Bản án số 117/2024/DS-ST ngày 19/09/2024 của TAND TX. Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 117/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 117/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 117/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 117/2024/DS-ST ngày 19/09/2024 của TAND TX. Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Phúc Yên (TAND tỉnh Vĩnh Phúc) |
Số hiệu: | 117/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
Bản án số: 117/2024/DS-PT
Ngày 19 - 9 - 2024
"V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất"
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Thu Hà
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Nghĩa và ông Nguyễn Xuân Trọng
- Thư ký phiên toà: Bà Trần Thị Thu Hương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc: Bà Lê Thị Huệ - Kiểm
sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 19 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 64/2024/TLPT-DS ngày 29/7/2024 về
việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 05/2024/DS-
ST ngày 29 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc có kháng cáo
và kháng nghị. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 96/2024/QĐ-
PT ngày 13 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Bùi Văn Đ, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn C, xã B,
huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; “Có mặt”.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Bùi Văn Q, sinh năm 1976; “Có mặt”.
2.2. Bà Phạm Thị H, sinh năm 1977; “Có mặt”.
Đều có địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Bùi Thị S, sinh năm 1973; “Có mặt”.
3.2. Cụ Bùi Văn X, sinh năm 1949; “Có mặt”.
3.3. Cụ Chu Thị M, sinh năm 1950.
Người đại diện hợp pháp của cụ M: Bà Phạm Thị S1, sinh năm 1982 là
người đại diện theo ủy quyền (Văn bản uỷ quyền ngày 27/8/2024); “Có mặt”.
Đều có địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
3.4. Ông Bùi Văn C, sinh năm 1980 (chết ngày 15/8/2024)
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông C:
2
+ Cụ Bùi Văn X, sinh năm 1949;
+ Cụ Chu Thị M, sinh năm 1950;
+ Bà Phạm Thị S1, sinh năm 1982; “Có mặt”.
+ Anh Bùi Xuân T, sinh năm 2001;
+ Chị Bùi Thị Như Q1, sinh năm 2015;
Người đại diện hợp pháp của chị Q1: Bà Phạm Thị S1, sinh năm 1982 là
người đại diện theo pháp luật; “Có mặt”.
Đều trú tại: Thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Chị Bùi Thị Hải Y, sinh năm 2003; địa chỉ: Nhà số B, ngõ F, khu B thôn
T, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
Người đại diện hợp pháp của anh T, chị Y: Bà Phạm Thị S1, sinh năm 1982
là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản uỷ quyền ngày 28/8/2024); “Có mặt”.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Bùi Văn Đ.
5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 01 năm 2023 và quá trình tố tụng
nguyên đơn trình bày:
Ông Bùi Văn Đ và bà Bùi Thị S kết hôn năm 1992, sau ngày cưới vợ chồng
ông Đ về ở chung cùng bố mẹ ông Đ là cụ Bùi Văn X và cụ Chu Thị M. Khoảng
năm 1994 thì cụ X và cụ M chia cho ông Đ, bà S một phần đất để vợ chồng ông
bà ra ở riêng, vợ chồng ông Đ đã xây được một nhà cấp bốn 3 gian để ở. Năm
2002 vợ chồng ông Đ vào M làm ăn, các con của ông Đ ở nhà nhờ cụ cố Bùi Thị
S2 là bà nội ông Đ chăm nom cháu giúp. Ngày 14/7/2003, hộ cụ X được UBND
huyện Y cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Viết tắt là GCNQSDĐ) đối với
diện tích 308m
2
(gồm 200m
2
đất ở và 108m
2
đất vườn); hộ ông Đ cũng được
UBND huyện Y cấp GCNQSDĐ đối với diện tích 308m
2
(200m
2
đất ở và 108m
2
đất vườn). Năm 2007 hoặc 2008 xã B đo đạc và lập bản đồ theo hệ tọa độ VN-
2000 thì thửa đất hộ cụ X và hộ ông Đ là vị trí thửa đất số 65, tờ bản đồ số 14,
diện tích 925,8m
2
. Nguồn gốc thửa đất số 64 là do của ông cha để lại cho vợ chồng
cụ X. Năm 2002, vợ chồng ông Đ đang làm ăn trong M, cụ X là người tách đất
cho ông Đ diện tích 308m
2
(200m
2
đất ở, 108m
2
đất vườn) và ngày 14/7/2003 ông
Đ đã được UBND huyện Y cấp GCNQSDĐ vị trí đất ông Đ được cụ X tách cho
chính là ngôi nhà cấp bốn xây 2 tầng của vợ chồng ông Q hiện đang ở có các
chiều cạnh: Cạnh giáp đường ngõ xóm dài 8,9m; phía Nam giáp đất cụ X dài
41,89m; phía Bắc giáp đất nhà ông Lương bà Kiến dài 16,6m, giáp đất nhà ông
Đ1, bà M1 dài 25,3m; phía Đông giáp ao làng dài 6,4m với tổng diện tích ông Q,
bà H sử dụng vào đất của vợ chồng ông Đ là 113m
2
.
3
Vì vậy, ông Đ khởi kiện buộc ông Q và bà H tháo dỡ các công trình xây
dựng trên diện tích đất 113m
2
của thửa số 65 để trả lại cho ông Đ sử dụng theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà ông đã được cấp năm 2003.
Bị đơn ông Bùi Văn Q và bà Phạm Thị H trình bày: Về nguồn gốc đất như
ông Đ trình bày trên là đúng. Năm 1996, ông Q kết hôn với bà H. Sau khi kết hôn
ông Q, bà H ở chung cùng cụ Bùi Văn X và cụ Chu Thị M trên thửa đất số 65, tờ
bản đồ số 14. Năm 2000, cụ M và cụ X tách cho ông Q2, bà H một phần diện tích
của thửa đất số 65 nên ông Q, bà H đã xây dựng 02 gian nhà cấp bốn ở tạm. Năm
2005 thì ông Q, bà H xây dựng nhà cấp bốn 02 tầng để ở như Toà án đã về xem
xét thẩm định tại chỗ như hiện nay. Trước khi ông bà xây nhà 02 tầng như hiện
nay, ngày 08 tháng 10 (âm lịch) năm 2003, cụ X và cụ M đã tổ chức buổi họp gia
đình, thành phần gồm có vợ chồng cụ X, ông Đ, ông Q và ông Bùi Văn C. Buổi
họp đó có cụ Bùi Văn Đ1 là chú ruột dự chứng kiến. Nội dung cuộc họp là thống
nhất chia thửa đất của vợ chồng cụ X cho 03 con trai gồm ông Đ, ông Q và ông
C. Thời điểm họp chia đất, do trên đất có 03 tài sản gồm 01 nhà của vợ chồng cụ
X, 01 nhà của của vợ chồng ông Đ và 01 nhà của vợ chồng ông bà. Vì vậy đã
thống nhất làm phiếu để nhúp vị trí đất được chia cho công bằng. Quy ước làm
thành 03 phiếu, có 3 người được quyền nhúp gồm ông Đ, ông Q và ông C. Vị trí
đất có tài sản của ông Đ được thống nhất là phiếu số 1, vị trí đất có tài sản của
ông Q được thống nhất là phiếu số 2 và vị trí có đất có tài sản của cụ X được thống
nhất là phiếu số 3. Thống nhất tài sản của cụ X có giá trị là 7.000.000 đồng; tài
sản của ông Đ có giá trị 6.000.000 đồng và tài sản của ông Q là 2.000.000 đồng;
trường hợp, nếu ai nhúp được phiếu chỗ vị trí đất có tài sản của ông Q, cụ X và
ông Đ thì người có phiếu đó phải thanh toán tiền tài sản cho ông Q, cụ X và ông
Đ.
Kết quả nhúp phiếu thể hiện: Ông Đ nhúp được phiếu số 1 (chính là phần
đất phía sau có căn nhà của vợ chồng ông Đ), ông Q nhúp được phiếu số 2 (chính
là phần đất hiện nay ông đang sử dụng) và ông C nhúp được phiếu số 3 (là phần
đất giáp đất ông Q và có căn nhà của cụ X hiện nay ông C đang sử dụng). Do
phiếu các bên nhúp được trùng hợp với phần đất có tài sản của mình nên ông Đ
và ông Q không phải thanh toán tiền tài sản cho ai. Riêng ông C nhúp được phiếu
số 3 có tài sản của cụ X, lúc này vợ chồng cụ X đang ở chung với vợ chồng ông
C nên ông C không phải thanh toán giá trị tài sản cho cụ X. Kết thúc buổi họp, tất
cả đều thống nhất vui vẻ nên đã lập biên bản và cùng nhau ký nhận vào biên bản.
Quá trình thực hiện thỏa thuận: Sau buổi họp gia đình thì nhà ai vẫn ở
nguyên nhà đó chưa có thay đổi gì, vào khoảng năm 2001 vợ chồng ông Đ vào M
làm ăn, các con ông Đ ở nhà cùng với cố Bùi Thị S2 (mẹ đẻ cụ X). Hàng năm, vợ
chồng ông Đ vẫn về ở cùng với bà cháu cố S2. Năm 2007 hoặc năm 2008, vợ
chồng ông Đ mua thửa đất khác đồng thời chuyển toàn bộ các con cùng tháo dỡ
các tài sản của mình ở trên đất của cụ X về xây dựng tại thửa đất mua mới. Thửa
4
đất mới mua của ông Đ ở cùng thôn C với ông bà. Từ đó đến nay, vợ chồng ông
Đ và các con ở ổn định trên thửa đất mới mua, phần đất được bố mẹ chia cho thì
bỏ trống chưa sử dụng. Sau khi được bố mẹ tách đất, ông bà vẫn ở ngôi nhà cấp
bốn 02 gian đến năm 2005 thì phá bỏ để xây ngôi nhà 02 tầng như hiện nay. Sau
khi chia đất, vợ chồng ông C ở chung với vợ chồng cụ X. Năm 2012, vợ chồng
ông C xây ngôi nhà 02 tầng như hiện nay. Phần ngôi nhà 02 tầng của vợ chồng
ông C xây dựng trên vị trí đất đã thống nhất là phiếu số 3. Sau khi xây xong nhà
thì vợ chồng cụ X và gia đình ông C cùng chuyển lên ở ngôi nhà 02 tầng mới xây,
ngôi nhà cũ của vợ chồng cụ X phá bỏ.
Năm 2019, cả gia đình thống nhất làm thủ tục tách đất như biên bản họp
gia đình năm 2003 để nhà ai có đất thì người đó làm thủ tục cấp GCNQSDĐ theo
quy định. Ngày 01/9/2019, gia đình tiếp tục tổ chức buổi họp thứ 2. Nội dung của
buổi họp này, các bên đã thống nhất vị trí đất để làm GCNQSDĐ như sau:
Phần đất ông bà được sử dụng chính là vị trí hiện tại ông bà đã xây ngôi
nhà 2 tầng và đang sử dụng; phần đất của ông C sử dụng chính là vị trí hiện nay
ông C đã xây ngôi nhà 02 tầng và đang sử dụng; phần đất ông Đ sử dụng là vị trí
phía sau đất giáp hồ, phần đất này đang để trống chưa xây dựng gì. Giữa đất nhà
ông bà với đất nhà ông C có một lối đi chung đi vào thửa đất nhà ông Đ. Sau khi
thống nhất, các bên có mặt đều ký biên bản. Sau đó cụ X đi làm tục tách đất để
cấp giấy chứng nhận đất cho các con, lúc này ông bà và vợ chồng ông C, cụ M
mới biết thửa đất của cụ X đã được tách làm 02 phần, một phần chia cho ông Đ
và một phần chia cho cụ X, phần đất chia cho cụ X và ông Đ đều được Nhà nước
cấp GCNQSDĐ cho cụ X và ông Đ do vậy không làm được thủ tục tách đất cấp
bia đỏ như biên bản đã họp gia đình, dẫn đến mâu thuẫn gia đình. Ông Đường K
đồng ý chia đất như nội dung thỏa thuận tại buổi họp gia đình năm 2003 và 2019
đồng thời trực tiếp xé bỏ 02 bản gốc của 02 biên bản họp gia đình năm 2003 và
2019. Ông bà có quan điểm nếu ông Đ và bà S đồng ý đổi vị trí đất với ông bà,
theo đó ông Đ, bà S đến sử dụng phần đất có ngôi nhà cấp bốn 02 tầng của ông
bà hiện đang sử dụng, thì ông bà đồng ý ông bà sẽ chuyển đến sử dụng phần đất
của vợ chồng ông Đ tại thửa 65. Ông bà xác định toàn bộ khối tài sản của ông bà
xây dựng trên thửa đất 65 là tài sản hợp pháp của ông bà, các con ông bà không
có công sức đóng góp gì.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Cụ Bùi Văn X trình bày: Cụ X kết hôn với cụ M năm 1969, các cụ sinh
được 05 người con gồm: Bùi Văn Đ, Bùi Văn Q, Bùi Văn C, Bùi Thị P và Bùi
Thị L. Sau khi kết hôn, các cụ được bố mẹ đẻ để lại cho thửa đất 65, diện tích
620m
2
tại thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.
Quá trình sử dụng đất và thủ tục đăng ký, kê khai xin cấp GCNQSDĐ cùng
với quá trình phân chia thửa đất 65, cụ X thống nhất với trình bày của ông Q, bà
H. Cụ khẳng định: Thửa đất 65 là tài sản chung hợp pháp của cụ và cụ M, tuy
5
nhiên năm 2002, cụ đã tự ý kê khai và đề nghị cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Đ và
cụ mỗi người được sử dụng 308m
2
, việc kê khai này của cụ là không đúng, ảnh
hưởng đến quyền lợi của cụ M.
Năm 2003 và năm 2019, cụ đã trực tiếp triệu tập 02 cuộc họp gia đình để
thoả thuận chia đất và quá trình thực hiện việc chia đất trong 02 buổi họp gia đình
diễn ra đúng như lời trình bày trên của ông Q, bà H.
Sau khi vợ chồng ông Q, ông C được chia đất, vợ chồng ông Q và vợ chồng
ông C đều đã xây nhà hai tầng kiên cố, ở ổn định, công khai liên tục, vợ chồng
ông Đ và hàng xóm láng giềng tất cả đều biết. Nay ông Đ khởi kiện yêu cầu vợ
chồng ông Q trả lại quyền sử dụng 113m
2
đất; tháo dỡ công trình xây dựng trên
113m
2
tại thửa đất 65 và trả lại mặt bằng không gian đất cho ông Đ sử dụng là trái
với thỏa thuận của các bên thể hiện trong 02 buổi họp gia đình năm 2003 và năm
2019. Vì vậy, cụ đề nghị Tòa án công nhận nội dung đã thỏa thuận trong 02 Biên
bản họp gia đình năm 2003 và năm 2019 có hiệu lực pháp luật tức giữ nguyện
hiện trạng sử dụng đất như hiện nay để các con của cụ không bị sáo trộn thay đổi
thiệt hại gì.
+ Ông Bùi Văn C là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cũng là người
đại diện theo ủy quyền của cụ M, trình bày:
Ông C thừa nhận, nguồn gốc, quá trình sử dụng đất và thủ tục đăng ký kê
khai xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất 65, cũng như quá
trình chia tách thửa đất 65 diễn ra đúng như lời trình bày trên của cụ X và ông Q,
bà H. Do thửa đất số 65 có nguồn gốc là đất ông cha để lại cho cụ X và cụ M nên
là tài sản chung của cụ M và cụ X. Năm 2003, cụ X đã tự ý tách một phần thửa
đất 65 cho ông Đ mà không được sự đồng ý của cụ M. Sau khi cụ X đi làm thủ
tục tách thửa đất 65 cho các con theo như thoả thuận chia đất trong hai buổi họp
gia đình không thành thì cụ M mới biết thửa đất số 65 của các cụ đã bị cụ X tự ý
chia cho ông Đ 308m
2
. Việc làm trên của cụ X đã xâm phạm đền quyền sử dụng,
định đoạt của cụ M đối với thửa đất 65 nên cụ M có đơn yêu cầu độc lập đề nghị
Tòa án hủy GCNQSDĐ số W 197473 ngày 14/7/2003 do Ủy ban nhân dân huyện
Y cấp cho hộ ông Bùi Văn Đ. Tại phiên toà sơ thẩm, ông C đề nghị Toà án cho
cụ M được rút yêu cầu độc lập về việc đề nghị hủy GCNQSDĐ số W 197473 ngày
14/7/2003 do Ủy ban nhân dân huyện Y cấp cho hộ ông Bùi Văn Đ và đề nghị
Toà án giữ nguyện hiện trạng sử dụng đất như hiện nay để các con của cụ M không
bị sáo trộn, thay đổi việc sử dụng đất.
+ Bà Bùi Thị S trình bày: Bà là vợ của ông Bùi Văn Đ, bà thống nhất với
trình bày của ông Đ và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ.
Với nội dung vụ án nêu trên, tại Bản án số 05/2024/DS-ST ngày 29/3/2024
của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc quyết định:
6
Căn cứ các Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 157; khoản
1 Điều 165 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Văn Đ về
việc, kiện đòi tài sản và buộc tháo dỡ công trình xây dựng đối với bị đơn là ông
Bùi Văn Q và bà Phạm Thị H đối với thửa đất số 65, diện tích là 113m2, được
UBND huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
14/7/2003 đứng tên ông Bùi Văn Đ tọa lạc tại thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh
Phúc.
Ủy ban nhân dân huyện Y có trách nhiệm ra quyết định thu hồi đối với Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số W197473, do UBND huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc
cấp đứng tên hộ ông Bùi Văn Đ và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
W197472, do UBND huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc cấp đứng tên hộ cụ ông Bùi Văn
X cùng ngày 14/7/2003. Ông Bùi Văn Đ, ông Bùi Văn Q và ông Bùi Văn C có
quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo đúng với hiện trạng thửa đất mà các ông đang quản lý, sử
dụng theo quy định của pháp luật (có sơ đồ thửa đất chi tiết kèm theo).
Phần vị trí đất ông Đ được quyền sử dụng là 299,7m
2
, có các mốc giới:
5,6,7,8,9,15,14,5; phần vị trí đất ông Q được quyền sử dụng là 113,0m
2
có các
mốc giới: 1,2,3,4,5,14,13,12,1 và phần vị trí đất ông C được quyền sử dụng là
133,7m
2
có các mốc giới: 9,10,11,17,16,15,9.
Riêng phần diện đất 43,8m
2
có các mốc giới: 11,12,13,14,15,16,17,11 cắt
ra để làm lối đi chung đi vào phía trong đất của ông Đ.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất như hiện tại nên các tài sản xây dựng
gắn liền với đất và các loại cấy cối lâm lộc đang trồng tại phần đất của ai được
quyền sử dụng thì người đó được quyền tiếp tục sử dụng các tài sản xây dựng gắn
liền với đất và các loại cấy cối lâm lộc ở phần đất đó, các bên không phải thanh
toán giá trị chênh lệch tài sản cho nhau.
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí, chi phí tố tụng, quyền kháng cáo và
quyền yêu cầu thi thành án của các đương sự.
Ngày 08/4/2024 và ngày 15/4/2021, nguyên đơn ông Bùi Văn Đ có đơn
kháng cáo và đơn kháng cáo bổ sung, với nội dung: Không nhất trí với toàn bộ
bản án số 05/2024/DS-ST ngày 29/3/2024 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc.
Đề nghị cấp phúc thẩm buộc vợ chồng ông Bùi Văn Q và bà Phạm Thị H phải
tháo dỡ, di dời toàn bộ tài sản mà vợ chồng ông Q, bà H xây dựng trên phần diện
tích đất của vợ chồng ông Đ để trả lại nguyên hiện trạng đất cho vợ chồng ông Đ.
Trường hợp ông Bùi Văn Q muốn giữ nguyên hiện trạng đất như hiện tại thì cụ
Bùi Văn X, ông Bùi Văn Q và ông Bùi Văn C phải cùng nhau thoả thuận thống
nhất để lại 43,8m² (theo bản án số 05/2024/DS-ST ngày 29/03/2024 của Toà án
7
nhân dân huyện Yên Lạc xác định là lối đi chung) cho gia đình ông Đ (thuộc
quyền quản lý, sử dụng riêng của gia đình Đ).
Ngày 02/5/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc có
Quyết định kháng nghị số 675/QĐKNPT-VKS-DS, kháng nghị đề nghị huỷ bản
án dân sự sơ thẩm số 05/2024/DS-ST ngày 29 - 03-2024 của Toà án nhân dân
huyện Yên Lạc, do: Bản án sơ thẩm đã xác định sai quan hệ tranh chấp; giải quyết
vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự; không đình chỉ yêu cầu độc lập do
đương sự đã rút.
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm:
Ngày 14/8/2024, bị đơn ông Bùi Văn Q và bà Phạm Thị H; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Văn C, có quan điểm: Theo lối đi do Toà án cấp
sơ thẩm xác định là lối đi chung của 03 gia đình gồm gia đình ông Đ, ông Q và
ông C. Tuy nhiên lối đi đó Toà án cấp sơ thẩm đã cắt vào một phần nhà của ông
Q, do đó đề nghị tính từ mép nhà ông Q ra và xác định là đất của ông Đ, không
xác định là lối đi chung của cả 03 gia đình.
Ngày 15/8/2024, nguyên đơn ông Bùi Văn Đ và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là bà Bùi Thị S, có quan điểm: Đề nghị Toà án xem xét diện tích mà
cấp sơ thẩm đã xác định là lối đi chung của 03 gia đình gồm gia đình ông Đ, ông
Q và ông C, nay xác định lấy cắt từ mép tường nhà ông Q kéo ra để làm lối đi
riêng và thuộc diện tích chia cho ông được quyền sử dụng.
Tại phiên toà phúc thẩm các đương sự thống nhất: Đối với lối đi có diện
tích 43,8m
2
mà Toà án cấp sơ thẩm đã xác định là lối đi chung của gia đình ông
Đ, ông Q và ông C đã cắt vào một phần công trình nhà của bị đơn ông Q, bà H1.
Các đương sự thống nhất lối đi được tính từ mép móng nhà ông Q, bà H kéo sang
tường nhà và tường bao loan của nhà ông C là lối đi riêng của gia đình ông Đ do
thửa đất của gia đình ông Đ không có lối đi, còn gia đình ông C, gia đình ông Q
đã có lối đi. Cụ thể, các đương sự thống nhất chia cho ông Q, bà H được quyền
sử dụng diện tích 116,5m
2
(gồm 100m
2
đất ở; 16,5m
2
đất trồng cây lâu năm); ông
Đ, bà S được quyền sử dụng diện tích 340m
2
(gồm 200m
2
đất ở; 140m
2
đất trồng
cây lâu năm); ông C nay do người kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông C gồm: Cụ
Bùi Văn X, cụ Chu Thị M, bà Phạm Thị S1, anh Bùi Xuân T và người đại diện
hợp pháp của cháu Bùi Thị Như Q1 là bà Phạm Thị S1 thống nhất giao cho anh
Bùi Xuân T là con trai của ông C được quyền sử dụng diện tích 133,7m
2
(gồm
100m
2
đất ở; 33,7m
2
đất trồng cây lâu năm).
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; các đương sự đã được
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
8
Về đường lối giải quyết vụ án: Do tại cấp phúc thẩm các đương sự tự
nguyện thoả thuận được với nhau về việc chia tài sản là quyền sử dụng đất; nội
dung thỏa thuận giữa các đương sự không vi phạm điều cấm của luật và không
trái đạo đức xã hội vì vậy Viện kiểm sát sửa đổi nội dung kháng nghị theo hướng
đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa
một phần bản án sơ thẩm theo hướng xác định lại quan hệ pháp luật và sửa bản án
sơ thẩm theo hướng thoả thuận của các đương sự tại phiên toà phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của nguyên đơn ông Bùi Văn Đ và kháng nghị
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc được làm trong hạn luật định, đơn
kháng cáo, quyết định kháng nghị hợp lệ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận để
xem xét.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Bùi Văn Đ và kháng nghị của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thống nhất, mặc dù trước đó nguyên
đơn ông Bùi Văn Đ khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn là ông Q, bà H tháo dỡ toàn bộ
tài sản trên diện tích đất 113m
2
để trả lại đất cho ông Đ theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất được cấp cho chủ hộ là ông Đ. Tuy nhiên, nay các đương sự
thống nhất thỏa thuận các đương sự đã sử dụng theo đúng hiện trạng mà các bên
đã họp gia đình năm 2003. Do đó, nay các đương sự thống nhất và đề nghị Toà
án chia cho các đương sự được sử dụng quyền sử dụng đất cụ thể:
Chia cho ông Q, bà H được quyền sử dụng diện tích 116,5m
2
(gồm 100m
2
đất ở; 16,5m
2
đất trồng cây lâu năm) nằm trong ranh giới được xác định bởi các
điểm 1-2-3-4-5-14-13-12-1;
Chia cho ông Đ, bà S được quyền sử dụng diện tích 340m
2
(gồm 200m
2
đất
ở; 140m
2
đất trồng cây lâu năm) nằm trong ranh giới được xác định bởi các điểm
12-13-14-5-7-8-9-15-16-17-11-12;
Chia ông C nhưng do ông C đã chết ngày 15/8/2024 nên nay người kế thừa
quyền và nghĩa vụ của ông C gồm: Cụ Bùi Văn X, cụ Chu Thị M, bà Phạm Thị
S1, anh Bùi Xuân T và người đại diện hợp pháp của cháu Bùi Thị Như Q1 là bà
Phạm Thị S1 thống nhất giao cho anh Bùi Xuân T là con trai của ông C được
quyền sử dụng diện tích 133,7m
2
(gồm 100m
2
đất ở; 33,7m
2
đất trồng cây lâu năm)
nằm trong ranh giới được xác định bởi các điểm 11-17-16-15-9-10-11.
Kiến nghị UBND huyện Y thu hồi GCNQSDĐ do UBND huyện Y cấp
ngày 14/7/2003 cho chủ hộ Bùi Văn X và chủ hộ Bùi Văn Đ.
[3] Xét thấy mặc dù nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn tháo dỡ tài sản
và trả lại diện tích theo GCNQSDĐ nguyên đơn được cấp; bị đơn và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan xác định thửa đất bị đơn đã được bố mẹ chia cho,
các bên sử đụng dúng như Biên bản họp gia đình ngày 08/10/2003 và ngày
9
01/9/2019 nên quan hệ tranh chấp là “tranh chấp quyền sử dụng đất”, do đó, Toà
án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “kiện đòi tài sản quyền sử dụng đất”
là không đúng, đồng thời không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
nhưng quyết định cả nguyên đơn, bị đơn và người liên quan được sử dụng từng
phần diện tích là vượt qua yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngoài ra, ngày 30/5/2023 Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu độc lập của
cụ Chị Thị M đề nghị Tòa án hủy GCNQSDĐ đối với thửa số W197473 ngày
14/7/2003 do Ủy ban nhân dân huyện Y cấp cho hộ ông Bùi Văn Đ. Tại phiên tòa
sơ thẩm, ông C là người đại diện hợp pháp của cụ M đã rút yêu cầu độc lập trên
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đình chỉ đối với yêu cầu độc lập của cụ M là
không đúng quy định tại Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Những sai phạm trên của Tòa án cấp sơ thẩm là nghiêm trọng tuy nhiên
không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự do tại phiên toà
phúc thẩm các đương sự đã tự nguyện và thoả thuận được với nhau về toàn bộ nội
dung vụ án. Thấy rằng sự thoả thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi
phạm điều cấm của luật, không vi phạm đạo đức xã hội, đồng thời các đương sự
cam kết không kiện cáo, khiếu nại gì liên quan đến vụ án và tài sản đã phân chia.
Do đó, để tranh vụ việc bị kéo dài, gây mất đoàn kết trong gia đình, ổn định trật
tự tại địa phương, Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp là
“tranh chấp quyền sử dụng đất” và căn cứ Điều 217; khoản 1 Điều 300; khoản 2
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự đồng thời đình chỉ đối với yêu cầu độc lập của cụ
Chu Thị M đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa
số W197473 ngày 14/7/2003 do Ủy ban nhân dân huyện Y cấp cho hộ ông Bùi
Văn Đ.
[4] Về chi phí tố tụng: Tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn ông Bùi Văn
Đ tự nguyện chịu toàn bộ 9.500.000đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và
định giá tài sản. Xác nhận nguyên đơn đã chi phí xong tại cấp sơ thẩm.
[5] Về án phí:
[5.1] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Đ cùng vợ là bà S là người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được chia diện tích 340m
2
đất (gồm 200m
2
đất ở;
140m
2
đất trồng cây lâu năm) trị giá 540.000.000đồng nên ông Đ, bà S phải chịu
25.600.000 đồng.
Bị đơn ông Q cùng vợ là bà H là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
được chia diện tích 116,5m
2
đất (gồm 100m
2
đất ở; 16,5m
2
đất trồng cây lâu năm)
trị giá 216.500.000 đồng nên ông Q, bà H phải chịu 10.825.000 đồng.
Anh T được chia 133,7m
2
đất (gồm 100m
2
đất ở; 33,7m
2
đất trồng cây lâu
năm) trị giá 233.700.000 đồng nên anh T nên anh T phải chịu 11.685.000 đồng.
10
[5.2] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm theo hướng ghi
nhận sự thoả thuận của các đương sự nên nguyên đơn ông Bùi Văn Đ không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 300, khoản 2 Điều 308, Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân
sự; Nghị quyết 326/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng
12 năm 2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 05/2024/DS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
1. Đình chỉ đối với yêu cầu độc lập của cụ Chu Thị M đề nghị Tòa án hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa số W197473 ngày 14/7/2003 do
Ủy ban nhân dân huyện Y cấp cho hộ ông Bùi Văn Đ.
2. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc
thẩm:
Ông Bùi Văn Đ, bà Bùi Thị S được quyền sử dụng diện tích 340m
2
(gồm
200m
2
đất ở; 140m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 65, tờ bản đồ số 14
(Bản đồ VN 2000) tại thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, được giới hạn bởi
các điểm 12-13-14-5-6-7-8-9-15-16-17-11-12.
Ông Bùi Văn Q, bà Phạm Thị H được quyền sử dụng diện tích 116,5m
2
(gồm 100m
2
đất ở; 16,5m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 65, tờ bản đồ
số 14 (Bản đồ VN 2000) tại thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, được giới hạn
bởi các điểm 1-2-3-4-5-14-13-12-1.
Anh Bùi Xuân T được quyền sử dụng diện tích 133,7m
2
(gồm 100m
2
đất ở;
33,7m
2
đất trồng cây lâu năm) thuộc thửa đất số 65, tờ bản đồ số 14 (Bản đồ VN
2000) tại thôn C, xã B, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, được giới hạn bởi các điểm 11-
17-16-15-9-10-11.
(Có sơ đồ chi tiết kèm theo).
3. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Y thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số hiệu W197472 do Ủy ban nhân dân huyện Y cấp ngày 14 tháng 7 năm
2003 cho chủ hộ Bùi Văn X và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số hiệu
W197473 do Ủy ban nhân dân huyện Y cấp ngày 14 tháng 7 năm 2003 cho chủ
hộ Bùi Văn Đ.
Ông Bùi Văn Đ, bà Bùi Thị S; ông Bùi Văn Q, bà Phạm Thị H; anh Bùi
Xuân T được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích được công nhận theo quy định của
pháp luật.
11
4. Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Bùi Văn
Đ chịu 9.500.000 đồng (Chín triệu năm trăm nghìn đồng) chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản. Xác nhận ông Bùi Văn Đ đã chi phí xong tại cấp
sơ thẩm.
5. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Bùi Văn Đ, bà Bùi Thị S phải chịu 25.600.000 đồng (Hai mươi lăm
triệu sáu trăm nghìn đồng) nhưng được trừ và số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và
tạm ứng án phí phúc thẩm ông Đ đã nộp là 3.462.000 đồng (Ba triệu bốn trăm
sáu mươi hai nghìn đồng) theo biên lai số 0001580 ngày 20 tháng 02 năm 2023
và 300.000 đồng (Ba trăm nghin đồng) theo biên lai số 0003222 ngày 09 tháng 4
năm 2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Lạc. Ông Đ, bà S còn phải
nộp 21.838.000 đồng (Hai mươi mốt triệu tám trăm ba mươi tám nghìn đồng).
Ông Bùi Văn Q, bà Phạm Thị H phải chịu 10.825.000 đồng (Mười triệu
tám trăm hai mươi lăm nghìn đồng).
Anh Bùi Xuân T phải chịu 11.685.000 đồng (Mười một triệu sáu trăm tám
mươi lăm nghìn đồng).
- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Bùi Văn Đ không phải chịu.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Phúc;
- TAND huyện Yên Lạc;
- VKSND huyện Yên Lạc;
- Chi cục THADS huyện Yên Lạc;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(ĐÃ KÝ)
Nguyễn Thị Thu Hà
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Bản án số 422/2025/DS-PT ngày 08/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Bản án số 398/2025/QĐ-PT ngày 28/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Bản án số 360/2025/DS-PT ngày 23/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm