Bản án số 1012/2023/HS-PT ngày 27/12/2023 của TAND cấp cao về tội giết người
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án 1012/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 1012/2023/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1012/2023/HS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 1012/2023/HS-PT ngày 27/12/2023 của TAND cấp cao về tội giết người |
|---|---|
| Tội danh: | 123.Tội giết người (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao |
| Số hiệu: | 1012/2023/HS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Trường G1 và đồng phạm tội giết người |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Khương
Các Thẩm phán:
Ông Lê Văn An
Bà Nguyễn Thị Thụy Vũ
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Hữu Trung - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Trần Anh Dũng - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 730/2023/TLPT-HS
ngày 26 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Trường G1 và đồng phạm, do
có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2023/HS-ST
ngày 16 - 8 - 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1581/2023/QĐXXPT-
HS ngày 22 tháng 11 năm 2023.
- Bị cáo có kháng cáo:
1/ Nguyễn Trường G1; sinh năm 1979, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú:
Khóm 1, phường 5, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình
độ học vấn: 7/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch:
Việt Nam; con ông Nguyễn Trung C, sinh năm 1933 (đã chết) và bà Tạ Huệ P,
sinh năm 1950; có vợ Huỳnh Thị Mỹ L và 02 người con; Tiền án: không; tiền
sự: Ngày 25/5/2022 bị Công an thành phố T xử phạt 750.000 đồng về hành vi
“Gây rối trật tự công cộng”; Bị cáo bị bắt và tạm giữ từ ngày 11/10/2022 sau đó
chuyển giam cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Nhân thân: Ngày 03/01/2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xử phạt
08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Ngày 31/5/2013 bị Tòa án
nhân dân thành phố T xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1012/2023/HS-PT
Ngày 27-12-2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979): Luật sư
Trần Văn D thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Trà Vinh và Luật sư Nguyễn Hồng N
thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2/ Nguyễn Trường G2; sinh ngày: 02/8/1993, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư
trú: ấp VH, xã LĐ, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình
độ học vấn: 07/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:
Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu N, sinh năm 1964 và bà Trần Thị H, sinh năm:
1968; bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Võ Thị Thanh M và 01 người
con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/10/2022 sau đó
chuyển giam cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993): Luật sư
Trần Văn D thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Trà Vinh và Luật sư Nguyễn Hồng N
thuộc đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
3/ Nguyễn Quốc H; sinh ngày: 26/02/1999, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú:
ấp ĐB, xã HT, huyện CT, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học
vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Khmer; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Nguyễn B, sinh năm 1954 và bà Thạch Thị Minh T, sinh năm
1962; có vợ Đoàn Ngọc N và 01 người con; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị
bắt tạm giữ từ ngày 11/10/2022 sau đó chuyển giam cho đến nay (bị cáo có mặt
tại phiên tòa).
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc H: Luật sư Nguyễn Hồng N,
thuộc đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
4/ Nguyễn Thành Nh; sinh ngày 24/4/1999, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú:
ấp PH, xã LĐ, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ
học vấn: 8/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1974 và bà Trần Thị Minh T, sinh năm
1980; bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Lưu Thị Hồng H và 02 người
con; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/10/2022 sau đó
chuyển giam cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Nhân thân: Ngày 19/01/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt
01 năm 06 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành Nh: Luật sư Trần Văn D
thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Trà Vinh và Luật sư Huỳnh Trọng Ng thuộc Đoàn Luật
sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
5/ Lư Gia H2; sinh ngày: 09/9/1999, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: khóm
6, phường 7, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học
vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Lư Quốc H, sinh năm 1975 và bà Trần Thị Kim H, sinh năm
1974; bị cáo sống chung như vợ chồng với chị Phan Nguyễn Trúc H và 01 người
3
con; Tiền án: Ngày 15/5/2020 bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xử phạt 01 năm
tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Bản án số
16/2020/HSST; Tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/10/2022 sau đó
chuyển giam cho đến nay (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Người bào chữa cho bị cáo Lư Gia H2: Luật sư Huỳnh Trọng Ng thuộc
Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
6/ Dương Đình D, sinh ngày 20/4/1999, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: ấp
VB, xã HT, huyện CT, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học
vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt
Nam; con ông Dương Văn H, sinh năm 1969 và bà Mai Thị Th, sinh năm 1972;
có vợ là Nguyễn Mỹ N và 01 người con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt
tạm giam từ ngày 18/11/2022 cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
7/ Huỳnh Hải H, sinh ngày 06/6/1989, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: số
156A; khóm 3, phường 5, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê;
Trình độ học vấn: 7/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc
tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Mỹ
L, sinh năm 1965 (chết); bị cáo có vợ Nguyễn Kim Ngọc T và 02 người con;
Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 10/6/2021 “Đánh bạc” bị Công an phường 5,
thành phố T ra quyết định xử phạt với số tiền 1.500.000 đồng theo Quyết định
số 95 ngày 18/6/202. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày
22/11/2022 cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
8/ Kiên Ngọc T; sinh ngày 03/8/1988, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: số
89A, khóm 4, phường 5, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê;
Trình độ học vấn: không biết chữ; Giới tính: Nam; Dân tộc: Khmer; Tôn giáo:
Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Kiên Ngọc M, sinh năm 1964 và bà Kiên
Thị T, sinh năm 1957; bị cáo có vợ (đã ly hôn)và 02 người con; Tiền án: không;
Tiền sự: Ngày 02/8/2018, sử dụng trái phép chất ma túy, bị Tòa án nhân dân
thành phố T quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính “Đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc” 24 tháng theo Quyết định số 27/QĐ-TA ngày 19/9/2018; Ngày
10/6/2021 “Đánh bạc” bị Công an phường 5, thành phố T xử phạt 1.500.000
đồng theo Quyết định số 89 ngày 18/6/2021; Ngày 15/7/2021 nhiều lần sử dụng
trái phép chất ma túy, bị Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố T áp dụng biện
pháp xử lý hành chính “giáo dục tại phường” thời hạn 03 tháng theo Quyết định
số 237/QĐ-UBND ngày 05/8/2021. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi
cư trú từ ngày 18/11/2022 cho đến nay (bị cáo đã được triệu tập hợp lệ nhưng
vắng mặt không có lý do).
9/ Cao Trí T, sinh ngày 29/11/2003, tại tỉnh Trà Vinh; Nơi cư trú: ấp Đa
C, xã HT, huyện CT, tỉnh Trà Vinh; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn:
10/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
4
con ông Cao Tân C, sinh năm 1970 và bà Trần Thị Đ, sinh năm 1967; Bị cáo
chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày
18/11/2022 cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa cho bị cáo Cao Trí T: Luật sư Phan Văn H, thuộc Đoàn
luật sư tỉnh Trà Vinh (có mặt).
Ngoài ra còn có các bị cáo: Quách Mạnh T, Thạch Hoàn S, Trần Sốc L,
Mai Từ Ch, Kim Sewane T, Mai Tấn V, Phạm Văn T, Quách Tấn H3, Huỳnh
Văn Ch và Giang Tuấn H4 không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
- Bị hại:
1/ Huỳnh Hải T2, sinh năm 1992. Nơi cư trú: khóm 3, phường 5, thành
phố T, tỉnh Trà Vinh (đã chết).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Văn H, sinh ngày 01
tháng 01 năm 1963. Nơi cư trú: số 156A, khóm 3, phường 5, thành phố T, tỉnh
Trà Vinh (vắng mặt).
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn H: Bà Huỳnh Thị
Mỹ C, sinh ngày 30 tháng 6 năm 1987 (theo văn bản ủy quyền ngày 27/4/2023).
Nơi cư trú: số 156A, khóm 3, phường 5, thành phố T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
2/ Huỳnh Hải H, sinh ngày 06 tháng 6 năm 1989. Nơi cư trú: khóm 3,
phường 5, thành phố T, tỉnh Trà Vinh (có mặt).
3/ Kiên Ngọc T, sinh ngày 03 tháng 8 năm 1988. Nơi cư trú: số 89A,
khóm 4, phường 5, thành phố T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Võ Thị Thanh M, sinh ngày 06/12/1995. Nơi cư trú: Khóm 3, phường
7, thành phố T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
2/ Đoàn Ngọc N, sinh năm 1999. Nơi cư trú: Khóm 4, phường 1, thành
phố T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
3/ Lư Quốc H, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Khóm 6, phường 7, thành phố
T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
4/ Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1974. Nơi cư trú: ấp PH, xã LĐ, thành phố
T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
5/ Nguyễn Trường S, sinh năm 1989. Nơi cư trú: khóm 6, phường 4,
thành phố T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
Người có kháng cáo: Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979), Nguyễn
Trường G2 (sinh năm 1993), Nguyễn Thành Nh, Lư Gia H2, Nguyễn Quốc H,
Kiên Ngọc T, Cao Trí T, Dương Đình D và Huỳnh Hải H.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
5
Năm 2020, thông qua mạng xã hội Youtube, bị cáo Nguyễn Trường G1,
(sinh năm 1979) đặt mua 01 khẩu súng dài, dạng súng hơi, trên thân súng có chữ
FXairguns và một số ký hiệu, chữ số khác, với giá 3,5 triệu đồng. Năm 2021,
cũng thông qua mạng xã hội Youtube, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm
1979) tiếp tục đặt mua 02 khẩu súng dài, dạng súng hơi, trên thân súng cũng có
chữ FXairguns và một số ký hiệu, chữ số khác; 03 khẩu súng ngắn gồm: 01 khẩu
súng ngắn màu đen, loại súng Rulo (không nhớ ký hiệu), có ổ đạn xoay chứa
được 06 viên đạn, 01 khẩu súng màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng có các
chữ và ký hiệu “SMITH & WESSON”, “ZP5”, hai mặt tay cầm súng có hình
tròn kim loại màu vàng và 01 khẩu súng màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng
có các chữ và ký hiệu “SMITH & WESSON”, “XYL220728008”, hai mặt tay
cầm súng có hình tròn kim loại màu vàng. Mỗi khẩu súng đều có giá 3,5 triệu
đồng. Đối với các khẩu súng ngắn, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979)
mua vào các thời điểm khác nhau trong năm 2021 và người bán cũng khác nhau.
Sau các lần mua đối với 06 khẩu súng nêu trên, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh
năm 1979) cất giấu tại Nhà nghỉ Giang Linh, địa chỉ khóm 10, phường 7, thành
phố T, tỉnh Trà Vinh và tại khóm 1, phường 5, thành phố T. Đối với các viên
đạn, cũng thông qua mạng xã hội, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979)
đặt mua nhiều lần và nhiều thời điểm khác nhau, không nhớ rõ thời gian; sau khi
mua, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) cất giấu chung với các khẩu
súng ngắn tại 02 địa điểm nêu trên.
Trong thời gian cất giấu các khẩu súng và đạn kể trên, thì khoảng đầu tháng
10/2022, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) có đưa cho bị cáo Lư Gia
H2 01 khẩu súng ngắn màu đen, loại súng Rulo (không nhớ ký hiệu), ổ đạn xoay
có lắp 06 viên đạn, để bị cáo Gia H2 giúp bị cáo G1 (sinh năm 1979) đi thu tiền
mà bị cáo G1 (sinh năm 1979) đã cho người khác vay; bị cáo Gia H2 nhận khẩu
súng cùng với số viên đạn xong đem cất giấu trong phòng ngủ nhà của bị cáo
Gia H2 tại khóm 6, phường 7, thành phố T.
Ngày 09/10/2022, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) đưa cho bị
cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) 01 khẩu súng ngắn màu đen, loại súng
Rulo, trên thân súng có các chữ và ký hiệu “SMITH & WESSON”, “ZP5”, hai
mặt tay cầm súng có hình tròn kim loại màu vàng, ổ đạn có lắp 06 viên đạn, để
bị cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) giúp bị cáo Nguyễn Trường G1
(sinh năm 1979) đi thu tiền mà bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) đã
cho người khác vay, nếu cần thì đem súng ra sử dụng; bị cáo Nguyễn Trường
G2 (sinh năm 1993) nhận súng cùng với số viên đạn xong đem cất giấu trong
cốp xe mô tô hai bánh màu đen, hiệu Hayate, biển số 84B1-054.12 (xe này để
trong Nhà nghỉ Giang Linh).
6
Mặt khác, cũng trong ngày 09/10/2022, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh
năm 1979) đưa cho bị cáo Nguyễn Quốc H (tên gọi khác là H Móm) 01 khẩu
súng ngắn màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng có các chữ và ký hiệu
“SMITH & WESSON”, “XYL220728008”, hai mặt tay cầm súng có hình tròn
kim loại màu vàng, ổ đạn có lắp 06 viên đạn; súng và số đạn này được đựng
trong túi màu nâu đen có chữ “LV”, để bị cáo Quốc H giúp bị cáo Nguyễn
Trường G1 (sinh năm 1979) đi thu tiền bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm
1979) đã cho người khác vay; bị cáo Quốc H nhận súng cùng với số viên đạn
xong đem cất giấu tại bàn tiếp tân trong Nhà nghỉ Giang Linh.
Buổi sáng ngày 10/10/2022, Huỳnh Hải T2 (tên gọi khác là Bé, sinh ngày
26/9/1992, cư trú khóm 3, phường 5, thành phố T) nhắn tin qua ứng dụng
Messenger hẹn vợ của bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) là chị Huỳnh
Thị Mỹ L (sinh năm 1983) đến quán cà phê Phú Quý ven đường D5 thuộc khóm
3, phường 5, thành phố T để giải quyết mâu thuẫn. Biết được thông tin, bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) điện thoại kêu bị cáo Lư Gia H2 mang
khẩu súng có lắp sẵn đạn trong ổ đạn mà bị cáo Gia H2 cất giữ, bị cáo Nguyễn
Quốc H mang khẩu súng có lắp sẵn đạn trong ổ đạn mà bị cáo Quốc H cất giữ,
bị cáo G2 (sinh năm 1993) mang khẩu súng có lắp sẵn đạn trong ổ đạn mà bị cáo
G2 (sinh năm 1993) cất giữ và kêu các bị cáo Nguyễn Thành Nh, bị cáo Dương
Đình D, bị cáo Kim Sewane T đến gặp bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm
1979) tại phường 4, thành phố T để đi gặp nhóm của T2 (Bé). Bị cáo Nguyễn
Trường G1 (sinh năm 1979) thuê xe ô tô (05 chỗ ngồi, màu sơn đen, nhãn hiệu
TOYOTA, loại VIOS, biển số 51G-131.85), chuẩn bị 04 cây dao, 03 khẩu súng
dài cùng với nhiều viên đạn (02 khẩu bên trong túi màu đen, 01 khẩu bên trong
túi màu đen). Khi có nhiều bị cáo trong nhóm đến, bị cáo Nguyễn Trường G1
(sinh năm 1979) kêu Dương Đình D ôm 04 cây dao chỗ băng đá trước nhà
Nguyễn Trường S (em của bị cáo G1, sinh năm 1979) ra để sát tường đầu hẻm
để ai sử dụng thì lấy đi. Do sợ khi gặp nhóm của T2 (Bé) thì nhóm của T2 (Bé)
sẽ dùng hung khí chém, nên bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) nói với
cả nhóm của Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) câu nói “lấy đồ theo”. Nghe
vậy, bị cáo Kim Sewane T lấy 01 cây dao cầm tay, còn lại 03 cây thì bị cáo Tha
đưa cho bị cáo Thạch Hoàn S, bị cáo Mai Từ Ch, bị cáo Trần Sốc L mỗi người
một cây. Bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) mang 02 túi màu đen bên
trong đựng 03 khẩu súng dài đã chuẩn bị như kể trên vào trong xe ô tô để ai
muốn sử dụng thì lấy. Đối với bị cáo Giang Tuấn H4 và bị cáo Cao Trí T, được
bị cáo G2 (sinh năm 1993) kêu tham gia để chở bị cáo trong nhóm, có cầm dao.
Bị cáo Lư Gia H2 (mang theo trên người khẩu súng ngắn, loại súng Rulo) điều
khiển xe mô tô hai bánh loại Wave màu trắng chở bị cáo Mai Từ Ch cầm dao
ngồi phía sau; bị cáo Cao Trí T điều khiển xe mô tô hai bánh Suzuki Satria màu
7
xám chở bị cáo Thạch Hoàn S cầm dao ngồi phía sau; bị cáo Giang Tuấn H4
điều khiển xe mô tô hai bánh Suzuki Satria màu xanh chở bị cáo Trần Sốc L
cầm dao ngồi phía sau; bị cáo Dương Đình D điều khiển xe mô tô hai bánh
Honda Future màu đỏ chở bị cáo Kim Sawane T cầm dao ngồi phía sau. Còn bị
cáo Nguyễn Quốc H (mang theo trên người túi màu nâu đen có chữ “LV” bên
trong đựng khẩu súng ngắn màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng có các chữ
và ký hiệu “SMITH & WESSON”, “XYL220728008”, ổ đạn có lắp đạn) điều
khiển xe ô tô chở bị cáo G2 (sinh năm 1993), cất giấu trong túi quần khẩu súng
ngắn màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng có các chữ và ký hiệu “SMITH &
WESSON”, “ZP5”, ổ đạn có lắp đạn), bị cáo Nguyễn Thành Nh và bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) đem theo 02 túi màu đen bên trong đựng
03 khẩu súng dài, trên thân súng đều có chữ FXairguns và một số ký hiệu, chữ
số khác. Tất cả cùng đến quán cà phê Phú Quý.
Về phía nhóm của Huỳnh Hải T2 (Bé): Khoảng 11 giờ ngày 10/10/2022,
T2 (Bé) chuẩn bị hung khí (nhiều cây dao), ngồi tại quán cà phê Demo ven
đường D5 thuộc khóm 3, phường 5, Thành phố T, tỉnh Trà Vinh (cách quán cà
phê Phú Quý khoảng 100 mét) cùng với người anh ruột là bị cáo Huỳnh Hải H
và 06 bị cáo khác gồm: Phạm Văn T, Huỳnh Văn Ch, Mai Tấn V, Quách Tấn
H3, Quách Mạnh T, Kiên Ngọc T. Khi nhìn thấy nhóm của bị cáo Nguyễn
Trường G1 (sinh năm 1979) điều khiển xe kéo đến, T2 (Bé) cầm dao từ trong
quán Demo chạy ra đường D5 xông đến nhóm của bị cáo Nguyễn Trường G1
(sinh năm 1979); các bị cáo Huỳnh Hải H, Kiên Ngọc T, Quách Tấn H3, Phạm
Văn T mỗi người cầm một cây dao, bị cáo Mai Tấn V cầm 02 cây dao, bị cáo
Quách Mạnh T (cầm chai bia) và bị cáo Huỳnh Văn Ch (cầm chai bia). Các bị
cáo cầm dao đều xông về nhóm bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) để
chém, riêng đối với 02 bị cáo cầm chai bia thì ném về nhóm người của bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979).
Về phía nhóm bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979): 04 bị cáo
(Thạch Hoàn S, Trần Sốc L, Kim Sewane T, Mai Từ Ch) ngồi sau xe mô tô
bước xuống, mỗi bị cáo cầm 01 cây dao chạy xông đến nhóm T2 (Bé). Bị cáo
Lư Gia H2 sử dụng súng ngắn mang theo cầm bắn 01 phát đạn về phía nhóm của
T2 (Bé). Lúc này, bị cáo Quốc H (H Móm) điều khiển xe ô tô chạy đến, bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) ra khỏi xe ô tô, sử dụng khẩu súng dài cầm
bắn vào nhóm người của T2 (Bé); bị cáo Nguyễn Thành Nh ra khỏi xe ô tô cầm
súng dài bắn 01 phát vào nhóm của T2 (Bé); bị cáo G2 (sinh năm 1993) ra khỏi
xe ô tô, sử dụng khẩu súng ngắn màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng có các
chữ và ký hiệu “SMITH & WESSON”, “ZP5” đang mang theo cầm bắn phát thứ
nhất vào nhóm người của T2 (Bé), bắn thêm phát thứ hai thì súng không nổ, nên
bị cáo G2 (sinh năm 1993) tiếp nhận khẩu súng ngắn màu đen, loại súng Rulo,
8
trên thân súng có các chữ và ký hiệu “SMITH & WESSON”, “XYL220728008”
do bị cáo Nguyễn Quốc H đang mang theo đưa cho, bị cáo G2 (sinh năm 1993)
bắn tiếp 02 phát đạn vào nhóm người của T2 (Bé). Riêng bị cáo Dương Đình D,
Cao Trí T và bị cáo Giang Tuấn H4 không có hung khí, ngồi xe mô tô chờ chở
người trong nhóm cùng về. Ngay sau đó, cả nhóm của bị cáo Nguyễn Trường
G1 (sinh năm 1979) lên xe ô tô, xe mô tô tẩu thoát khỏi hiện trường. Bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) gom 02 khẩu súng ngắn màu đen, loại súng
Rulo (01 khẩu trên thân súng có các chữ và ký hiệu “SMITH & WESSON”,
“ZP5”; 01 khẩu trên thân súng trên thân súng có các chữ và ký hiệu “SMITH &
WESSON”, “XYL220728008”) và gom 03 khẩu súng dài (01 khẩu vẫn còn
trong túi màu đen không sử dụng đến) cùng với nhiều viên đạn bỏ vào 02 túi
màu đen, rồi kêu bị cáo Quốc H và bị cáo G2 (sinh năm 1993) mang đi đưa cho
bị cáo Dương Đình D cất giấu. Bị cáo Dương Đình D nhận và cất giấu trong bụi
cây gần nhà của bị cáo tại ấp Vĩnh Bảo, xã HT, huyện CT, tỉnh Trà Vinh. Còn bị
cáo Lư Gia H2 mang khẩu súng ngắn màu đen, loại súng Rulo (không nhớ ký
hiệu) cất giấu tại nhà của Nguyễn Trường S (là em ruột của bị cáo Giang sinh
năm 1979) thuộc khóm 6, phường 4, thành phố T, khẩu súng này Cơ quan điều
tra đã tiến hành khám xét nhưng không tìm thấy.
Đối với Huỳnh Hải T2 (Bé) bị trúng 02 phát đạn bị thương nặng được đưa
đến bệnh viện cấp cứu và tử vong tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh. Bị cáo
Kiên Ngọc T bị trúng 01 phát đạn bị thương đến điều trị tại Bệnh viện đa khoa
Trà Vinh; sau đó, T được chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí
Minh điều trị. Bị cáo Huỳnh Hải H bị trúng 02 phát đạn bị thương nhưng không
đến điều trị tại bệnh viện, mà tự đến bác sĩ tư chữa trị.
* Vật chứng, đồ vật thu giữ bao gồm:
- 01 xe ô tô, 05 chỗ ngồi, màu sơn đen, nhãn hiệu TOYOTA, loại VIOS,
biển số 51G-131.85, xe đã qua sử dụng và có nhiều vết trầy xước.
- 01 xe mô tô hai bánh, màu sơn xanh – đen, hiệu Satria F150, biển số
84B2-047.48.
- 01 khẩu súng màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng có chữ và ký hiệu
“SMITH & WESSON”, “ZP5”; hai mặt tay cầm súng có hình tròn kim loại màu
vàng.
- 05 viên đạn bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng kim loại màu xám đen
(khi thu giữ bên trong ổ đạn của súng Rulo, trên thân súng có chữ và ký hiệu
“SMITH & WESSON”, “ZP5”).
- 01 khẩu súng màu đen, loại súng Rulo, trên thân súng có chữ và ký hiệu
“SMITH & WESSON”, “XYL220728008”; hai mặt tay cầm súng có hình tròn
kim loại màu vàng.
9
- 06 viên đạn bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng kim loại màu xám đen
(khi thu giữ chứa trong ổ đạn của khẩu súng Rulô, trên thân súng có chữ và ký
hiệu “SMITH & WESSON”, “XYL220728008”).
- 01 khẩu súng dài 64,7cm, trên thân súng có chữ và ký hiệu “FXairguns”,
“No 544454”; chiều dài nòng súng 41 cm, chiều dài bộ phận ngắm 32,1 cm,
chiều dài ống hơi là 24,7 cm, có 02 đồng hồ đo áp suất.
- 10 viên đạn chì (khi thu giữ chứa trong hộp tiếp đạn của khẩu súng dài
64,7cm, trên thân súng có chữ và ký hiệu “FXairguns”, “No 544454”).
- 22 viên đạn chì.
- 01 đoạn kim loại hình chữ L (khóa mở).
- 01 khẩu súng dài 54,7 cm, trên thân súng có chữ “FXairguns”, seri nòng
súng: AAC85706318, No 544454; chiều dài nòng súng 32,5 cm, chiều dài ống
hơi là 40,3 cm, có 02 đồng hồ đo áp suất.
- 09 viên đạn chì (khi thu giữ chứa trong hộp tiếp đạn của khẩu súng dài
54,7 cm, trên thân súng có chữ “FXairguns”, seri nòng súng: AAC85706318, No
544454).
- 01 khẩu súng dài 66,8 cm, trên thân súng có chữ “FXairguns”; chiều dài
nòng súng 42,3 cm, chiều dài ống hơi là 50 cm, có 02 đồng hồ đo áp suất.
- 10 viên đạn chì (khi thu giữ chứa trong hộp tiếp đạn của khẩu súng dài
66,8 cm, trên thân súng có chữ “FXairguns”).
- 13 viên đạn bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng kim loại màu xám
đen.
- 01 viên đạn bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng nhựa cao su màu xám
đen.
- 01 khối kim loại màu xám, dài 0,6cm.
- 01 khối kim loại dạng dẹt, màu xám, dài 1,3cm, rộng 0,6cm, dày 0,3cm.
- 01 mảnh kim dạng dẹt màu xám, kích thước lớn nhất 0,7 x 0,3cm.
- 01 khối kim loại hình trụ màu xám, đường kính 0,5cm.
- 01 khối kim loại màu xám, dạng hình nấm dài 0,6cm; phần đầu bị trầy
xước, biến dạng; phần đuôi tròn, biến dạng dẹt, có nhiều rãnh.
- 01 khối kim loại màu xám, dạng hình nấm dài 0,6cm; phần đầu bị trầy
xước, biến dạng; phần đuôi tròn, có nhiều rãnh, đường kính 0,5cm.
- 01 khối kim loại màu xám, đường kính lớn nhất 0,7cm, dày 0,4cm, mặt
lồi có bám chất màu hồng.
- 01 ống ngắm màu đen nhãn hiệu Bushnell, dài 31cm.
- 01 túi màu đen, có dòng chữ “Duy Ngọc” màu trắng, túi dài 67cm, nơi
rộng nhất 25cm.
- 01 túi màu đen, có chữ “Penn US” màu xanh, túi dài 70cm, nơi rộng nhất
23cm.
10
- 01 túi xách màu nâu đen có nhiều hoa văn và chữ “LV”, túi có kích thước
31 x 18cm.
- 01 cây kiếm bằng kim loại, dài 80cm, phần cán dài 23cm; kiếm có vỏ bên
ngoài, bên trong phần lưỡi bằng kim loại màu trắng dạng thanh dẹp, nơi rộng
nhất là 03cm, mũi nhọn, lưỡi sắc, sống kiếm dày 0,3cm.
- 01 cây dao dài 39cm, phần cán bằng gỗ màu đen dài 33,5cm, có vỏ bằng
nhựa bên trong phần lưỡi bằng kim loại màu trắng dạng thanh dẹp, nơi rộng nhất
là 3,8cm, mũi nhọn, lưỡi sắc, sống dao dày 0,3cm.
- 01 cây dao dài 46cm, cán dao bằng gỗ dài 14cm, đường kính 3,5cm; phần
lưỡi dao bằng kim loại, mũi dao nhọn, nơi rộng nhất 6,5cm, cạnh sắc, sống dao
dày 0,3cm.
- 01 cây dao (có hình dạng giống cây đao), tổng chiều dài 56cm; cán dao
được ốp gỗ hai bên, dài 16cm; lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, dài 40cm, một
cạnh sắc bén, mũi dao nhọn, trên lưỡi dao có 07 lỗ tròn.
- 01 cây dao có chiều dài 78cm; cán dao bằng kim loại màu đen, dài 22cm;
lưỡi dao bằng kim loại màu đen, dài 56cm, một cạnh sắc bén, mũi dao nhọn, trên
lưỡi dao có 01 lỗ tròn và 08 khía hình răng cưa.
- 01 cây dao tổng chiều dài 80cm; cán dao bằng kim loại màu đen, dài
23cm; lưỡi dao bằng kim loại màu đen, dài 57cm, một cạnh sắc, mũi dao bằng
(hơi nhọn về phía mũi dao), trên lưỡi dao có một lỗ tròn.
- 01 cây dao tổng chiều dài 92cm, cán dao bằng kim loại dài 58cm; lưỡi
dao bằng kim loại dài 34cm, một cạnh sắc, mũi dao bằng (hơi nhọn về phía mũi
dao).
- 01 cây dao tổng chiều dài 93cm, cán dao bằng kim loại dài 59cm; lưỡi
dao bằng kim loại dài 34cm, một cạnh sắc bén, mũi dao bằng (hơi nhọn về phía
mũi dao).
- 01 cây dao bằng kim loại, dài 58cm, cán dao bằng nhựa màu đen, dài
13cm; lưỡi dao bằng kim loại màu đen, dài 45cm, lưỡi dao rộng 6,2cm, một
cạnh sắc, mũi dao bằng.
- 01 cây dao bằng kim loại, dài 66cm, cán dao bằng gỗ màu nâu, dài 16cm;
lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, dài 50cm, một cạnh sắc, mũi dao nhọn, phần
lưỡi dao có hình răng cưa, dài 14cm.
- 01 cây dao bằng kim loại màu đen, tổng chiều dài 179cm; cán dạng ống
tròn dài 120cm được quấn vải màu đen; lưỡi dài 59cm, một cạnh sắc, mũi nhọn,
nơi rộng nhất 6,5cm.
- 01 cây dao bằng kim loại màu đen, tổng chiều dài 179cm; cán dạng ống
tròn dài 120cm được quấn vải màu đen - vàng; lưỡi dài 59cm, một cạnh sắc, mũi
nhọn, nơi rộng nhất 6,5cm.
11
- 01 cây dao bằng kim loại màu đen, tổng chiều dài 167cm; cán dạng ống
tròn dài 100cm được quấn vải màu đen; lưỡi dài 67cm, một cạnh sắc, mũi nhọn,
nơi rộng nhất 6,5cm.
- 01 cây dao bằng kim loại màu đen, tổng chiều dài 166cm; cán dạng ống
tròn dài 100cm được quấn vải màu đen; lưỡi dài 66cm, một cạnh sắc, mũi nhọn,
nơi rộng nhất 6,5cm.
- 01 cây rựa dài 87cm, cán bằng gỗ dài 57cm, đường kính 5,3cm, lưỡi cùng
(lục), sống rựa dày 0,4cm.
- Nhiều mảnh thủy tinh, là mảnh vỡ từ chai bia.
- 01 điện thoại di động, đã qua sử dụng, nhãn hiệu Iphone 8 Plus, màu đỏ,
màn hình cảm ứng.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, đã qua sử dụng, loại phím bấm
màu đen, không kiểm tra bên trong.
- 01 điện thoại di động màu vàng gold, đã qua sử dụng, loại Iphone 6 Plus,
số máy: MKVQ2LL/A, số seri: FCCQV172GR VM, không kiểm tra bên trong.
- 01 cái áo thun màu xanh, ngắn tay, nhãn hiệu ZARA; mặt trước thân áo
phía dưới cổ có một vết thủng hình tròn, rìa nham nhở, đường kính 0,5cm, cách
cổ áo 06cm, cách mép ngoài tay áo bên phải 39cm, xung quanh vết thủng bám
nhiều chất màu đen.
- 01 cái quần lửng bằng vải màu đen; mặt trong bên phải phía dưới lưng
quần có một vết thủng tròn, rìa nham nhở, đường kính 0,4cm cách lưng quần
11cm, cách túi quần phải 09cm.
- Dữ liệu điện tử gồm 05 đoạn video ghi lại hình ảnh động nhóm bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) kéo nhau đi đến đường D5, nhóm bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) thanh toán với nhóm T2 (Bé) tại khu vực
hiện trường đường D5 thuộc khóm 3, phường 5, thành phố T – các đoạn video
này được lưu trữ trong bộ nhớ 05 đĩa CD).
Cơ quan điều tra gửi 03 khẩu súng dài; 02 khẩu súng ngắn; 01 khối kim
loại hình trụ màu xám (được chứa trong túi niêm phong mã số NS4 2071221);
01 khối kim loại màu xám (được chứa trong túi niêm phong mã số NS4
2071220); 01 mảnh kim loại dạng dẹt màu xám (được chứa trong túi niêm
phong mã số NS4 2071219); 01 khối kim loại dạng dẹt màu xám (được chứa
trong túi niêm phong mã số NS4 2071218); 01 khối kim loại màu xám dạng
hình nấm dài 0,6cm, phần đầu bị trầy xước, biến dạng, phần đuôi tròn, có nhiều
rãnh, đường kính 0,5cm (được chứa trong túi niêm phong mã số NS4 2071393);
01 khối kim loại dạng hình nấm dài 0,6cm, phần đầu bị trầy xước, biến dạng,
phần đuôi tròn, biến dạng dẹt, có nhiều rãnh (được chứa trong túi niêm phong
mã số NS4 2071386) đã được thu giữ nêu trên trưng cầu giám định.
12
Tại Bản kết luận giám định số 6102/KL-KTHS ngày 10/11/2022 của Phân
viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
“- 03 khẩu súng hiệu FXairguns gửi giám định là súng hơi thuộc nhóm
súng săn, không phải là vũ khí quân dụng.
- 02 khẩu súng Rulo ghi hiệu “SMITH & WESSON” gửi giám định nguyên
là súng đồ chơi nguy hiểm dạng ổ quay, đã được thay đổi kết cấu ổ quay, kim
hỏa, nòng súng để bắn được các loại đạn cỡ (5,6x15)mm. Đây là vũ khí có tính
năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng, thuộc nhóm vũ khí quân dụng.
- Các mẫu vật được chứa trong các túi niêm phong có các mã số NS4
2071393, NS4 2071386, NS4 2071220 là loại đạn mũi dù cỡ 5,5mm, được bắn
ra từ súng hơi.
- Mẫu vật được chứa trong các túi niêm phong có các mã số NS4 2071218
là đầu đạn thể thao cỡ (5,6x15)mm. Các loại súng có cỡ nòng 5,6mm có thể bắn
được đầu đạn trên.
- Không đủ cơ sở xác định các mẫu vật được chứa trong các túi niêm phong
có các mã số NS4 2071221, NS4 2071219 có phải là đầu đạn hay không.
- Không đủ cơ sở xác định các khẩu súng gửi giám định có bắn ra được
những khối, mảnh kim loại được chứa trong các túi niêm phong có các mã số
NS4 2071221, NS4 2071220, NS4 2071219, NS4 2071218, NS4 2071393, NS4
2071386 gửi giám định hay không”.
Sau đó, Cơ quan điều tra tiếp tục trưng cầu giám định đối với “khối kim
loại màu xám” do bị cáo Huỳnh Hải H giao nộp. Tại Bản kết luận giám định số
6425/KL-KTHS ngày 05/12/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành
phố Hồ Chí Minh kết luận:
“- Khối kim loại màu xám gửi giám định là đạn mũi dù cỡ 5,5mm. Đạn này
được bắn ra từ súng hơi cỡ nòng 5,5mm, nòng súng có 12 rãnh xoắn.
- 03 khẩu súng hiệu FXairguns gửi giám định có thể bắn được viên đạn gửi
giám định; 02 khẩu súng Rulo ghi hiệu “SMITH & WESSON” gửi giám định
không bắn được viên đạn trên. Không đủ cơ sở xác định viên đạn gửi đến giám
định là do khẩu súng nào bắn ra. Dùng súng hơi phù hợp bắn đạn mũi dù nêu
trên có khả năng gây sát thương, nguy hại đến tính mạng, sức khỏe con người,
phá hủy kết cấu vật chất”.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 549/KL-KTHS ngày
19/10/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận đối với
Huỳnh Hải T2: “Vết thủng da cơ hình tròn vùng ngực, bẹn; thủng đầu trong
cung trước xương sườn 2 bên trái, thủng mặt trước chòm xương đùi phải; thủng
tim, phổi… Nguyên nhân chính dẫn đến tử vong là do thủng tim, phổi gây mất
máu cấp”.
13
Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số
113/2023/ KLTTCT-TTPY ngày 17/3/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Trà Vinh
kết luận: “Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Kiên Ngọc T tại thời điểm
giám định là 6%; cơ chế hình thành vết thương trên người T là do tác dụng cơ
học và đâm xuyên, vật gây ra thương tích là vật tày cứng, hướng từ ngoài vào
trong”.
Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số
112/2023/KLTTCT-TTPY ngày 17/3/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Trà Vinh
kết luận: “Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Huỳnh Hải H tại thời điểm
giám định là 5%; cơ chế hình thành vết thương trên người Huỳnh Hải H là do
tác dụng cơ học xuyên thủng và đụng dập, vật gây ra thương tích là vật tày cứng,
hướng xuyên từ trước ra sau và từ trái sang phải”.
Trước khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra đã giao trả cho chủ sở hữu xe
ô tô và xe mô tô. Đối với số viên đạn, tổng cộng thu giữ 51 viên đạn chì và 24
viên đạn bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng kim loại màu xám đen; 01 viên
đạn bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng nhựa cao su màu xám đen; qua giám
định, Cơ quan giám định đã sử dụng thực nghiệm 10 viên đạn chì, 09 viên đạn
màu vàng, đầu đạn bằng kim loại màu xám đen và 01 viên đạn bằng kim loại
màu vàng, đầu đạn bằng nhựa cao su màu xám đen. Hiện còn đang tạm giữ: 15
viên đạn bằng kim loại màu vàng, đầu đạn bằng kim loại màu xám đen; 41 viên
đạn chì; 02 khẩu súng ngắn, loại súng Rulo; 03 khẩu súng dài, dạng súng hơi và
các vật chứng, đồ vật còn lại liên quan đến vụ án.
Tại bản cáo trạng số: 18/CT-VKS-P1 ngày 12/5/2023 của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Trà Vinh đã quyết định truy tố các bị cáo:
- Bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979), bị cáo Nguyễn Trường G2
(sinh năm 1993), bị cáo Nguyễn Quốc H về tội “Giết người” theo quy định tại
điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017; tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ
luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; tội “Tàng trữ, sử dụng trái
phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Bị cáo Nguyễn Thành Nh, bị cáo Lư Gia H2 về tội “Giết người” theo quy
định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017; tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Bị cáo Dương Đình D về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại
điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017; tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
14
- Các bị cáo Quách Mạnh T, Thạch Hoàn S, Trần Sốc L, Mai Từ Ch, Kim
Sewane T, Mai Tấn V, Huỳnh Hải H, Kiên Ngọc T, Phạm Văn T, Quách Tấn
H3, Huỳnh Văn Ch, Cao Trí T và Giang Tuấn H4 về tội “Gây rối trật tự công
cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017.
Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2023/HS-ST ngày 16 - 8 - 2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Trà Vinh, tuyên xử:
3. Tuyên bố các bị cáo phạm tội như sau:
- Bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) phạm 03 tội: “Giết người”,
“Gây rối trật tự công cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
- Bị cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) phạm 03 tội: “Giết người”,
“Gây rối trật tự công cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
- Bị cáo Nguyễn Quốc H phạm 03 tội: “Giết người”, “Gây rối trật tự công
cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
- Bị cáo Nguyễn Thành Nh phạm 02 tội: “Giết người” và “Gây rối trật tự
công cộng”;
- Bị cáo Lư Gia H2 phạm 02 tội “Giết người” và “Gây rối trật tự công
cộng”;
- Bị cáo Dương Đình D phạm 02 tội “Gây rối trật tự công cộng” và
“Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;
- Bị cáo Cao Trí T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”;
- Bị cáo Huỳnh Hải H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”;
- Bị cáo Kiên Ngọc T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; khoản
1 Điều 304; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 40; Điều 17; Điều 55;
Điều 58, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) tử hình về tội “Giết người”; 06 (sáu) năm
tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; 06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng
trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành
cho cả 03 tội là tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án;
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; khoản
1 Điều 304; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 39; Điều 17; Điều 55;
Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo
Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) tù chung thân về tội “Giết người”; 05
(năm) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; 05 (năm) năm tù về tội “Tàng
trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải
chấp hành cho cả 03 tội là tù chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ
ngày 11/10/2022;
15
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; khoản
1 Điều 304; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều 58
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn
Quốc H 16 (mười sáu) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Gây
rối trật tự công cộng”; 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ
khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 tội là
24 (hai mươi bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày
11/10/2022;
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b,
s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Nh 14 (mười
bốn) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Gây rối trật tự công
cộng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội là 18 (mười
tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/10/2022;
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b,
s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều
58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lư Gia
H2 15 (mười lăm) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Gây rối
trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội
là 19 (mười chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày
11/10/2022;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1,
2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Dương Đình D 03 (ba) năm tù về tội “Gây
rối trật tự công cộng”; 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân
dụng”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội là 07 (bảy)
năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2022;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Cao Trí T 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối trật
tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2022;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Kiên Ngọc T 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối
trật tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp
hành án;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Hải H 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối

16
trật tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp
hành án.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên phạt đối với các bị cáo: Quách Mạnh
T, Thạch Hoàn S, Trần Sốc L, Mai Từ Ch, Kim Sewane T, Mai Tấn V, Phạm
Văn T, Quách Tấn H3, Huỳnh Văn Ch và Giang Tuấn Hà; tuyên bồi thường dân
sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
- Ngày 24 tháng 8 năm 2023, bị cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993)
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;
- Ngày 25 tháng 8 năm 2023, bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979)
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;
- Ngày 25 tháng 8 năm 2023, bị cáo Kiên Ngọc T kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt;
- Ngày 24 tháng 8 năm 2023, bị cáo Lư Gia H2 kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt;
- Ngày 24 tháng 8 năm 2023, bị cáo Nguyễn Quốc H kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt;
- Ngày 24 tháng 8 năm 2023, bị cáo Nguyễn Thành Nh kháng cáo xin
giảm nhẹ hình phạt;
- Ngày 24 tháng 8 năm 2023, bị cáo Cao Trí T kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt;
- Ngày 24 tháng 8 năm 2023, bị cáo Dương Đình D kháng cáo xin giảm
nhẹ hình phạt;
- Ngày 24 tháng 8 năm 2023, bị cáo Huỳnh Hải H kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt;
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979), Nguyễn Trường G2 (sinh
năm 1993), Nguyễn Thành Nh, Lư Gia H2, Nguyễn Quốc H, Kiên Ngọc T, Cao
Trí T, Dương Đình D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giữ nguyên kháng
cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh
năm 1979), đề nghị: Bị cáo thành thật khai báo, ăn năn hối cải hành vi của mình,
bị cáo tác động gia đình khắc phục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền
5.000.000 đồng, gia đình bị cáo có nhiều người thân tham gia cách mạng được
Đảng, Nhà nước ghi nhận. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới là do lỗi một phần
của phía người bị hại đã đe dọa, chửi bới xúc phạm bị cáo. Sau khi xét xử sơ
thẩm, bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường xong số tiền 222.872.276 đ cho
gia đình bị hại Huỳnh Tuấn Hải, được gia đình bị hại bãi nại xin giảm nhẹ hình
phạt. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo.
17
- Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường G2, sinh
năm 1993, đề nghị: Bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình
hoàn cảnh khó khăn, nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần
hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới: được bị cáo Huỳnh
Hải H là bị hại bị thương tích trong vụ án xin giảm nhẹ hình phạt.
- Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc H, đề nghị: Bị
cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình hoàn cảnh khó khăn. Bị
cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới: được bị cáo Huỳnh Hải H là bị hại bị thương
tích trong vụ án xin giảm nhẹ hình phạt, nên mong Hội đồng xét xử xem xét
giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
- Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành Nh, đề nghị:
Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có phần lệ thuộc bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979), bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải,
bị cáo có con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo tác động gia
đình khắc phục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 2.000.000 đồng. Bị cáo có
thêm tình tiết giảm nhẹ mới: được bị cáo Huỳnh Hải H là bị hại bị thương tích
trong vụ án xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
- Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Lư Gia H2, đề nghị: Bị cáo
đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình hoàn cảnh khó khăn. Bị cáo có
thêm tình tiết giảm nhẹ mới: được bị cáo Huỳnh Hải H là bị hại bị thương tích
trong vụ án xin giảm nhẹ hình phạt, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ
một phần hình phạt cho bị cáo.
- Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Dương Đình D, đề nghị: Bị
cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình hoàn cảnh khó khăn, nên
mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
- Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Cao Trí T, đề nghị: Bị cáo
đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình hoàn cảnh khó khăn, nên mong
Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề
nghị: Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được
tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như
sau:
* Về tố tụng:
18
[1]. Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979),
Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993), Nguyễn Thành Nh, Lư Gia H2, Nguyễn
Quốc H, Kiên Ngọc T, Cao Trí T, Dương Đình D và Huỳnh Hải H là trong hạn
luật định và hợp lệ nên được xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Xét bị cáo Kiên Ngọc T có kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đã được
Tòa án cấp phúc thẩm triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, việc
vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử phúc thẩm. Căn cứ vào
điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến
hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
* Về nội dung:
[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Trường
G1 (sinh năm 1979), Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993), Nguyễn Thành Nh,
Lư Gia H2, Nguyễn Quốc H, Kiên Ngọc T, Cao Trí T, Dương Đình D và Huỳnh
Hải H, Hội đồng xét xử thấy rằng tại phiên Tòa phúc thẩm các bị cáo thừa nhận
hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết, cụ thể như sau:
Ngày 10/10/2022 do có mâu thuẫn với bị hại Huỳnh Hải T2 (Bé), giữa bị
cáo G1 (sinh năm 1979) với bị hại Huỳnh Hải T2 (Bé) hẹn gặp nhau giải quyết
mâu thuẫn ở quán cà phê Phú Quý ven đường D5, đoạn thuộc khóm 3, phường
5, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, nên bị cáo G1 (sinh năm 1979) kêu bị cáo Gia
H2, bị cáo G2 (sinh năm 1993) và bị cáo Quốc H mang theo súng có lắp sẵn đạn
đến gặp bị cáo G1 (sinh năm 1979) tại phường 4, thành phố T, tỉnh Trà Vinh đi
giải quyết mâu thuẫn với Huỳnh Hải T2 (Bé). Đồng thời, bị cáo G1 (sinh năm
1979) còn kêu một số bị cáo khác là bạn của bị cáo tham gia cùng đi giải quyết
mâu thuẫn. Bị cáo G1 (sinh năm 1979) dùng xe ô tô thuê, cung cấp 04 cây dao
(với sự giúp sức của bị cáo Dương Đình D) cho những bị cáo khác tham gia nếu
ai sử dụng thì lấy và bị cáo G1 (sinh năm 1979) mang theo 03 khẩu súng dài
cùng với số viên đạn mà bị cáo mua cất giữ cho những bị cáo khác tham gia nếu
ai sử dụng thì lấy. Tổng cộng bên phía bị cáo G1 (sinh năm 1979) có 12 bị cáo
(bao gồm cả bị cáo G1, sinh năm 1979) tham gia cùng đi giải quyết mâu thuẫn
với Huỳnh Hải T2 (Bé).
Bị cáo Nguyễn Quốc H (mang theo trên người túi màu nâu đen có chữ
“LV” bên trong đựng khẩu súng ngắn, loại súng Rulo là vũ khí quân dụng, ổ
đạn có lắp đạn) điều khiển xe ô tô chở bị cáo G2 (sinh năm 1993, cất giấu
trong túi quần khẩu súng ngắn, loại súng Rulo là nhóm vũ khí quân dụng, ổ
đạn có lắp đạn), bị cáo Nguyễn Thành Nh và bị cáo G1 (sinh năm 1979), 03
khẩu súng dài cùng với số viên đạn để bên trong xe ô tô. Còn lại 08 bị cáo đi
bằng xe mô tô hai bánh, bao gồm: Bị cáo Lư Gia H2 (mang theo trên người
khẩu súng ngắn, loại súng Rulo) điều khiển xe Wave màu trắng chở bị cáo
Mai Từ Ch cầm dao ngồi phía sau; bị cáo Cao Trí T điều khiển xe Suzuki
19
Satria màu xám chở bị cáo Thạch Hoàn S cầm dao ngồi phía sau; bị cáo
Giang Tuấn H4 điều khiển xe Suzuki Satria màu xanh chở bị cáo Trần Sốc L
cầm dao ngồi phía sau; bị cáo Dương Đình D điều khiển xe Honda Future
màu đỏ chở bị cáo Kim Sawane Tha cầm dao ngồi phía sau. Tất cả cùng đến
đường D5 như đã hẹn.
Tại đoạn đường D5 (tuyến đường công cộng, có nhiều hộ dân cư sinh sống
ven đường), các bị cáo Thạch Hoàn S (cầm dao), Trần Sốc L (cầm dao), Kim
Sewane T (cầm dao), Mai Từ Ch (cầm dao) xuống khỏi xe mô tô chạy xông đến
nhóm người của Huỳnh Hải T2 (Bé), hai bên rượt qua lại; bị cáo Lư Gia H2 sử
dụng súng ngắn mang theo cầm bắn 01 phát đạn về phía nhóm của T2 (Bé); bị
cáo G1 (sinh năm 1979) ra khỏi xe ô tô, sử dụng khẩu súng dài cầm bắn vào
nhóm người của T2 (Bé); bị cáo Nguyễn Thành Nh ra khỏi xe ô tô cầm súng dài
bắn vào nhóm của T2 (Bé); bị cáo G2 (sinh năm 1993) ra khỏi xe ô tô, sử dụng
khẩu súng là vũ khí quân dụng đang mang theo cầm bắn phát thứ nhất vào nhóm
người của T2 (Bé), bắn thêm phát thứ hai thì súng không nổ, nên bị cáo G2 (sinh
năm 1993) tiếp nhận khẩu súng là vũ khí quân dụng do bị cáo Nguyễn Quốc H
đang mang theo đưa cho, bị cáo G2 (sinh năm 1993) bắn tiếp 02 phát đạn vào
nhóm người của T2 (Bé). Riêng bị cáo Dương Đình D, Cao Trí T và bị cáo
Giang Tuấn H4 không có hung khí, ngồi xe mô tô chờ chở người trong nhóm
sau khi thực hiện tội phạm về.
Về phía nhóm bị hại Huỳnh Hải T2 (Bé) tham gia rượt đuổi với nhóm của
bị cáo G1 (sinh năm 1979) gồm có: T2 (Bé) cầm 01 cây dao, bị cáo Huỳnh Hải
H cầm 01 cây dao, bị cáo Kiên Ngọc T cầm 01 cây dao, bị cáo Quách Tấn H3
cầm 01 cây dao, bị cáo Phạm Văn T cầm 01 cây dao, bị cáo Mai Tấn V cầm 02
cây dao, bị cáo Quách Mạnh T cầm chai bia và bị cáo Huỳnh Văn Ch cầm chai
bia.
Hậu quả làm Huỳnh Hải T2 (Bé) bị 02 lần trúng đạn tử vong; bị cáo
Huỳnh Hải H bị 02 lần trúng đạn với tỷ lệ thương tích là 5%; bị cáo Kiên Ngọc
T bị trúng 01 viên đạn với tỷ lệ thương tích là 6% (Bị cáo Huỳnh Hải H và Kiên
Ngọc T đồng thời cũng là bị hại).
[4]. Xét thấy, lời khai nhận nêu trên của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù
hợp với các vật chứng, phù hợp với Biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám
định. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo:
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) phạm 03 tội: “Giết người”, “Gây rối
trật tự công cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) phạm 03 tội: “Giết người”, “Gây rối
trật tự công cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
Nguyễn Quốc H phạm 03 tội: “Giết người”, “Gây rối trật tự công cộng” và
“Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
20
Nguyễn Thành Nh phạm 02 tội: “Giết người” và “Gây rối trật tự công
cộng”;
Bị cáo Lư Gia H2 phạm 02 tội “Giết người” và “Gây rối trật tự công
cộng”;
Bị cáo Dương Đình D phạm 02 tội “Gây rối trật tự công cộng” và “Tàng
trữ trái phép vũ khí quân dụng”;
Bị cáo Cao Trí T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”;
Bị cáo Huỳnh Hải H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”;
Bị cáo Kiên Ngọc T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật.
[5]. Xét tính chất của hành vi và hậu quả do các bị cáo thực hiện như đã
nêu trên là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc
sống, các bị cáo đã sử dụng vũ khí quân dụng và các vũ khí khác để tước đoạt đi
tính mạng của người bị hại Huỳnh Hải T2, làm mất trật tự công cộng, gây phản
ứng bất bình cho chính quyền và nhân dân nơi có vụ án xảy ra.
Đây là vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn, nhưng cũng cần phân tích vai
trò của từng bị cáo để xem xét kháng cáo của từng bị cáo.
[6]. Trong vụ án bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) là người đã
tàng trữ nhiều khẩu súng và dao, khi có mâu thuẫn xảy ra bị cáo không chọn
cách xử sự phù hợp với quy định của pháp luật mà rủ các bị cáo khác sử dụng vũ
khí quân dụng để giải quyết mâu thuẫn. Bị cáo là người khởi xướng, rủ rê và giữ
vai trò chính trong vụ án. Bị cáo đã gọi điện tụ tập, lôi kéo nhiều bị cáo tham gia
gây án, trực tiếp thuê xe ô tô chở đồng bọn đi gây án, chuẩn bị và phân phát vũ
khí, hung khí gồm: 06 khẩu súng, 04 cây dao. Bị cáo cũng là người khi gặp
nhóm của bị hại, ngay tức khắc đã dùng súng là vũ khí quân dụng bắn nhiều
phát đạn về phía nhóm người bị hại, làm người bị hại Huỳnh Hải T2 bị tử vong,
bị hại (bị cáo) Kiên Ngọc T bị thương tích 6% và bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H bị
thương tích 5%. Việc bị hại Kiên Ngọc T và bị hại Huỳnh Hải H không chết là
ngoài ý muốn của bị cáo. Bị cáo phạm tội có 02 tình tiết định khung tăng nặng:
giết 02 người trở lên và phạm tội có tính chất côn đồ theo quy định tại các điểm
a và n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bị cáo đã 02 lần bị kết án: ngày 03/01/2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Trà
Vinh xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; ngày 31/5/2013
bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép
chất ma túy” (đã được xóa án tích). Có 01 tiền sự: ngày 25/5/2022 bị Công an
thành phố T xử phạt về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Nhưng bị cáo không
lấy những lần bị xử phạt nêu trên để làm bài học để cải tạo bản thân trở thành
người lương thiện mà lại tiếp tục phạm một lúc 03 tội rất nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng. Mặc dù tại phiên tòa bị cáo có thêm tình tiết mới: sau khi xét
21
xử sơ thẩm bị cáo đã tác động với gia đình đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Trà
Vinh nộp số tiền 222.872.276 đ (hai trăm hai mươi hai triệu, tám trăm bảy mươi
hai nghìn, hai trăm bảy mươi sáu đồng) để tự nguyện thi hành án về bồi thường
dân sự; gia đình của bị cáo cũng đã bồi thường trực tiếp cho bị hại Huỳnh Hải H
5.000.000đ (năm triệu đồng) và bồi thường trực tiếp cho bị hại Kiên Ngọc T
3.440.000đ (ba triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng), được phía người bị hại bãi
nại xin giảm nhẹ hình phạt. Nhưng xét tính chất của hành vi, hậu quả, nhân thân
của bị cáo, thấy rằng: bị cáo là người không chịu ăn năn hối cải, coi thường sức
khỏe tính mạng của người khác và xem thường pháp luật, không còn khả năng
trở thành người có ích cho xã hội nữa. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo
tử hình về tội “Giết người”; 06 (sáu) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”;
06 (sáu) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; tổng hợp
hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 tội là tử hình là có căn cứ, đảm
bảo tính răn đe và cảnh tỉnh cho các đối tượng khác trong xã hội. Nên kháng cáo
xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7]. Bị cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) là người thực hành tích
cực giữ vai trò thứ hai. Khi được bị cáo G1 (sinh năm 1979) rủ và giao súng là
vũ khí quân dụng, bị cáo đã đồng ý mang súng về cất giấu. Khi gặp nhóm của bị
hại, bị cáo là người đã sử dụng khẩu súng ngắn là vũ khí quân dụng ngay tức
khắc bắn 01 phát đạn về phía nhóm người bị hại. Bắn phát thứ hai đạn không nổ,
bị cáo tiếp tục lấy khẩu súng ngắn của bị cáo Nguyễn Quốc H bắn thêm 02 phát
nữa về phía người bị hại góp phần làm người bị hại Huỳnh Hải T2 bị tử vong, bị
hại (bị cáo) Kiên Ngọc T bị thương tích 6% và bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H bị
thương tích 5%. Bị cáo phạm tội có 02 tình tiết định khung tăng nặng: giết 02
người trở lên và phạm tội có tính chất côn đồ theo quy định tại các điểm a và n
khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Mặc dù tại phiên tòa phúc
thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ: được bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H xin
giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ không đáng kể được quy định tại
khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét tính chất của hành vi, hậu quả bị cáo
gây ra cho xã hội là đặc biệt nghiêm trọng, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo tù
chung thân về tội “Giết người”; 05 (năm) năm tù về tội “Gây rối trật tự công
cộng”; 05 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 tội là tù chung thân là
tương xứng, không nặng, nên kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo không được
Hội đồng xét xử chấp nhận.
[8]. Bị cáo Lư Gia H2 cũng là người thực hành tích cực, giữ vai trò thứ ba
trong vụ án. Khi được bị cáo G1 (sinh năm 1979) rủ và giao súng (không phải
vũ khí quân dụng) cho bị cáo, bị cáo đã đồng ý. Khi gặp nhóm của bị hại thì bị
cáo là người đã sử dụng súng bắn phát đầu tiên về phía nhóm người bị hại, góp
22
phần làm người bị hại Huỳnh Hải T2 bị tử vong, bị hại (bị cáo) Kiên Ngọc T bị
thương tích 6% và bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H bị thương tích 5%. Bị cáo phạm
tội có 02 tình tiết định khung tăng nặng: giết 02 người trở lên và phạm tội có
tính chất côn đồ theo quy định tại các điểm a và n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật
Hình sự năm 2015. Bị cáo có nhân thân xấu: ngày 15/5/2020 bị Tòa án nhân dân
tỉnh Trà Vinh xử phạt 01 năm tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ” là thuộc trường hợp tái phạm. Nhưng bị cáo không lấy đó làm
bài học để cải tạo bản thân thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục phạm tội
“Giết người” và tội “Gây rối trật tự công cộng”, Tòa án cấp phúc thẩm xử phạt
bị cáo 15 năm tù về tội “Giết người” và 04 năm tù về tội “Gây rối trật tự công
cộng”, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội là 19 năm tù
là không nặng. Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm
nhẹ: được bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết
giảm nhẹ nhưng không đáng kể, được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự. Do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo không được Hội đồng xét xử
chấp nhận.
[9]. Bị cáo Nguyễn Quốc H cũng là người thực hành tích cực, giữ vai trò
thứ tư trong vụ án. Thể hiện, khi được bị cáo G1 (sinh năm 1979) rủ và giao
súng là vũ khí quân dụng cho bị cáo, bị cáo đã đồng ý mang súng về cất giấu.
Sau đó bị cáo đã mang theo, khi gặp nhóm của bị hại, bị cáo không sử dụng
súng để bắn vào nhóm người bị hại nhưng khi thấy bị cáo G2 (sinh năm 1993)
bắn phát thứ 02 súng không nổ nên bị cáo đã đưa súng của mình cho bị cáo G2
(sinh năm 1993) bắn 02 phát về phía nhóm bị hại, hành vi của bị cáo gián tiếp
làm người bị hại Huỳnh Hải T2 bị tử vong, bị hại (bị cáo) Kiên Ngọc T bị
thương tích 6% và bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H bị thương tích 5%. Bị cáo phạm
tội cũng có 02 tình tiết định khung tăng nặng: Giết 02 người trở lên và phạm tội
có tính chất côn đồ theo quy định tại các điểm a và n khoản 1 Điều 123 Bộ luật
Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ:
được bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm
nhẹ không đáng kể được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét
tính chất của hành vi, hậu quả bị cáo gây ra cho xã hội là đặc biệt nghiêm trọng,
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 16 năm tù về tội “Giết người”; 04 năm tù về
tội “Gây rối trật tự công cộng” và 04 năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép
vũ khí quân dụng”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 tội
là 24 năm tù, là tương xứng không nặng, nên kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo
không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10]. Đối với bị cáo Nguyễn Thành Nh, khi được rủ đi đánh nhau, bị cáo
đã đồng ý và mang theo dao. Bị cáo là người giúp sức, tuy không trực tiếp gây
ra tử vong và thương tích cho các bị hại, nhưng bị cáo biết rõ các đồng phạm với
23
mình mang súng, dao đi đánh nhau nhưng bị cáo vẫn tham gia, không can ngăn
mà bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Ngày 19/01/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân
thành phố T xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (đã được
xóa án tích) nhưng bị cáo không chịu lấy đó làm bài học để cải tạo bản thân
thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục phạm tội giết người và tội gây rối trật
tự công cộng, thể hiện bị cáo là người xem thường pháp luật. Bị cáo phạm tội
cũng có 02 tình tiết định khung tăng nặng: giết 02 người trở lên và phạm tội có
tính chất côn đồ theo quy định tại các điểm a và n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật
Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ:
được bị hại (bị cáo) Huỳnh Hải H xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm
nhẹ không đáng kể được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do
đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Nh 14 (mười bốn) năm tù
về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; tổng
hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội là 18 năm tù là không
nặng, nên kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp
nhận.
[11]. Đối với bị cáo Dương Đình D không phải là người tham gia đánh
nhau, nhưng bị cáo đã chở bị cáo Kimwane T đi, sau đó bị cáo Kimwane T đã sử
dụng dao rượt đuổi nhau gây mất trật tự công cộng, sau đó bị cáo chở Kimwane
T đi về và được bị cáo G1 (sinh năm 1979) nhờ mang 04 khẩu súng đã gây án,
trong đó có 02 khẩu là vũ khí quân dụng đi cất giấu. Hành vi của bị cáo cũng rất
nguy hiểm cho xã hội, đã phạm vào 02 tội: “Gây rối trật tự công cộng” và “Tàng
trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 03 năm tù về
tội “Gây rối trật tự công cộng” và 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí
quân dụng”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội là 07
năm tù là không nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có
tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12]. Đối với bị cáo Cao Trí T không phải là người tham gia đánh nhau,
nhưng bị cáo đã chở bị cáo Thạch Hoàn S đi, bị cáo S đã sử dụng dao rượt đuổi
nhau gây mất trật tự công cộng, sau đó bị cáo chở S đi về. Tòa án cấp sơ thẩm
xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” là không nặng, bị
cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào
mới nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[13]. Riêng đối với các bị cáo Huỳnh Hải H và Kiên Ngọc T là các bị
cáo thuộc nhóm của người bị hại trong vụ án đã có hành vi dùng dao tự chế
tham gia rượt đuổi đánh nhau với nhóm của bị cáo G1 (sinh năm 1979) gây mất
trật tự công cộng.
Trong đó, bị cáo Huỳnh Hải H là người có 01 tiền sự về hành vi đánh
bạc; Bị cáo Kiên Ngọc T có 03 tiền sự về sử dụng trái phép chất ma túy, đánh
24
bạc. Nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội gây rối trật
tự công cộng. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt mỗi bị cáo 03 năm tù về tội “Gây rối
trật tự công cộng” là không nặng. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không được Hội đồng xét xử
chấp nhận.
[14]. Phần quyết định của bản án sơ thẩm về bồi thường dân sự do không
có kháng cáo, kháng nghị nên số tiền 222.872.276 đ (hai trăm hai mươi hai triệu,
tám trăm bảy mươi hai nghìn, hai trăm bảy mươi sáu đồng) do gia đình bị cáo
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Trà
Vinh được xem là số tiền tự nguyện thi hành hành án về bồi thường dân sự, sẽ
được Cục Thi hành án dân sự tỉnh Trà Vinh xử lý theo quy định của pháp luật.
[15]. Quan điểm của các Luật sư bào chữa cho các bị cáo, đề nghị Hội
đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo là
không có căn cứ nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[16]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo,
giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[17]. Do kháng cáo xin giảm nhẹ của các bị cáo không được chấp nhận,
nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[18]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo:
Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979), Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993),
Nguyễn Thành Nh, Lư Gia H2, Nguyễn Quốc H, Kiên Ngọc T, Cao Trí T,
Dương Đình D và Huỳnh Hải H.
2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2023/HS-ST ngày 16-8-
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.
3. Tuyên bố các bị cáo phạm tội như sau:
- Bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) phạm 03 tội: “Giết người”,
“Gây rối trật tự công cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
- Bị cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) phạm 03 tội: “Giết người”,
“Gây rối trật tự công cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
- Bị cáo Nguyễn Quốc H phạm 03 tội: “Giết người”, “Gây rối trật tự công
cộng” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”;
25
- Bị cáo Nguyễn Thành Nh phạm 02 tội: “Giết người” và “Gây rối trật tự
công cộng”;
- Bị cáo Lư Gia H2 phạm 02 tội: “Giết người” và “Gây rối trật tự công
cộng”;
- Bị cáo Dương Đình D phạm 02 tội: “Gây rối trật tự công cộng” và
“Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;
- Bị cáo Cao Trí T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”;
- Bị cáo Huỳnh Hải H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”;
- Bị cáo Kiên Ngọc T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; khoản
1 Điều 304; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 40; Điều 17; Điều 55;
Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 367 của
Bộ luật Tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) tử
hình về tội “Giết người”; 06 (sáu) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; 06
(sáu) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; tổng hợp
hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 tội là tử hình. Tiếp tục tạm giam
bị cáo để đảm bảo thi hành án. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án bị
cáo được quyền làm đơn gửi lên Chủ tịch nước để xin ân giảm án tử hình.
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; khoản
1 Điều 304; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 39; Điều 17; Điều 55;
Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo
Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) tù chung thân về tội “Giết người”; 05
(năm) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”; 05 (năm) năm tù về tội “Tàng
trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải
chấp hành cho cả 03 tội là tù chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ
ngày 11/10/2022;
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; khoản
1 Điều 304; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều 58
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn
Quốc H 16 (mười sáu) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Gây
rối trật tự công cộng”; 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ
khí quân dụng”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 03 tội là
24 (hai mươi bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày
11/10/2022;
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b,
s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều
58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lư Gia
H2 15 (mười lăm) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Gây rối
trật tự công cộng”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội
26
là 19 (mười chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày
11/10/2022;
+ Áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b,
s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Nh 14 (mười
bốn) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Gây rối trật tự công
cộng”; Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội là 18 (mười
tám) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/10/2022;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1,
2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 55; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Dương Đình D 03 (ba) năm tù về tội “Gây
rối trật tự công cộng”; 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân
dụng”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành cho cả 02 tội là 07 (bảy)
năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2022;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Cao Trí T 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối trật
tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/11/2022;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Kiên Ngọc T 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối
trật tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp
hành án;
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi,
bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Huỳnh Hải H 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối
trật tự công cộng”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp
hành án.
Đối với số tiền 222.872.276 đ (hai trăm hai mươi hai triệu, tám trăm bảy
mươi hai nghìn, hai trăm bảy mươi sáu đồng) do gia đình bị cáo Nguyễn Trường
G1 (sinh năm 1979) nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Trà Vinh để thi hành
phần bồi thường dân sự của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực thi hành sẽ được Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Trà Vinh xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Án phí hình sự phúc thẩm:
- Bị cáo Nguyễn Trường G1 (sinh năm 1979) phải chịu 200.000đ (hai
trăm nghìn đồng);
- Bị cáo Nguyễn Trường G2 (sinh năm 1993) phải chịu 200.000đ (hai
trăm nghìn đồng);
- Bị cáo Nguyễn Quốc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
27
- Bị cáo Nguyễn Thành Nh phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
- Bị cáo Lư Gia H2 phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
- Bị cáo Dương Đình D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
- Bị cáo Cao Trí T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
- Bị cáo Huỳnh Hải H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng);
- Bị cáo Kiên Ngọc T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao (1);
- VKSND cấp cao tại TP.HCM (1);
- TAND tỉnh Trà Vinh (10);
- VKSND tỉnh Trà Vinh (1);
- Cục THADS tỉnh Trà Vinh (1);
- Sở Tư pháp tỉnh Trà Vinh (1);
- Công an tỉnh Trà Vinh (1);
- Trại tạm giam – CA tỉnh Trà Vinh (8);
- UBND phường 5, tp. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh (1)
- Người tham gia tố tụng (2);
- Lưu VP(3), HS(2). 33b.ĐTTB.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Khương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 15/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 12/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm