Bản án số 1060/2024/DS-PT ngày 23/12/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 1060/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 1060/2024/DS-PT ngày 23/12/2024 của TAND TP. Hồ Chí Minh về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồ Chí Minh
Số hiệu: 1060/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/12/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp đòi tài sản và bồi thường thiệt hại
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 1060/2024/DS-PT
Ngày: 23/12/2024
V/v Tranh chấp đòi tài sản
bồi thường thiệt hại.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Huỳnh Thị Như Hà.
Các Thẩm phán: Ông Phạm Hồng Giảng.
Bà Lê Thị Anh Minh.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Cẩm Nhung – Thư ký Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Ái- Kiểm sát viên.
Vào ngày 25 tháng 11 năm 2024 ngày 23 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở
Tòa án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh đã xét xử phúc thẩm công khai vụ án
thụ số 708/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 10 năm 2024 về việc: “Tranh chấp
đòi tài sản và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do Bản án dân sự thẩm s425/2024/DS-ST ngày 25 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân Quận O bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra t xử số 5403/2024/QĐPT-DS ngày 11
tháng 10 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số 15417/2024/QĐ-PT ngày 05
tháng 11 năm 2024; Quyết định tạm ngừng phiên toà số 15422/2024/QĐPT-DS
ngày 25 tháng 11 năm 2024 Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
6347/2024/QĐPT-DS ngày 04 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Phm Th H, sinh năm: 1978 (Có đơn xin xét x vng
mt);
Thường trú: Thôn T, xã D, huyện D, tỉnh Quảng Nam.
Địa chỉ liên lạc: số C đường T, Phường A, quận T, Thàng phố H.
2
B đơn: Ông H Tn D, sinh năm: 1970 (Có mặt);
Địa chỉ: 9, N, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Luật Phan Thanh
H1 (Có mặt) – Thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H.
Người quyn lợi, nghĩa v liên quan: Công ty TNHH X. Địa chỉ: B, Đ,
phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật:Phạm Thị H, sinh năm: 1978 - Giám đốc
công ty (Có đơn xin xét xử vng mt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn trình bày:
ông Hồ Tấn D là vợ chồng hợp pháp đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân D, huyện D, tỉnh Quảng Nam theo giấy chứng nhận kết hôn s
09/2016 ngày 15/02/2016. Quá trình chung sống thường xuyên bị ông D hành
hạ, đánh đập gây thương tích, bị đe dọa đến tính mạng. vậy, đã phải bỏ đi
khỏi căn nhà số I, Nguyễn Ảnh T, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguồn gốc căn nhà tài sản riêng của ông D cũng đã lập văn bản cam kết
đây tài sản riêng của nhưng ông D đã cố ý đánh đập, uy hiếp tinh thần, tính
mạng của bà nhằm chiếm đoạt tài sản riêng của bà. Bà đã nhiều lần liên hệ ông D
để đòi lại tài sản của mình nhưng ông D không trả thái độ tiếp tục uy hiếp
tinh thần của bà. Nay bà yêu cầu Tòa án buộc ông Hồ Tấn D:
Hoàn trả lại nhà đất thuộc thửa đất số 701, tờ bản đồ số 19, tọa lạc tại địa chỉ
số I N, phường T, Quận A cho bà do là tài sản riêng của bà;
Buộc ông Hồ Tấn D khôi phục lại hiện trạng nhà nêu trên, nếu không tự
nguyện thực hiện thì phải bồi thường thiệt hại 50.000.000 đồng do gây ra
hỏng, giảm sút giá trị tài sản;
Trả lại 01 xe ô hiệu Toyota, loại Camry, Biển số 51G-550.97, số khung:
RL4BN3FKXJ1006227, số máy: 6ARP388479 cho Công ty TNHH X;
Bồi thường thiệt hại về sức khỏe là 15.000.000 đồng;
Bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy n bị xâm phạm gồm chi
phí thu thập tài liệu, chứng cứ là 5.000.000 đồng và thu nhập bị giảm sút trong 03
tháng là 45.000.000 đồng;
Bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm gồm chi phí thuê chỗ
7.000.000 đồng/tháng; chi phí đi lại 5.000.000 đồng/tháng, tạm tính từ tháng
01/2021 đến tháng 6/2023 là 30 tháng, tương đương 360.000.000 đồng.
3
Ngày 21/5/2024, H đơn rút lại một phần yêu cầu khởi kiện và chỉ còn
giữ lại yêu cầu buộc ông Hồ Tấn D hoàn trả lại nhà đất thuộc thửa đất số 701, tờ
bản đồ số 19, tọa lạc tại địa chỉ số I N, phường T, Quận A cho bà Phạm Thị H.
Bị đơn ông Hồ Tấn D trình bày:
Ông H vợ chồng hợp pháp đúng như trình bày của H. Về căn
nhà 973/70, Nguyễn Ảnh T, phường T, Quận A, ông xác định đây tài sản
chung của ông H. Ông đang trực tiếp quản lý, sử dụng căn nhà nêu trên.
Ông không tự nguyện ký cam kết tài sản riêng cho bà H mà là do tin tưởng bà H
nên ông mới ký. Ông xác nhận ông đang quản lý, chiếm hữu chiếc xe ô biển
số 51G-55097 của Công ty TNHH X. Nay, ông không đồng ý với các yêu cầu
khởi kiện của H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty TNHH X yêu cầu độc
lập như sau: Công ty sở hữu 01 chiếc xe ô 01 xe ô hiệu Toyota, loại
Camry, Biển số 51G-550.97, số khung: RL4BN3FKXJ1006227, số máy:
6ARP388479. Tuy nhiên, chiếc xe này hiện do ông D đang chiếm hữu và không
chịu trả lại cho Công ty. Nay, Công ty yêu cầu Tòa án buộc ông Hồ Tấn D hoàn
trả lại 01 xe ô hiệu Toyota, loại Camry, Biển số 51G-550.97, số khung:
RL4BN3FKXJ1006227, số máy: 6ARP388479 cho Công ty TNHH X ngay sau
khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Bản án số 425/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 đã tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị H.
Buộc ông Hồ Tấn D phải trả lại nhà và đất thuộc thửa đất số 701, tờ bản đồ
số 19, tọa lạc tại địa chỉ số: 973/70, N, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh cho bà Phạm Thị H ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật do là tài sản
riêng của H. Nhà đất nêu trên đã được Sở Tài nguyên Môi trường Thành
phố H cấp Giấy chứng nhận số CN 623035, số vào sổ cấp GCN: CS 13556 ngày
08/5/2019, cập nhật đính chính ngày 11/7/2019.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của Công ty TNHH X.
Buộc ông Hồ Tấn D phải trả lại 01 xe ô hiệu Toyota, loại Camry, Biển
số 51G-550.97, số khung: RL4BN3FKXJ1006227, số máy: 6ARP388479 cho
Công ty TNHH X ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Đình chỉ xét xử đối với các yêu cầu khởi kiện của Phạm Thị H do H
rút lại yêu cầu, gồm yêu cầu ông Hồ Tấn D khôi phục lại hiện trạng nhà ở, nếu
không tnguyện thực hiện thì buộc ông D bồi thường thiệt hại 50.000.000
đồng do gây ra hư hỏng, giảm sút giá trị tài sản; Buộc ông Hồ Tấn D hoàn trả lại
4
01 xe ô hiệu Toyota, loại Camry, Biển số 51G-550.97, số khung:
RL4BN3FKXJ1006227, số máy: 6ARP388479; Buộc ông Hồ Tấn D bồi thường
thiệt hại về sức khỏe 15.000.000 đồng; Buộc ông Hồ Tấn D bồi thường thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm, uy n bị xâm phạm gồm chi phí thu thập tài liệu,
chứng cứ là 5.000.000 đồng và thu nhập bị giảm sút trong 03 tháng là 45.000.000
đồng; Buộc ông Hồ Tấn D bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm gồm chi
phí thuê chỗ 7.000.000 đồng/tháng; chi phí đi lại là 5.000.000 đồng/tháng,
tạm tính từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2023 30 tháng, tương đương
360.000.000 đồng.
Ngoài ra bản ra án thẩm n tuyên về án phí và quyền kháng cáo của
đương sự.
Ngày 30/7/2024, bị đơn kháng cáo bản án sơ thẩm đề nghị hủy ánthẩm,
để xét xử lại không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn trình bày:
Đối với tài sản căn nhà 9 N, Quận A thì đây tài sản riêng của mua
năm 2015, đến năm 2019 thì ông D xác nhận tài sản riêng theo văn bản cam
kết tài sản riêng lập ngày 16/9/2019 đã được chứng thực chữ số công chứng
001242 tại Văn phòng C. Trong quá trình chung sống thì ông D đánh đập bà gây
thương tích nên bà phải rời khỏi nhà từ năm 2020, ông D chiếm luôn tài sản của
bà, nên không thể nào quay vnhà của mình. Hiện ông D đang ly hôn
tại Toà án nhân dân Quận O và đang chia tài sản chung là căn nhà ở Đà Nẵng.
Đối với chiếc xe ô thì xe của công ty; ông D cũng đang chiếm giữ, sử
dụng; do bà không biết lái xe nên ông D hay lái xe giluôn xe không trả cho
công ty.
đề nghị Toà án giữ nguyên bản án thẩm vì các tài sản ông D chiếm
giữ là tài sản riêng của bà và công ty.
Bị đơn trình bày: Kháng cáo toàn bộ bản án thẩm cấp thẩm không
xem xét toàn diện, không xem xét nguồn gốc tài sản, đề nghị hủy bản án
thẩm.
Về nguồn gốc nhà đất 973/70 N, phường T, Quận A là do ông và bà H cùng
mua đất năm 2015. Thực tế ông sống với bà H từ năm 2010 trước đó sống
Bình Dương, khi đó bán đất Bình Dương, H lấy hết tiền; sau khi xây
xong nhà Quận A thì vợ chồng mới dọn về. Năm 2022 ông có trang trí lại một
5
phần nhà để mở phòng trà Đêm H, không xin phép, không thay đổi kết cấu
nhà, có xin phép kinh doanh và hiện nay ông còn đang nợ thuế.
Về chiếc xe thì xe chung của vợ chồng, H giám đốc công ty nên để
công ty đứng tên, ông là người sử dụng quản lý xe.
Do đó H đòi hai tài sản trên cho rằng tài sản riêng của H
không đúng.
Ông xác định đối với các tài sản này tông chỉ lời trình bày, không
chứng cứ chứng minh là tài sản chung vì ông quá tin bà H.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày: Quá trình
chung sống của H ông D từ năm 2010, sống tại Bình Dương sau đó
bán nhà đất ở Bình Dương mua nhà đất 9 N, Quận A. Mặc dù đến năm 2016 mới
đăng kết hôn nhưng ông D chứng minh được thời gian chung sống trước đó
vớiH có tài sản chung, ông D có cùng bà H mua đất, sau đó xây dựng nhà
Quận A. Việc ông D xác nhận tài sản riêng cho H tin tưởng H.
Thực chất đây là tài sản chung của vợ chồng.
Hiện căn nhà trên ông đang kinh doanh nhưng cấp thẩm không xem xét
giải quyết đối với sở kinh doanh, sửa chữa. Giấy chứng nhận kinh doanh của
công ty TNHH X trước khi kết hôn nhưng sau này tăng giảm vvốn sau
khi kết hôn, thể hiện ông có đóng góp trong công ty.
Đối với chiếc xe ô thì ông D người đang quản sử dụng mặc
đứng tên công ty nhưng toàn bộ qtrình mua xe cũng như nghiệm thu, sữa
chữa xe là do ông D. Do vậy sở xác định đây tài sản chung của ông D
bà H không phải là tài sản của công ty.
Về xem xét thẩm định tại chỗ, toà sơ thẩm chưa xem xét làm rõ hiện trạng.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH X - H
giám đốc công ty trình bày:
Xe ô biển số 51G-550.97 của công ty. Do ông D chồng H, nên
ông D thường lái xe, ông D đã chiếm luôn xe và không trả lại công ty.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố HCMinh tham dự phiên
tòa phát biểu ý kiến như sau:
Về hình thức: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định pháp
luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử. Tại phiên tòa phúc thẩm cho đến
trước khi nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tiến hành phiên tòa đúng trình
6
tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án
đã chấp hành đúng quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của mình.
Về thời hạn kháng cáo của các đương sự là còn trong hạn luật định.
Về yêu cầu kháng cáo của bị đơn: Do tài sản đang tranh chấp có vay và thế
chấp tại Ngân hàng P ngày 16/01/2016 nên cần đưa Ngân hàng vào tham gia tố
tụng;
Đồng thời cần xem xét lại phần sửa chữa nhà theo lời trình bày của ông D
tại phiên toà phúc thẩm.Vì vậy, căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân
sự đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn nộp trong thời hạn theo
quy định tại Điều 272, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được chấp
nhận xemt li bn án theo th tc phúc thm.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đơn xin vắng mặt, nhưng mặt tại phiên toà phúc thẩm ngày 25/11/2024,
vắng mặt ngày 23/12/2024 nên Toà xét xử vắng mặt họ theo quy định tại khoản
1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung kháng cáo: Bị đơn yêu cầu hủy án sơ thẩm.
Về nguồn gốc nhà đất:
Căn nhà trên doPhạm Thị H nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Ngọc
H2 bà Thị H3 theo Hợp đồng số công chứng 36848, quyển số 12 TP/CC-
SCC/HĐGD lập ngày 11/12/2015 tại Phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh;
hợp đồng tín dụng số 0704/2015/HĐTD-CN ngày 11/12/2015 H đã vay số
tiền 1.500.000.000 đồng để mua đất tại thửa số 701, tờ bản đồ 19, phường T,
Quận A và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0704/2016/BĐ ngày
16/01/2016 tại Ngân hàng TMCP P, tài sản thế chấp là thửa đất trên.
Căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số CN 623035, số vào sổ cấp GCN: CS 13556 do Sở
Tài nguyên và Môi trường Thành phố H cấp ngày 08/5/2019;
Căn cứ theo Giấy phép xây dựng số 4037/GPXD-UBND ngày 01/6/2018
và số 4805/GPĐC-UBND ngày 27/6/2018 do Ủy ban nhân dân Quận A cấp;
Căn cứ theo Văn bản cam kết tài sản riêng lập ngày 16/9/2019, đã được
chứng thực chữ ký số 001242, quyển số 01-SCT/CK, ĐC tại Văn phòng C;
7
Căn cứ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 09/2016 do Ủy ban nhân dân xã
D, huyện D, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 15/02/2016.
Quá trình hình thành và thế chấp tài sản cũng như xây dựng tài sản trên ông
D đều xác định đây là tài sản riêng của bà H.
Tại phiên tòa thẩm, ông D không chứng cứ chứng minh việc đưa
tiền cho H để đi mua đất, xây dựng nhà. Ông D khai nhà đất nêu trên ông
đang quản lý, sử dụng và không sửa chữa, không thay đổi hiện trạng, kết cấu.
Tại phiên toà phúc thẩm, ông D khai bắt đầu kinh doanh phòng trà Đêm
Huyền D1 từ năm 2022 và hiện còn đang nợ thuế của cơ sở trên.
Căn cứ tài liệu chứng cứ ông D1 nộp tại giai đoạn phúc thẩm: xét ông D1
không cung cấp tài liệu chứng cứ về việc xây dựng sửa chữa;
Đối với việc ông D1 kinh doanh còn nợ thuế đối với quan nhà nước
trách nhiệm nhân ông D1, nên ông D1 thực hiện trách nhiệm nhân khi
cơ quan nhà nước có yêu cầu;
Các tài liệu liên quan đến xe ô do ông D1 cung cấp chỉ thể hiện ông D1
là người sử dụng, liên hệ sửa chữa bảo trì; không xác lập quyền sở hữu cũng như
không có tài liệu chứng cứ thể hiện sở hữu chung tài sản với công ty;
Xét ông D1 không có cung cấp tài liệu chứng cứ tại giai đoạn tiếp cận công
khai chứng cứ không yêu cầu cấp thẩm xem xét giải quyết, không cho
vào thẩm định nên trong phạm vi xét xử phúc thẩm, cấp phúc thẩm không xem
xét đánh giá giải quyết yêu cầu trên;
Bà H ký thế chấp và vay Ngân hàng P trước thời điểm đăng ký kết hôn, ông
D1 đã ký xác nhận tài sản riêng. Do đó, không cần đưa Ngân hàng vào tham gia
tố tụng; đủ sđể xác định quyền sử dụng đất quyền sở hữu đối với tài
sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 701, tờ bản đồ số 19, tọa lạc tại địa chỉ: 9
N, phường T, Quận A, đã được cấp Giấy chứng nhận số CS 13556 tài sản
riêng của bà H.
Xét ông D1 người đang quản lý, sdụng nhà đất trên, căn cứ Khoản 2
Điều 164 Khoản 1 Điều 166 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định chủ sở
hữu quyền yêu cầu Tòa án buộc người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản
không n cứ pháp luật phải trả lại tài sản, quyền đòi lại tài sản nên yêu
cầu của nguyên đơn căn cứ, cấp thẩm chấp nhận yêu cầu trên của
nguyên đơn là phù hợp.
Về yêu cầu độc lập của người liên quan: n cứ theo Giấy chứng nhận
đăng xe ô do Phòng cảnh sát giao thông Công an Thành phố H cấp thể
8
hiện xe ô tô có số khung RL4BN3FKXJ1006227, số máy: 6ARP388479, biển số
51G-550.97 thuộc quyền sở hữu của Công ty TNHH X.
Công ty ông D1 đều xác nhận ông D1 đang quản lý, sdụng chiếc xe
trên. ông D1 cho rằng chiếc xe tài sản chung của ông H nên ông
quyền quản lý, sử dụng, không cần có sự đồng ý của Công ty.
Như đã phân tích trên, chủ sở hữu quyền đòi lại tài sản đang bchiếm
giữ trái phép, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu độc lập của Công ty
TNHH X buộc ông D1 phải trả lại chiếc xe nêu trên cho Công ty TNHH X.
Đối với yêu cầu khởi kiện của H về việc yêu cầu ông D1 bồi thường thiệt
hại 50.000.000 đồng do gây ra hỏng, giảm sút giá trị tài sản; bồi thường
thiệt hại về sức khỏe 15.000.000 đồng; bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm chi phí thu thập tài liệu, chứng cứ 5.000.000
đồng và thu nhập bị giảm sút trong 03 tháng là 45.000.000 đồng; bồi thường thiệt
hại do tài sản bị xâm phạm gồm chi phí thuê chỗ là 7.000.000 đồng/tháng; chi
phí đi lại là 5.000.000 đồng/tháng, tạm tính từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2023
30 tháng, tương đương 360.000.000 đồng. Do H đã t các yêu cầu nêu trên
nên cấp sơ thẩm đình chỉ là phù hợp.
Từ những cơ sở trên, cấp thẩm không vi phạm thủ tục tố tụng; đã xem
xét đánh giá nội dung vụ án một cách toàn diện khách quan; yêu cầu kháng cáo
của bị đơn là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
Xét đề nghị hủy bản án sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh là không cần thiết nên không được chấp nhận.
Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu của bị đơn không được chấp nhận
nên phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 272, Điều 273, Khoản 2 Điều 296
Khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 115, Điều 163, Điều 164, Điu 166 B lut Dân s năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;
Xử:
9
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông ông Hồ Tấn D.
Giữ nguyên Bản án thẩm số 425/2024/DS-ST ngày 25/7/2024 của Tòa
án nhân dân Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Án phí dân sự phúc thẩm:
Bị đơn ông D phải nộp án phí dân sự phúc thẩm 300.000đ được trừ vào
số tiền tạm ứng án phí do ông D đã nộp theo biên lai số 0005081 ngày 01/8/2024
của Chi cục Thi hành án Dân sự Quận O.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi
hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa
đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
-Tòa án nhân dân Cấp cao tại
TP.HCM;
- VKSND Cấp cao tại TP.HCM;
-VKSND Thành phố HCM;
- Chi cục THADS Quận O;
- Tòa án nhân dân Quận O;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thị Như Hà
Tải về
Bản án số 1060/2024/DS-PT Bản án số 1060/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 1060/2024/DS-PT Bản án số 1060/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất