngày 27/7/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định
số 411/QĐ-U về việc thu hồi Quyết định số 716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009
6
của Ủy ban nhân dân Quận I với Lý do: Ban hành quyết định bồi thường không
đúng đối tượng sử dụng đất”.
Ngày 30/11/2011, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số
2380/QĐ-U về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông Trần
Hùng M1 kèm Bảng tính giá trị bồi thường, hỗ trợ cùng ngày.
Ngày 14/3/2014, Hội đồng xét nguồn gốc đất phường T đã họp và trích kết
luận: “Thống nhất nguồn gốc: Bồi thường toàn bộ phần đất diện tích 812m
2
đã
được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số R957974 ngày 15/4/2002 cho hộ ông Trần
Hùng M1.
- Phần vật kiến trúc và cây trồng tách theo biên bản kiểm kê số 333/BBKK
ngày 28/3/2003 cho hộ bà Trần Thị N, Biên bản kiểm kê ngày 28/3/2003 cho hộ
Vũ Viết H và biên bản kiểm kê số 333/BBKK ngày 28/3/2003 cho hộ bà Nguyễn
Thị B......”. Ngày 18 tháng 4 năm 2014, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết
định số 410/QĐ-UBND về việc công bố giá trị bồi thường, kiến trúc của bà
Nguyễn Thị B kèm Bảng tính giá trị bồi thường, hỗ trợ ngày 08 tháng 4 năm 2014
là đúng quy định.
Ngày 18 tháng 4 năm 2014, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định
số 222/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Điều 1 Quyết định số 2380/QĐ-UBND-
BBT.
Do ông M1 không chấp hành thông báo tháo dỡ vật kiến trúc, cây trồng bàn
giao mặt bằng cho Ban quản lý dự án Khu Công nghệ cao nên ngày 25/12/2014
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số 232/QĐ-UBND về việc
cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Trần Hùng M1 và đã thực hiện công tác
cưỡng chế thu hồi đất vào ngày 27/3/2015.
Từ những cơ sở trên, việc Ủy ban nhân dân Quận I (nay là thành phố T)
ban hành các Quyết định: Quyết định số 716/QĐ-U ngày 16 tháng 4 năm 2009,
Quyết định số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày 30 tháng 11 năm 2011, Quyết định số
410/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2014, Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày
18 tháng 4 năm 2014 của Ủy ban nhân dân Quận I (nay là thành phố T) và Quyết
định số 411/QĐ-UBND-BBT ngày 27 tháng 7 năm 2010, Quyết định số 232/QĐ-
UBND ngày 25 tháng 12 năm 2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận I (nay là
thành phố T) là đúng theo trình tự, thủ tục, chính sách và phù hợp quy định của
pháp luật.
Không đồng ý với Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 của Ủy
ban nhân dân Quận I (nay là thành phố T), bà Nguyễn Thị B đã khiếu nại. Ngày
11/5/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số
1651/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị B.
Bà B yêu cầu hủy Quyết định số 1651/QĐ-UBND ngày 11 tháng 5 năm
2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T là không có cơ sở vì: Phần diện
tích 164m
2
bà Nguyễn Thị B yêu cầu kiểm kê bồi thường, đã được Ủy ban nhân
dân Quận I cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số R957974 ngày 15 tháng
4 năm 2002 cho hộ ông Trần Hùng M1 nên việc bà Nguyễn Thị B yêu cầu bồi
7
thường phần đất diện tích 164m
2
riêng cho bà là không có cơ sở xem xét giải
quyết. Mặt khác, căn cứ Bảng quy định bồi thường kèm theo Quyết định 121/QĐ-
UB ngày 01 tháng 11 năm 2002 của Ủy ban nhân dân Thành phố H về việc ban
hành quy định về đền bù, hỗ trợ thiệt hại và tái định cư trong khu quy hoạch xây
dựng Khu công nghệ cao thành phố tại Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh thì trường
hợp của bà Nguyễn Thị B chỉ được bồi thường vật kiến trúc, không được giải
quyết các chính sách hỗ trợ và tái định cư. Từ những nhận định và căn cứ nêu
trên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định giải quyết khiếu
nại số 1651/QĐ-UBND ngày 11 tháng 5 năm 2021 đối với bà Nguyễn Thị B là
đúng theo quy định của pháp luật
Các Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 09/7/2020 của Ủy ban nhân dân
Quận I, Quyết định số 111/QĐ-UBND ngày 09/7/2020, Quyết định 6469/QĐ-
UBND ngày 09/9/2022, Quyết định số 5281/QĐ-UBND ngày 17/5/2023 của Ủy
ban nhân dân thành phố T đối với hồ sơ bồi thường của bà Trần Thị N là đúng
quy định của pháp luật và dựa theo Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18 tháng
02 năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố H về phê duyệt chính sách hỗ trợ
bổ sung đối với 49 trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao
Thành phố, Quận I theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, do đó Ủy ban nhân dân
thành phố T không chấp nhận yêu cầu của ông M1.
Ủy ban nhân dân thành phố T, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T đề
nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Thị B và ông Trần Hùng
M1.
* Người bị kiện Ủy ban nhân dân Thành phố H vắng mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là ông Trần
Hùng M1 có bà Trần Thị M là người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ông M1 là người đứng tên quyền sử dụng đất thay cho bà Nguyễn Thị B,
Trần Thị N, Trần Thị M đối với phần đất tại phường T, Quận I, theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số sổ 00394 QSDĐ/TNP do Ủy ban nhân dân Quận I cấp
ngày 15/4/2002. Phần đất này bị thu hồi trong dự án đầu tư xây dựng khu C, tại
phường T, Quận I (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 20/6/2012, tại Phòng C2, Thành phố Hồ Chí Minh ông M1 có lập hợp
đồng ủy quyền số 115099 quyển 9 cho bà Trần Thị N được quyền thay mặt nhân
danh bên A liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để lập thủ tục và nộp đơn khiếu
nại hoặc khởi kiện các quyết định hành chính. Được liên hệ với cơ quan chức năng
để tiến hành các thủ tục về các hành vi đã được ủy quyền, được tham dự các buổi
giải quyết khiếu nại hành chính, giải quyết, hòa giải, xét xử của Tòa án và trình
bày các yêu cầu, xuất trình chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên A.
Trong biên bản làm việc với đoàn thanh tra chính phủ theo Quyết định số
1760/QĐ -TTCP, số 86/BB-ĐTTr, bà Trần Thị N có mặt (theo giấy ủy quyền của
ông), đã khai khống: “Vào ngày 18/3/2002, ông M1 có làm giấy tay bán diện tích
8
812m2 đất cho bà N”, sau đó bà N lại yêu cầu lập hồ sơ bồi thường cho bà N
nhưng thực tế ông không bán đất cho bà N.
Ngày 09/7/2020, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số 134/QĐ-
UBND giải quyết chính sách bồi thường hỗ trợ bổ sung đối với 49 trường hợp có
tính chất đặc thù tại dự án khu công nghệ cao Quận I nhưng không có tên ông M1
mà lại là tên bà Trần Thị N là không đúng đối tượng.
Qua tìm hiểu, ông M1 được biết việc Ủy ban nhân dân Quận I ban hành
Quyết định nêu trên cho bà N là do thực hiện theo Quyết định số 564/QĐ-UBND
ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố H. Do đó, ông có
đơn yêu cầu độc lập, yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
- Hủy một phần Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2020
của Ủy ban nhân dân Thành phố H về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ sung đối
với 49 trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao Thành phố,
Quận I theo kết luận của Thanh tra Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ
tướng Thường trực Trương Hòa B1 tại Thông báo số 370/TB-VPCP ngày 17
tháng 8 năm 2017 của Văn phòng C1;
- Hủy Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy
ban nhân dân Quận I về việc điều chỉnh Quyết định số 1326/QĐ-UBND-BBT
ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I;
- Hủy Quyết định số 111/QĐ-UBND ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy
ban nhân dân Quận I về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 543/QĐ-UBND-
TTr ngày 26 tháng 12 năm 2006; Quyết định số 429/QĐ-UBND-BBT ngày 01
tháng 8 năm 2007 và Quyết định số 404/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2014
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I;
- Hủy Quyết định số 6469/QĐ-UBND ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân thành phố T về bố trí tái định cư nền đất đối với hộ bà Trần Thị
Ngọc T4 dự án đầu tư xây dựng Khu công nghệ cao;
- Hủy Quyết định số 5281/QĐ-UBND ngày 17 tháng 5 năm 2023 của Ủy
ban nhân dân thành phố T về việc thu hồi giá trị bồi thường, hỗ trợ của diện tích
466m2 đất trồng cây hàng năm thuộc một phần thửa 1025 tờ bản đồ số 3 theo
TL02/CT-UB tại phường T, thành phố T đối với hộ ông Trần Hùng M1 trong dự
án Khu C.
Để ông M1 được đứng tên hồ sơ bồi thường, nhưng không phải để hưởng
lợi cho cá nhân ông mà sẽ phân chia lại giá trị bồi thường cho bà M, bà B, bà N
một cách công bằng.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị M trình bày:
Bà cùng bà Nguyễn Thị B và bà Trần Thị N có mua chung một mảnh đất
nông nghiệp 812m
2
của ông Phạm Công T3 tại đường L, phường T, Quận I, Thành
phố Hồ Chí Minh. Trong đó phần diện tích đất của bà là 182m
2
nhưng ban đầu để
ông Vũ Viết H đứng tên giùm, sau đó bà đã nhận lại và làm hồ sơ bồi thường. Cả
ba bà cùng thống nhất nhờ anh bà là ông Trần Hùng M1 đứng tên giùm trong hợp
đồng mua bán quyền sử dụng đất lập tại phường T vào ngày 20/12/2001, đến ngày
9
15/4/2002 được Ủy ban nhân dân Quận I cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên Trần Hùng M1. Có bản đồ hiện trạng vị trí vẽ ngày 17/02/2002 công ty
TNHH T8.
Năm 2002, Ủy ban nhân dân Thành phố H thu hồi và giao đất xây dựng
khu công nghệ cao Thành phố thì bà, bà N và bà B đều kê khai đền bù và được
Ủy ban nhân dân Quận I ra quyết định bồi thường. Năm 2007, Ủy ban nhân dân
Quận I đã ban hành quyết định thu hồi và hủy bỏ quyết định với lý do: Ban hành
quyết định bồi thường không đúng đối tượng sử dụng đất và đã ra quyết định trả
về đúng chủ sử dụng hợp pháp là ông Trần Hùng M1. Ngày 20/6/2012 bà, bà N
và bà B cùng thống nhất nhờ ông M1 lập hợp đồng ủy quyền cho bà N và chị bà
là Trần Thị Ánh T5 (đại diện cho bà) đi khiếu kiện, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp theo tên ông M1 theo tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi
được đền bù sẽ chia theo tỷ lệ cho mỗi người, bà N trực tiếp đi khiếu nại, còn bà
và bà B sẽ góp tiền. Tuy nhiên, khi có kết quả thì Ủy ban nhân dân Quận I ban
hành Quyết định cho bà N được nhận bồi thường theo chính sách hỗ trợ bổ sung
đối với 49 trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao, Quận I
là không đúng.
Bà đồng ý để ông Trần Hùng M1 đứng tên trong hồ sơ bồi thường, bà và
bà N, bà B sẽ tự thương thảo với nhau sau khi có quyết định của Tòa án.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Vũ Viết H đã chết có 02
người con là Vũ Ngọc H1, Vũ Thu H2 ủy quyền cho bà Trần Thị M làm người
đại diện trình bày: Ông H chỉ đứng tên giùm để làm hồ sơ bồi thường và khiếu
nại đối với phần đất 182m2 bà M nhận chuyển nhượng từ ông T3, nhưng sau đó
đã giao trả lại cho bà M và không có ý kiến hoặc yêu cầu gì.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Quang Đ trình bày:
Ông là chồng của bà Nguyễn Thị B. Ông thống nhất với ý kiến và yêu cầu của bà
B.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị N trình bày: Bà
cùng với bà B, bà M nhận chuyển nhượng phần đất diện tích 812m
2
tại phường T
của ông Phạm Công T3, do bà và bà M không có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí
Minh nên đã nhờ ông Trần Hùng M1 đứng tên giấy tờ mua của ông T3, đăng ký
và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00394QSDĐ/TNP do Ủy ban
nhân dân quận I cấp ngày 15/4/2002, trong đó phần của bà là 466m
2
. Bà cùng bà
M và bà B đã xác định vị trí, nhận đất và tự quản lý sử dụng. Trên phần đất của
mình, tháng 3/2002 bà đã xây dựng 01 căn nhà để sử dụng. Khi nhà đất của bà bị
thông báo thuộc quy hoạch khu công nghệ cao thì bà đã trực tiếp đi khiếu nại tại
các cơ quan Trung ương và đã được Thanh tra Chính phủ xác định là trường hợp
đặc thù, Ủy ban nhân dân Thành phố H chấp thuận cho hưởng bồi thường tại
Quyết định 564/QĐ-UBND ngày 18/02/2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố H.
Bà thừa nhận có nhận ủy quyền của ông M1 để đi khiếu nại nhưng việc chấp nhận
là của cơ quan chức năng, nhưng bà cũng khiếu nại với tư cách riêng, ký đơn tố
cáo với tư cách cá nhân và đã được hưởng các chính sách bồi thường, hỗ trợ tái
định cư đối với phần đất mình sử dung theo đúng quy định của pháp luật. Bà
10
không đồng ý với yêu cầu của ông M1 về yêu cầu hủy một phần Quyết định số
564/QĐ-UBND ngày 18/02/2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố H và yêu cầu
hủy các quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 09/7/2020, Quyết định số 111/QĐ-
UBND ngày 09/7/2020 của Ủy ban nhân dân Quận I, Quyết định 6469/QĐ-UBND
ngày 09/9/2022, Quyết định số 5281/QĐ-UBND ngày 17/5/2023 của Ủy ban nhân
dân thành phố T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 97/2024/HC-ST ngày 05 tháng 4 năm
2024 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
- Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 60, Điều 116, Điều 157, Điều 158, Điều
173, Điều 187, Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính 2015;
- Căn cứ Luật Đấ đai năm 2003;
- Căn cứ Điều 66, Điều 67, Điều 71 Luật Đất đai năm 2013;
- Căn cứ Luật khiếu nại năm 2011;
- Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ
Tuyên xử:
1.Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B về yêu cầu hủy
một phần Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Ủy ban
nhân dân Thành phố H về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ sung đối với 49 trường
hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao Thành phố, Quận I theo
kết luận của Thanh tra Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường
trực Trương Hòa B1 tại Thông báo số 370/TB-VPCP ngày 17 tháng 8 năm 2017
của Văn phòng C1.
2.Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B về việc yêu cầu hủy
các Quyết định số:
- Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 của Ủy ban nhân dân Quận
I về việc công bố giá trị bồi thường vật kiến trúc của bà Nguyễn Thị B;
- Quyết định số 716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận I về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ của hộ bà Nguyễn Thị
B;
- Quyết định số 411/QĐ-UBND-BBT ngày 27/7/2010 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận I về việc ban hành quyết định thu hồi và hủy bỏ Quyết định số
716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009;
- Quyết định số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày 30/11/2011 của Ủy ban nhân
dân Quận I về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của ông Trần
Hùng M1;
11
- Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 18/04/2014 của Ủy ban nhân dân
Quận I về việc điều chỉnh Điều 1 Quyết định số số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày
30/11/2011;
- Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận I về cưỡng chế thu hồi đất;
- Quyết định số 1651/QĐ-UBND ngày 11/5/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố T về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị B (lần đầu);
- Quyết định số 425/QĐ-UBND ngày 28/8/2020 của Ủy ban nhân dân Quận
I về việc bổ sung giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ ông Trần
Hùng M1.
3. Bác toàn bộ yêu cầu độc lập của ông Trần Hùng M1 về việc yêu cầu hủy
các Quyết định số:
- Một phần Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2020 của
Ủy ban nhân dân Thành phố H về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ sung đối với 49
trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao Thành phố, Quận
I theo kết luận của Thanh tra Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ tướng
Thường trực Trương Hòa B1 tại Thông báo số 370/TB-VPCP ngày 17 tháng 8
năm 2017 của Văn phòng C1;
- Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy ban
nhân dân Quận I về việc điều chỉnh Quyết định số 1326/QĐ-UBND-BBT ngày 11
tháng 7 năm 2005 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I;
- Quyết định số 111/QĐ-UBND ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy ban
nhân dân Quận I về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 543/QĐ-UBND-TTr
ngày 26 tháng 12 năm 2006; Quyết định số 429/QĐ-UBND-BBT ngày 01 tháng
8 năm 2007 và Quyết định số 404/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2014 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân Quận I;
- Quyết định số 6469/QĐ-UBND ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Ủy ban
nhân dân thành phố T về bố trí tái định cư nền đất đối với hộ bà Trần Thị Ngọc
T4 dự án đầu tư xây dựng Khu công nghệ cao;
- Quyết định số 5281/QĐ-UBND ngày 17 tháng 5 năm 2023 của Ủy ban
nhân dân thành phố T về việc thu hồi giá trị bồi thường, hỗ trợ của diện tích
466m2 đất trồng cây hàng năm thuộc một phần thửa 1025 tờ bản đồ số 3 theo
TL02/CT-UB tại phường T, thành phố T đối với hộ ông Trần Hùng M1 trong dự
án Khu C.
Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm trọng hạn luật định bà Nguyễn Thị B, Trần Thị M
và ông Trần Hùng M1 kháng cáo Bản án cùng nội dung; Đề nghị Toà án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện và của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
12
Tại phiên tòa phúc thẩm người khởi kiện vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện,
các đương sự không đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án, người kháng cáo
vẫn giữ nguyên đơn kháng cáo.
Trong phần phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đại diện Viện
Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ý kiến: Thẩm phán - Chủ
tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng
hành chính. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền nghĩa vụ của mình. Về nội
dung vụ án; Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của người
kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, lời trình bày của các
đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan, toàn
diện và đầy đủ chứng cứ Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Bà Nguyễn Thị B khởi kiện các quyết định: Quyết định số 716/QĐ-
UBND-BBT ngày 16/4/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I về việc công
bố giá trị bồi thường, hỗ trợ của hộ bà Nguyễn Thị B; Quyết định số 411/QĐ-
UBND-BBT ngày 27/7/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I về việc ban
hành Quyết định thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 716/QĐ-UBND-BBT ngày
16/4/2009; Quyết định số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày 30/11/2011 của Ủy ban
nhân dân Quận I về việc Công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của ông
Trần Hùng M1; Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 của Ủy ban nhân
dân Quận I về việc công bố giá trị bồi thường vật kiến trúc của bà Nguyễn Thị B;
Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 18/04/2014 của Ủy ban nhân dân Quận I về
việc điều chỉnh Điều 1 Quyết định số số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày 30/11/2011
của Ủy ban nhân dân Quận I; Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I về cưỡng chế thu hồi đất; Quyết định số
1651/QĐ-UBND ngày 11/5/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T về
việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị B (lần đầu); Quyết định số 425/QĐ-
UBND ngày 28/8/2020 của Ủy ban nhân dân Quận I về việc bồi thường bổ sung
cho ông Trần Hùng M1 để bồi thường cho bà B theo đúng pháp luật.
Ông Trần Hùng M1 khởi kiện các quyết định: Một phần Quyết định số
564/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Ủy ban nhân dân Thành phố H
về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ sung đối với 49 trường hợp có tính chất đặc thù
tại Dự án Khu công nghệ cao Thành phố, Quận I theo kết luận của Thanh tra
Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa B1
tại Thông báo số 370/TB-VPCP ngày 17 tháng 8 năm 2017 của Văn phòng C1;
Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy ban nhân dân
Quận I về việc điều chỉnh Quyết định số 1326/QĐ-UBND-BBT ngày 11 tháng 7
năm 2005 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I; Quyết định số 111/QĐ-UBND
ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy ban nhân dân Quận I về việc thu hồi và hủy bỏ
Quyết định số 543/QĐ-UBND-TTr ngày 26 tháng 12 năm 2006; Quyết định số
429/QĐ-UBND-BBT ngày 01 tháng 8 năm 2007 và Quyết định số 404/QĐ-
UBND ngày 18 tháng 4 năm 2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I; Quyết
13
định số 6469/QĐ-UBND ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Ủy ban nhân dân thành
phố T về bố trí tái định cư nền đất đối với hộ bà Trần Thị Ngọc T4 dự án đầu tư
xây dựng Khu công nghệ cao; Quyết định số 5281/QĐ-UBND ngày 17 tháng 5
năm 2023 của Ủy ban nhân dân thành phố T về việc thu hồi giá trị bồi thường, hỗ
trợ của diện tích 466m
2
đất trồng cây hàng năm thuộc một phần thửa 1025 tờ bản
đồ số 3 theo TL02/CT-UB tại phường T, thành phố T đối với hộ ông Trần Hùng
M1 trong dự án Khu C để bồi thường cho ông Trần Hùng M1.
[2] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị B, Trần Thị M và ông Trần Hùng
M1, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về nguồn gốc diện tích đất 812m
2
thuộc một phần thửa 1024, 1025,
tờ bản đồ số 03, phường T, thành phố T.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, và lời thừa nhận của
các đương sự, có đủ căn cứ để xác định đất có nguồn gốc của ông Phạm Công T3
chuyển nhượng lại bằng giấy viết tay cho các bà Nguyễn Thị B, Trần Thị N, Trần
Thị M.Trong đó, phần diện tích đất bà B nhận chuyển nhượng riêng là 164m² theo
Hợp đồng chuyển nhượng đất viết giấy tay ngày 08 tháng 04 năm 2002, bà N
466m
2
và bà M 182m
2
(ban đầu để ông Vũ Viết H đứng tên). Do bà M, bà N
không có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh nên cả ba thống nhất nhờ ông Trần
Hùng M1 (là anh của bà M) đứng tên giùm trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và được ông M1 xác nhận tại Ủy ban nhân dân phường T ngày 25/5/2007.
Ngày 15/04/2002, Ủy ban nhân dân Quận I (nay là UBND thành phố T) cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, số vào sổ 00394 QSDĐ/TNP mang tên ông Trần
Hùng M1.
Sau khi UBND thành phố T ban hành các quyết định về thu hồi, bồi thường
về đất thì ông Trần Hùng M1 có đơn cam kết ngày 22/5/2007 có nội dung cam
kết không tranh chấp đối với đất mà ông M1 đứng tên giùm (BL 272). Ngày 26
tháng 7 năm 2011 ông M1 tiếp tục có đơn yêu cầu thừa nhận đất đứng tên giùm,
nếu nhà nước có nhu cầu trưng dụng thì liên hệ với các em của ông M1 vợ chồng
ông M1 không có quyền lợi liên quan gì (BL262).
[2.2] Xét kháng cáo của ông M1, bà M, bà B cho rằng việc UBND thành
phố T ra quyết định bồi thường cho hộ bà N đối với diện tích đất 466m
2
là không
đúng; Hội đồng xét xử thấy rằng:
Trong diện tích đất 812m
2
mà bà M, bà N, bà B nhận chuyển nhượng từ
ông T3 và nhờ ông M1 đứng tên trong GCNQSD đất trong đó đã phân định rõ
phần diện tích đất bà B nhận chuyển nhượng riêng là 164m² theo Hợp đồng
chuyển nhượng đất viết giấy tay ngày 08 tháng 04 năm 2002, bà N 466m
2
và bà
M 182m
2
. Trên phần đất 466m
2
này, bà N đã trực tiếp sử dụng, xây dựng nhà trên
đất từ tháng 3/2002 và đã bị Chủ tịch I ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 4259/QĐ-UB-QLĐT ngày 11/12/2002.
Ngày 28/3/2003, Tổ đền bù, giải tỏa tiến hành kiểm kê thiệt hại tài sản trong
Dự án Khu Công nghệ cao đối với hộ bà Trần Thị Ngọc T6 không số, Tổ A, KP4,
phường T, Quận I, về đất bị thu hồi 466m
2
, trong đó có 200m
2
là đất ở, 266m
2
đất
14
nông nghiệp. Trên đất có 01 căn nhà có diện tích 4m x 5m, thời điểm xây dựng là
tháng 3/2002.
Ngày 11/7/2005, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số
1326/QĐ-UBND-BBT để bồi thường cho bà Trần Thị N số tiền 144.800.000 đồng
do phần đất của bà N bị thu hồi, giải tỏa để thực hiện Dự án Khu Công nghệ cao.
Không đồng ý với Quyết định số 1326/QĐ-UBND-BBT, bà N khiếu nại. Ngày
26/12/2006 Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số 543/QĐ-
UBND-TTr giải quyết đơn khiếu nại của bà N.
Ngày 10/11/2006, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số
319/QĐ-UBND-BBT để điều chỉnh và hủy bỏ một phần căn cứ Quyết định số
1326/QĐ-UBND-BBT ngày 11/7/2005 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I.
Ngày 01/8/2007, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số 429/QĐ-
UBND-BBT thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 1326/QĐ-UBND-BBT ngày
11/7/2005 với lý do bồi thường không đúng đối tượng được cấp quyền sử dụng
đất hợp pháp.
Ngày 18/4/2014, Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số 404/QĐ-
UBND bồi thường vật kiến trúc cho bà Trần Thị N với tổng số tiền 12.773.000
đồng.
Do bà N không đồng ý với các quyết định nêu trên nên đã khiếu nại tại các
cơ quan có thẩm quyền với tư cách cá nhân, ký tên với tư cách cá nhân nên được
xem xét với tư cách cá nhân là phù hợp. Ngày 18/02/2020, Ủy ban nhân dân Thành
phố H ban hành Quyết định số 564/QĐ-UBND về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ
sung đối với 49 trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao
Quận I theo kết luật của Thanh tra Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ
tướng Chính phủ. Trong quyết định trên có tên của hộ bà Trần Thị Ngọc .
Ngày 09/7/2020 Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số 134/QĐ-
UBND để điều chỉnh Quyết định số 1326/QĐ-UBND-BBT ngày 11/7/2005 của
Ủy ban nhân dân Quận I để điều chỉnh số tiền bồi thường cho hộ bà N từ
144.800.000 đồng thành 1.386.870.360 đồng.
Ngày 09/7/2020 Ủy ban nhân dân Quận I ban hành Quyết định số 111/QĐ-
UBND thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 543/QĐ-UBND-TTr ngày 26/12/2006,
Quyết định số 429/QĐ-UBND-BBT ngày 01/8/2007 và Quyết định số 404/QĐ-
UBND ngày 18/4/2014 của I.
Ngày 09/9/2022 Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số
6469/QĐ-UBND bố trí tái định cư cho hộ bà N 02 nền đất.
Ngày 17/5/2023, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số
5281/QĐ-UBND thu hồi giá trị bồi thường, hỗ trợ của diện tích 466m2 đất trồng
cây hàng năm mặt tiền đường L của hộ ông Trần Hùng M1 do phần đất trên đã
được bồi thường cho bà Trần Thị N là đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, việc Ủy ban nhân dân Quận I ban hành các quyết định nêu trên
để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ bà Trần Thị Ngọc C liên quan đến phần
466m
2
mà bà N nhận chuyển nhượng lại từ ông T3. Qua xem xét toàn bộ hồ sơ
15
liên quan đến việc bồi thường cho bà N thì đều thể hiện bà N chỉ kê khai và yêu
cầu bồi thường đối với diện tích đất 466m
2
chứ không phải 812m
2
và UBND thành
phố T chỉ xem xét các chính sách bồi thường trên cơ sở diện tích đất 466m
2
của
bà N đang sử dụng.
Đơn kháng cáo của đương sự cho rằng phần đất bà N nhận bồi thường là
của ông M1, và do ông M1 ủy quyền cho bà N đi khiếu nại nên ông M1 phải được
hưởng chính sách bồi thường đối với tổng diện tích đất 812m
2
mà ông M1 đang
đứng tên trên GCNQSD đất là không có căn cứ và không phù hợp thực tế. Bản án
sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện về nội dung yêu
cầu nêu trên là có căn cứ. Do vậy đơn kháng cáo của ông M1, bà M bà B là không
có căn cứ được chấp nhận.
[2.3] Xét kháng cáo của ông M1, bà M2,i bà B cho rằng diện tích đất 812m
2
bị thu hồi không nằm trong dự án khu Công nghệ cao; Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại Báo cáo Kết luận số 659/BC-TTCP ngày 21 tháng 3 năm 2017 cùa
Thanh tra Chính phủ về Báo cáo kết luận, tại Phần IIL Kết luận, kiến nghị có nêu
nêu: Trong nội dung Thứ 2 của M3 1.1: "Thứ hai, về công tác quy hoạch kế hoạch
sử dụng đất” và tại T7 27 có nêu: “Tuy nhiên, Trung tâm Đo đạc bản đồ thuộc
Sở T9 có phối hợp với Công ty Đ1 (Bộ T10) và các đầu mối liên quan thực hiện
việc xác định chỉ giới cụ thể Khu CNC trên bản đồ và các mốc giới chủ yếu trên
thực địa, xây dựng hệ thống lưới toạ độ địa chính làm cơ sở đo vẽ, vị trí xác định
ranh giới diên tích đất dự án để thành lâp bản đồ hiện trạng để lập thủ tục giao -
thuê đất số 18426/GĐ-TNMT ngày 22/4/2004, là đúng với Điều 2, Quyết định số
989/QĐTTg ngày 04/11/1998 của Thủ Tướng chính phủ". Như vậy đơn kháng cáo
cho rằng người bị kiện không chứng minh được diện tích đất 812m
2
thu hồi nằm
trong dự án Khu công nghệ cao là không có cơ sở.
Do vậy kháng cáo về nội dung nêu trên của đương sự cũng không có căn
cứ được chấp nhận.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận
nên người kháng cáo phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị B, bà Trần Thị M và
ông Trần Hùng M1. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 97/2024/HC-ST
ngày 05 tháng 4 năm 2024 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 60, Điều 116, Điều 157, Điều 158, Điều
173, Điều 187, Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính 2015;
- Căn cứ Luật Đấ đai năm 2003;
- Căn cứ Điều 66, Điều 67, Điều 71 Luật Đất đai năm 2013;
- Căn cứ Luật khiếu nại năm 2011;
16
- Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Căn cứ Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B về yêu cầu
hủy một phần Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2020 của Ủy
ban nhân dân Thành phố H về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ sung đối với 49
trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao Thành phố, Quận I
theo kết luận của Thanh tra Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ tướng
Thường trực Trương Hòa B1 tại Thông báo số 370/TB-VPCP ngày 17 tháng 8
năm 2017 của Văn phòng C1.
2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B về việc yêu cầu hủy
các Quyết định số:
- Quyết định số 410/QĐ-UBND ngày 18/4/2014 của Ủy ban nhân dân Quận
I về việc công bố giá trị bồi thường vật kiến trúc của bà Nguyễn Thị B;
- Quyết định số 716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận I về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ của hộ bà Nguyễn Thị
B;
- Quyết định số 411/QĐ-UBND-BBT ngày 27/7/2010 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận I về việc ban hành quyết định thu hồi và hủy bỏ Quyết định số
716/QĐ-UBND-BBT ngày 16/4/2009;
- Quyết định số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày 30/11/2011 của Ủy ban nhân
dân Quận I về việc công bố giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của ông Trần
Hùng M1;
- Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 18/04/2014 của Ủy ban nhân dân
Quận I về việc điều chỉnh Điều 1 Quyết định số số 2380/QĐ-UBND-BBT ngày
30/11/2011;
- Quyết định số 232/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận I về cưỡng chế thu hồi đất;
- Quyết định số 1651/QĐ-UBND ngày 11/5/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố T về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị B (lần đầu);
- Quyết định số 425/QĐ-UBND ngày 28/8/2020 của Ủy ban nhân dân Quận
I về việc bổ sung giá trị bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ ông Trần
Hùng M1.
3. Bác toàn bộ yêu cầu độc lập của ông Trần Hùng M1 về việc yêu cầu hủy
các Quyết định số:
- Một phần Quyết định số 564/QĐ-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2020 của
Ủy ban nhân dân Thành phố H về phê duyệt chính sách hỗ trợ bổ sung đối với 49
17
trường hợp có tính chất đặc thù tại Dự án Khu công nghệ cao Thành phố, Quận I
theo kết luận của Thanh tra Chính phủ và kết luận, chỉ đạo của Phó Thủ tướng
Thường trực Trương Hòa B1 tại Thông báo số 370/TB-VPCP ngày 17 tháng 8
năm 2017 của Văn phòng C1;
- Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy ban
nhân dân Quận I về việc điều chỉnh Quyết định số 1326/QĐ-UBND-BBT ngày
11 tháng 7 năm 2005 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận I;
- Quyết định số 111/QĐ-UBND ngày 09 tháng 7 năm 2020 của Ủy ban
nhân dân Quận I về việc thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 543/QĐ-UBND-TTr
ngày 26 tháng 12 năm 2006; Quyết định số 429/QĐ-UBND-BBT ngày 01 tháng
8 năm 2007 và Quyết định số 404/QĐ-UBND ngày 18 tháng 4 năm 2014 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân Quận I;
- Quyết định số 6469/QĐ-UBND ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Ủy ban
nhân dân thành phố T về bố trí tái định cư nền đất đối với hộ bà Trần Thị Ngọc
T4 dự án đầu tư xây dựng Khu công nghệ cao;
- Quyết định số 5281/QĐ-UBND ngày 17 tháng 5 năm 2023 của Ủy ban
nhân dân thành phố T về việc thu hồi giá trị bồi thường, hỗ trợ của diện tích 466m2
đất trồng cây hàng năm thuộc một phần thửa 1025 tờ bản đồ số 3 theo TL02/CT-
UB tại phường T, thành phố T đối với hộ ông Trần Hùng M1 trong dự án Khu C.
4. Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị B, bà Trần Thị M và
ông Trần Hùng M1 mỗi đương sự phải chịu án phí hành chính phúc thẩm là
300.000 (ba trăm ngàn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo các biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004371, 0004370 và
0004369 ngày 22/5/2024 do Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh lập.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.Hồ Chí Minh;
- TAND TP.HCM;
- VKSND TP.HCM;
- Cục THADS TP.HCM;
- Người khởi kiện;
- Người bị kiện;
- NCQLNVLQ;
- Lưu VT (5), HS (2) (BA- Tâm).
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(1)
(3)
(5)
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Mai Xuân Thành
Tải về
Bản án số 1182/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1182/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm