Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST ngày 29/05/2025 của TAND TX. Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 05/2025/HNGĐ-ST ngày 29/05/2025 của TAND TX. Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Kỳ Anh (TAND tỉnh Hà Tĩnh) |
Số hiệu: | 05/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/05/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | HNGĐ-ST |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH
Bản án số: 05/2025/HNGĐ-ST
Ngày 29-5-2025
“V/v ly hôn, tranh chấp nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Duy Hoàng
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Hoàng Thị Thu Lâm
Ông Nguyễn Văn Luận
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Lệ Thủy - Thư ký Tòa án nhân dân thị xã
Kỳ Anh
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Vinh - Kiểm sát viên
Ngày 29 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý
số: 42/2024/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 04/2025/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2025, giữa các
đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Mai Thị X, sinh năm 1984; Nơi thường trú: Thôn 3,
Đông Y, xã Kỳ L, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi ở hiện nay: Khu tái định cư Đông
Y, tổ dân phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)
- Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân C, sinh năm 1982; Nơi thường trú: Thôn 3,
Đông Y, xã Kỳ L, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi ở hiện nay: Khu tái định cư Đông
Y, tổ dân phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn V; Địa chỉ: Số 02 đường Láng H, phường Thành C, quận Ba Đ,
thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V - Chức vụ:
Tổng giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Anh B - Chức vụ: Giám đốc
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V - Chi nhánh thị xã K (Vắng
mặt)
Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Q - Chức vụ: Trưởng phòng
khách hàng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V - Chi nhánh thị
xã K (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của chị Mai Thị X và các lời khai trong quá trình giải
quyết vụ án, vụ án có nội dung: Chị Mai Thị X và anh Nguyễn Xuân C đăng ký
kết hôn tại UBND xã Kỳ L, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh (Nay là UBND xã Kỳ L,
thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh) ngày 05/02/2007, hôn nhân tự nguyện, tự do tìm hiểu,
2
không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được đến năm
2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Lý do mâu thuẫn là do vợ chồng không tin tưởng
nhau, không tôn trọng nhau và không tìm được tiếng nói chung nên vợ chồng
thường xuyên xảy ra cãi vã. Chị và anh C sống ly thân từ tháng 10/2023 cho đến
nay, không ai tìm cách hàn gắn tình cảm. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không
còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên
chị X yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Xuân C.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có 03 con chung là
Nguyễn Phương H, sinh ngày: 03/8/2021; Nguyễn Gia V, sinh ngày: 04/12/2007
và Nguyễn Gia H, sinh ngày: 16/6/2015. Chị X có nguyện vọng được trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng cả 03 con đến tuổi trưởng thành và yêu cầu anh Nguyễn
Xuân C cấp dưỡng nuôi 03 con mỗi tháng mỗi con 2.000.000 đồng.
Về tài sản chung: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng tạo lập được tài sản
chung là thửa đất thửa đất số 232, tờ bản đồ: Mảnh trích đo địa chính 01-2022,
có diện tích 400,0m², địa chỉ: Khu tái định cư Đông Y, tổ dân phố Ba Đ, phường
Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh, được UBND thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh cấp giấy
CNQSD đất số DG 003... mang tên Nguyễn Xuân C và Mai Thị X; trên thửa đất
có ngôi nhà hai tầng, quán tạm và một chòi lục giác và một số tài sản khác
không có giá trị. Do anh Nguyễn Xuân C để cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng 03 con nên chị có nguyện vọng được chia phần diện tích đất có nhà ở để
các con có chổ ở ổn định, đảm bảo cuộc sống vì ngoài chổ ở này thì Chị X và
các con không có chổ ở nào khác. Chị sẽ có trách nhiệm hoàn trả ½ trị giá nhà ở
và nếu phần diện tích đất được nhận lớn hơn phần diện tích đất chia cho anh C
thì chị sẽ hoàn trả trị giá chênh lệch cho anh C theo kết quả định giá tài sản của
Hội đồng định giá. Đối với phần đất không có nhà ở nhưng trên đất có một số tài
sản chị không yêu cầu khấu trừ trị giá phần tài sản đã định giá là 16.361.400
đồng vào phần tổng tài sản của vợ chồng theo hướng có lợi cho anh Nguyễn
Xuân C. Đồng thời, nếu anh C nhận trách nhiệm nuôi 03 con thì chị đề nghị chia
phần đất có nhà cho anh C quản lý, sử dụng. Đối với các tài sản là đồ dùng sinh
hoạt trong gia đình và các tài sản khác chị Mai Thị X không yêu cầu Tòa án định
giá và phân chia. Nếu anh C có nhu cầu sử dụng thì nhường lại toàn bộ mà
không yêu cầu phải hoàn trả tiền chênh lệch.
Về nợ chung: Vợ chồng nợ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn V - Chi nhánh thị xã K (Ngân hàng A) số tiền 200.000.000 đồng theo hợp
đồng tín dụng số: 3716-LAV-202300850 ngày 13/7/2023 và tiền lãi phát sinh
theo thỏa thuận tại hợp đồng. Hợp đồng có thời hạn đến ngày 13/7/2026, chưa
đến hạn tất toán hợp đồng, tuy nhiên để thuận lợi cho việc trả nợ sau khi vợ
chồng ly hôn thì yêu cầu Tòa án phân chia nghĩa vụ trả nợ của từng người, cụ
thể là chị chịu trách nhiệm nhiệm trả ½ số tiền gốc và lãi phát sinh và giao cho
anh Nguyễn Xuân C chịu trách nhiệm trả ½ số tiền gốc và lãi phát sinh theo hợp
đồng tín dụng nêu trên.
Ý kiến của bị đơn anh Nguyễn Xuân C: Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn
Xuân C vắng mặt không có ý kiến trình bày. Tuy nhiên, tại bản tự khai; phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày
3
11/11/2024 anh Nguyễn Xuân C trình bày: Anh C xác nhận về thời điểm kết
hôn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng phù hợp với lời trình bày của Chị X. Anh
C đồng ý thuận tình ly hôn với chị Mai Thị X; Về con chung: Anh C xác nhận
vợ chồng có 03 con chung là Nguyễn Phương H, sinh ngày: 03/8/2021; Nguyễn
Gia V, sinh ngày: 04/12/2007; Nguyễn Gia H, sinh ngày: 16/6/2015. Cả 03 con
ở với chị Mai Thị X từ thời điểm vợ chồng ly thân cho đến nay. Anh C thống
nhất giao 03 con chung cho chị Mai Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh
đồng ý cấp dưỡng nuôi con 6.000.000đồng/tháng/03 cháu; Về tài sản chung, anh
thống nhất với trình bày của Chị X, yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật;
Về nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.
Ý kiến của người đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn V - Chi nhánh thị xã K: Ngân hàng Agribank có cho anh Nguyễn Xuân C
và chị Mai Thị X vay số tiền 200.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số:
3716-LAV-202300850 ngày 13/07/2023 kèm Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm
nhận nợ số: 3716LDS202301193 ngày 14/7/2023 và Báo cáo đề xuất giải ngân
kiêm nhận nợ số: 3716LDS202301425 ngày 30/8/2023; mục đích vay: Phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu đời sống; lãi suất: Biên độ nhất
định 5.7%/năm; hình thức bảo đảm: Cho vay không có tài sản bảo đảm, ngân
hàng giữ hộ giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số phát hành DG 003..., số vào sổ cấp GCN: CH 02639 ngày 30/6/2022
mang tên anh Nguyễn Xuân C và chị Mai Thị X. Trong quá trình vay vốn đến
nay, Chị X và anh C đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng đúng cam
kết. Đến thời điểm xét xử hôm nay, Chị X và anh C còn nợ số tiền gốc là
200.000.000 đồng và nợ lãi phát sinh theo thỏa thuận tại các điều khoản hợp
đồng. Mặc dù, hiện nay hợp đồng tín dụng chưa đến hạn tất toán và người vay
cũng không vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, để thuận lợi cho việc trả nợ của
Chị X và anh C, cũng như quyền lợi của Ngân hàng thì đề nghị Tòa án chấp
nhận yêu cầu của chị Mai Thị X về việc phân chia nghĩa vụ trả nợ, cụ thể là chị
Mai Thị X và anh Nguyễn Xuân C mỗi người phải chịu trách nhiệm trả ½ số tiền
gốc và tiền lãi phát sinh theo cho đến khi trả hết nợ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và
Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự quy
định. Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án
cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại
Điều 70, Điều 71 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực
hiện đầy đủ về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 73 Bộ luật tố tụng
dân sự. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, Tòa án đã tiến hành tống đạt
hợp lệ các văn bản tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu
có tại hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo
quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
4
- Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều
35, điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 55,
55, 57, 58, 59, 60, 62, 71, 72, 81, 82, 83, 84, 107, 108, 110, 116, 117 của Luật
hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a, b
khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc Hội; khoản 3 Điều 11 Nghị quyết số 01/2024 ngày
16/5/2024 hướng dẫn một số quy định pháp luật về giải quyết án hôn nhân gia
đình, đề nghị Hội đồng xét xử:
Về quân hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Mai Thị X
với anh Nguyễn Xuân C; Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của Chị X và
anh C về việc giao cháu Nguyễn Phương H, sinh ngày: 03/8/2021, cháu Nguyễn
Gia V, sinh ngày: 04/12/2007 và cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày: 16/6/2015 cho
chị Mai Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Anh
Nguyễn Xuân C có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng mỗi cháu mỗi tháng
2.00.000.000đồng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi con đủ 18
tuổi; Về tài sản chung: Giao căn nhà 02 tầng gắn liền với diện tích đất 213,2m
2
và căn quán tạm với tổng trị giá 723.745.700đồng cho chị Mai Thị X; Giao phần
diện tích đất trống 186,8m
2
có trị giá 186.800.000đồng cho anh Nguyễn Xuân C;
chị Mai Thị X có trách nhiệm đưa lại cho anh Nguyễn Xuân C số tiền
268.472.750 đồng; Về nợ chung: Chị Mai Thị X mỗi người phải có trách nhiệm
trả cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V số tiền 100.000.000
đồng tiền nợ gốc khi đến hạn trả nợ theo Hợp đồng tín dụng số: 3716-LAV-
202300850 ngày 13/7/2023 kèm Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận nợ số:
3716LDS202301193 ngày 14/7/2023 và Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận
nợ số: 3716LDS202301425 ngày 30/8/2023; mỗi người phải có trách nhiệm trả
½ số tiền lãi phát sinh theo hợp đồng đã thoả thuận cho đến khi hết hạn hợp
đồng hoặc có thoả thuận khác; Về án phí: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Mai
Thị X chịu án phí ly hôn sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con, án phí đối với
toàn bộ nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng; Buộc chị Mai Thị X và anh Nguyễn
Xuân C phải chịu án phí đối với phần trị giá tài sản được chia.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên toà và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[1] Về tố tụng: Chị Mai Thị X khởi kiện xin ly hôn, giải quyết nuôi con và
phân chia tài sản chung vợ chồng, đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình
quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn
Xuân C có nơi thường trú: Thôn 3, Đông Y, xã Kỳ L, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh và
nơi ở hiện nay: Khu tái định cư Đông Y, tổ dân phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã
K, tỉnh Hà Tĩnh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị
xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.
Bị đơn anh Nguyễn Xuân C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy, HĐXX tiến hành xét xử vắng bị đơn
theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

5
[3] Về nội dung:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Mai Thị X với anh Nguyễn
Xuân C đã tuân thủ các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn tại UBND xã Kỳ
Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (Nay là UBND xã Kỳ Lợi, thị xã Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh) ngày 05/02/2007. Căn cứ quy định về điều kiện kết hôn của Luật hôn
nhân và gia đình thì đây là hôn nhân hợp pháp.
Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát
sinh mâu thuẫn, theo chị Mai Thị X nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không
tin tưởng, không tôn trọng nhau và không tìm được tiếng nói chung nên thường
xuyên xảy ra cãi vã, bất đồng quan điểm. Từ tháng 02/2023 đến nay, vợ chồng
sống ly thân, không ai tìm cách hàn gắn tình cảm. Tình cảm vợ chồng không
còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị có nguyện vọng được ly hôn, giải
phóng cho hai người để mỗi người có cuộc sống riêng, tốt đẹp hơn.
Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Xuân C cũng thừa nhận vợ chồng
đã sống ly thân, không tôn trọng nhau, không ai tìm cách hàn gắn tình cảm, mục
đích hôn nhân không đạt được, anh C đồng ý thuận tình ly hôn theo yêu cầu của
chị Mai Thị X.
Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, vợ chồng
thương yêu, tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau… nhưng hôn nhân giữa chị
Mai Thị X và anh Nguyễn Xuân C không đạt được mục đích đó, xét thấy tình
cảm vợ chồng không còn, không ai tìm cách hàn gắn tình cảm, mâu thuẫn đã
trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, HĐXX xét thấy cần ghi
nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Mai Thị X và anh Nguyễn Xuân C.
[3.2] Về con chung: Chị Mai Thị X và anh Nguyễn Xuân C thừa nhận vợ
chồng có 03 con chung là Nguyễn Phương H, sinh ngày: 03/8/2021; Nguyễn Gia
V, sinh ngày: 04/12/2007 và Nguyễn Gia H, sinh ngày: 16/6/2015. Từ khi vợ
chồng ly thân đến nay cả ba con đều ở với Chị X. Hiện nay, con Nguyễn Gia H
và Nguyễn Gia V đã trên 07 tuổi và có đơn nguyện vọng được ở với mẹ. Chị X
cũng có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 03 con đến tuổi
trưởng thành và yêu cầu anh Nguyễn Xuân C cấp dưỡng nuôi con mỗi con mỗi
tháng 2.000.000 đồng đến khi các con đủ 18 tuổi. Qúa trình giải quyết vụ án anh
Nguyễn Xuân C Đồng ý việc giao con cho Chị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng
và anh có nghĩa vụ cấp dưỡng như yêu cầu. Do đó, cần giao cả 03 con cho chị
Mai Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các con đủ tuổi trưởng
thành (tròn 18 tuổi). Ghi nhận sự thỏa thuận của chị Mai Thị X và anh Nguyễn
Xuân C về việc anh C cấp dưỡng nuôi con chung mỗi con mỗi tháng 2.000.000
đồng.
[3.3] Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án chị Mai Thị X và anh
Nguyễn Xuân C thống nhất xác nhận: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng tạo lập
được thửa đất với diện tích 400,0m², thửa đất số 232, tờ bản đồ: Mảnh trích đo
địa chính 01-2022, địa chỉ: Khu tái định cư Đông Y, tổ dân phố Ba Đ, phường
Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh, được UBND xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh cấp giấy
CNQSDĐ đất số DG 003... mang tên Nguyễn Xuân C và Mai Thị X, trên thửa
đất có ngôi nhà hai tầng, một quán tạm trước nhà và một số công trình nhỏ. Như

6
vậy, có cơ sở xác định những tài sản trên là tài sản chung của chị Mai Thị X và
anh Nguyễn Xuân C. Các đương sự không thống nhất được với nhau về việc
phân chia tài sản nên đề nghị Tòa án phân chia theo quy định.
Theo kết quả xem xét thẩm định tại chổ thì hiện trạng thửa đất đang tranh
chấp không thay đổi gì so với diện tích được cấp trong Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, không có tranh chấp với các hộ liền kề và chưa làm thủ tục tặng
cho, mua bán hay chuyển nhượng cho ai. Trên thửa đất có 01 ngôi nhà hai tầng
kiên cố với diện tích 206,2m
2
được xây dựng vào năm 2014. Phía trước có xây
dựng 01 quán tạm với diện tích 43,2m
2
được xây dựng vào năm 2015; Phía Bắc
thửa đất là phần chưa xây dựng nhà ở, có diện tích 186,8m
2
, trên đất xây một
chòi tạm và trồng một số cây cối.
Về kết quả định giá tài sản: Thửa đất số 232, tờ bản đồ số 01-2022, diện
tích 400m
2
; loại đất ở đô thị tại Khu tái định cư Đông Y, tổ dân phố Ba Đ,
phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh (Nay là Khu tái định cư Đông Y, tổ dân
phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh) có giá trị là
400.000.000đồng. Trị về tài sản gắn liền với đất là 526.906.900 đồng. Tổng
giá trị tài sản về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là
926.906.900đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Mai Thị X thừa nhận từ
khi vợ chồng ly thân đến nay thì chỉ có chị cùng 03 con sinh sống trong ngôi nhà
trên thửa đất số 232, tờ bản đồ số 01-2022. Ngoài chổ ở này thì Chị X và các
con không có chổ ở nào khác. Sau khi vợ chồng ly hôn, chị trực tiếp chăm sóc,
nuôi dưỡng 03 con nên có nguyện vọng được chia phần diện tích đất có nhà ở để
chị và các con có chổ ở. Chị sẽ có trách nhiệm hoàn trả ½ trị giá nhà ở và nếu
phần diện tích đất được nhận lớn hơn phần diện tích đất chia cho anh C thì chị sẽ
hoàn trả trị giá chênh lệch cho anh C theo kết quả định giá tài sản của Hội đồng
định giá. Đối với phần đất không có nhà ở nhưng trên đất có một số tài sản chị
không yêu cầu khấu trừ trị giá phần tài sản đã định giá là 16.361.400 đồng vào
phần tổng tài sản của vợ chồng. Chị Mai Thị X cũng cho rằng nếu anh C nhận
trách nhiệm nuôi 03 con thì chị đề nghị chia phần đất có nhà cho anh C quản lý,
sử dụng. Đối với các tài sản là đồ dùng sinh hoạt trong gia đình và các tài sản
khác chị Mai Thị X không yêu cầu Tòa án định giá và phân chia vì những tài sản
này giá trị không lớn. Nếu anh C có nhu cầu thì Chị X nhường cho anh C toàn
quyền quản lý sử dụng mà không phải hoàn trả tiền chênh lệch cho chị.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo kết quả xem xét thẩm định tại chổ thì
thửa đất số 232, tờ bản đồ số 01-2022, một phần đã xây dựng nhà 02 tầng kiên
cố và phía trước có quán tạm trên diện tích đất 213,2m
2
; phần diện tích đất còn
lại 186,8m
2
hiện chỉ có xây một chiếc chòi lục giác có diện tích 15,4m
2
và một
số cây cối, tiểu cảnh. Việc phân chia phần đất có nhà ở và phần đất trống thành
hai phần sẽ đảm bảo diện tích sử dụng và đủ điều kiện tách thửa theo quy định.
Chị Mai Thị X là người trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng 03 con chung; hiện nay
chị và 03 con đang ở trong ngôi nhà chung, ngoài chổ ở này thì Chị X và các
con không có chổ ở nào khác. Mặt khác, tại biên bản thỏa thỏa thuận về việc
phân chia tài sản chung của vợ chồng do Chị X cung cấp để chứng minh việc

7
trước đây anh Nguyễn Xuân C cũng đã đồng ý giao lại phần phần diện tích đất
có nhà hai tầng kiên cố cho Chị X quản lý, sử dụng để tiện chăm sóc con cái,
còn phần diện tích đất trống còn lại giao cho anh Nguyễn Xuân C quản lý, sử
dụng. Vì vậy, cần chia phần đất có nhà ở có diện tích 213,2m
2
cho chị Mai Thị
X được quản lý, sử dụng, có tứ cận cụ thể như sau: phía Bắc giáp giáp phần đất
chia cho anh C, có chiều dài 24,89m; phía Nam giáp thửa đất số 234, có chiều
dài 24,89m; phía Đông giáp đường giao thông, có chiều dài 8,57 m; phía Tây
giáp thửa đất số 204, có chiều dài 8,57 m; Chia phần đất chưa có nhà ở có diện
tích 186,8m
2
cho anh Nguyễn Xuân C quản lý, sử dụng, có tứ cận cụ thể như
sau: phía Bắc giáp giáp thửa đất 233, có chiều dài 24,89m; phía Nam giáp phần
đất chia cho Chị X, có chiều dài 24,89m; phía Đông giáp đường giao thông, có
chiều dài 7,50m; phía Tây giáp thửa đất số 204, có chiều dài 7,50m.
Theo kết quả định giá tài sản, phần diện tích đất 213,2m
2
có nhà ở và công
trình liền kề chia cho chị Mai Thị X có tổng trị giá 723.745.700đồng (Trong đó:
Giá trị quyền sử dụng đất là 213.200.000 đồng; giá trị tài sản là 510.545.700
đồng); Phần đất có diện tích 186,8m
2
và tài sản trên thửa đất (chòi lục giác) chia
cho anh Nguyễn Xuân C có tổng giá trị là 203.161.400 đồng đồng (Trong đó:
Giá trị quyền sử dụng đất là 186.800.000đồng; tài sản trên đất (chòi lục giác) là
16.361.400đồng). Chị Mai Thị X không yêu cầu khấu trừ căn chòi lục giác trị
giá 16.361.400đồng vào tổng trị giá tài sản của vợ chồng để chia là có lợi cho
anh C. Như vậy, tổng trị giá về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để
phân chia là 926.906.900đồng - 16.361.400đồng = 910.545.500 đồng, mỗi người
được hưởng ½ trị giá tương đương số tiền 455.272.750 đồng. Chị Mai Thị X
được nhận phần tài sản có trị giá 723.745.700 đồng nên có trách nhiệm hoàn trả
giá trị chênh lệch cho anh Nguyễn Xuân C số tiền là 268.472.750đồng.
4. Về nợ chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị Mai Thị X và anh Nguyễn
Xuân C vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn V số tiền
200.000.000 đồng theo Hợp đồng tín dụng số: 3716-LAV-202300850 ngày
13/7/2023 kèm Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận nợ số:
3716LDS202301193 ngày 14/7/2023 và Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận
nợ số: 3716LDS202301425 ngày 30/8/2023. Quá trình giải quyết vụ án, các
đương sự xác nhận đây là khoản nợ chung của vợ chồng. Chị Mai Thị X và
người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thừa nhận Hợp đồng có thời hạn
đến ngày 13/7/2026, chưa hết hạn tất toán hợp đồng. Tuy nhiên, để thuận lợi cho
việc trả nợ khi đến hạn thì Chị X yêu cầu Tòa án phân chia nghĩa vụ trả nợ của
từng người, Ngân hàng Agribank đề nghị Tòa án chấp nhận, cụ thể chị Mai Thị
X có trách nhiệm trả ½ số tiền gốc và lãi phát sinh và anh Nguyễn Xuân C có
trách nhiệm nhiệm trả ½ số tiền gốc và lãi phát sinh theo đồng tín dụng nêu trên.
Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Mai Thị X: Buộc anh Nguyễn Xuân C và
chị Mai Thị X mỗi người phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng
Agribank số tiền gốc 100.000.000 đồng khi đến hạn và tiền lãi phát sinh đối với
số tiền gốc mỗi người phải trả theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số:
3716-LAV-202300850 ngày 13/7/2023 kèm Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm

8
nhận nợ số: 3716LDS202301193 ngày 14/7/2023 và Báo cáo đề xuất giải ngân
kiêm nhận nợ số: 3716LDS202301425 ngày 30/8/2023.
[5] Về án phí: Nguyên đơn chị Mai Thị X tự nguyện chịu toàn bộ án phí
ly hôn sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con và toàn bộ án phí đối với nghĩa vụ
Chị X và anh Nguyễn Xuân C phải trả nợ cho Ngân hàng Agribank.
Nguyên đơn, bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch đối với trị giá phần tài
sản được chia.
[6] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn chị Mai Thị X tự nguyện chịu toàn bộ
chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản số tiền là 4.300.000 đồng.
[7] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 157, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng
dân sự; Điều 29, 33, 37, 51, 55, 57, 58, 59, 60, 62, 71, 72, 81, 82, 83, 84, 107,
108, 110, 116, 117 Luật hôn nhân gia đình; Điều 3, Điều 24, điểm a, b khoản 5
Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Toà án; khoản 3 Điều 11 Nghị quyết số 01/2024 ngày
16/5/2024 hướng dẫn một số quy định pháp luật về giải quyết án hôn nhân gia
đình.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Mai Thị X.
1. Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Mai Thị
X và anh Nguyễn Xuân C.
2. Về con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận về việc nuôi con chung giữa chị
Mai Thị X và anh Nguyễn Xuân C: Giao 03 con chung là Nguyễn Phương H,
sinh ngày: 03/8/2021; Nguyễn Gia V, sinh ngày: 04/12/2007 và Nguyễn Gia H,
sinh ngày: 16/6/2015 cho chị Mai Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi
trưởng thành (đủ 18 tuổi). Ghi nhận sự tự nguyện của Nguyễn Xuân C về việc
đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Phương H mỗi tháng 2.000.000
đồng, đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con Nguyễn Gia V mỗi tháng
2.000.000đồng và Nguyễn Gia H mỗi tháng 2.000.000 đồng kể từ ngày bản án
có hiệu lực pháp luật cho đến khi các con đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm
nom con mà không được ai ngăn cấm cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền
yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu
họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Trong trường hợp có yêu cầu
của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn
nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng
nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung:
9
3.1. Giao cho chị Mai Thị X được toàn quyền quản lý, sử dụng phần đất
có diện tích 213,2m
2
và toàn bộ tài sản gắn liền với đất, thuộc thửa đất số 232,
tờ bản đồ số: Mảnh trích đo địa chính 01-2022, địa chỉ: Khu tái định cư Đông
Y, tổ dân phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh (Nay là Khu tái
định cư Đông Y, tổ dân phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh), có
tứ cận cụ thể như sau:
+ Phía Bắc giáp phần đất chia cho anh Nguyễn Xuân C, có chiều dài
24,89m;
+ Phía Nam giáp thửa đất số 234, có chiều dài 24,89m;
+ Phía Đông giáp đường giao thông, có chiều dài 8,57m;
+ Phía Tây giáp thửa đất số 204, có chiều dài 8,57m.
(Có sơ đồ phân chia được đánh số thứ tự 3,4,5,6 kèm theo Bản án)
3.2. Giao cho anh Nguyễn Xuân C được toàn quyền quản lý, sử dụng phần
đất có diện tích 186,8m
2
và toàn bộ tài sản gắn liền với đất, thuộc thửa đất số
232, tờ bản đồ số: Mảnh trích đo địa chính 01-2022, địa chỉ: Khu tái định cư
Đông Y, tổ dân phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh (Nay là Khu
tái định cư Đông Y, tổ dân phố Ba Đ, phường Kỳ P, thị xã K, tỉnh Hà Tĩnh),
có tứ cận cụ thể như sau:
+ Phía Bắc giáp thửa đất số 233, có chiều dài 24,89m;
+ Phía Nam giáp phần đất chia cho chị Mai Thị X, có chiều dài 24,89m;
+ Phía Đông giáp đường giao thông, có chiều dài 7,50m;
+ Phía Tây giáp thửa đất số 204, có chiều dài 7,50m.
(Có sơ đồ phân chia được đánh số thứ tự 1,2,3,6 kèm theo Bản án)
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự được quyền liên hệ cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền để làm thủ về quyền sử dụng đất đối với diện tích
đất được chia theo quy định của pháp luật.
3.3. Buộc chị Mai Thị X phải hoàn trả cho anh Nguyễn Xuân C số tiền trị
giá về chênh lệch tài sản an Cẩm được nhận là 268.472.750 đồng (Hai trăm sáu
mươi tám triệu bốn trăm bảy mươi hai nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
4. Về nợ chung:
- Buộc chị Mai Thị X có nghĩa trả nợ cho Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn V số tiền nợ gốc 100.000.000 đồng khi đến hạn trả nợ và
tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 3716-LAV-202300850 ngày
13/07/2023 kèm Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận nợ số:
3716LDS202301193 ngày 14/7/2023 và Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận
nợ số: 3716LDS202301425 ngày 30/8/2023.
- Buộc anh Nguyễn Xuân C có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn V số tiền nợ gốc 100.000.000 đồng khi đến hạn
trả nợ và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 3716-LAV-202300850
ngày 13/07/2023 kèm Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận nợ số:
3716LDS202301193 ngày 14/7/2023 và Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm nhận
nợ số: 3716LDS202301425 ngày 30/8/2023.
5. Về án phí:
10
- Chị Mai Thị X tự nguyện chịu 150.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm,
150.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, 10.000.000đồng án phí đối với toàn
bộ nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng Agribank và phải chịu 22.210.910 đồng án phí
chia tài sản chung. Tổng án phí chị Mai Thị X phải chịu là 32.510.910 đồng,
nhưng được khẩu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo
Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008439 ngày 05/11/2024 của Chi cục thi
hành án dân sự thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Số tiền án phí chị Mai Thị X còn
phải chịu là 32.210.910 đồng (Ba hai triệu hai trăm mười nghìn chín trăm mười
đồng).
- Anh Nguyễn Xuân C phải chịu số tiền 22.210.910 đồng (Hai hai triệu
hai trăm mười nghìn chín trăm mười đồng) án phí có giá ngạch.
6. Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn chị Mai Thị
X về việc chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản số
tiền 4.300.000 đồng (Bốn triệu ba trăm nghìn đồng).
7. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án; Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.
8. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, có đơn yêu cầu thi hành án của
người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm
2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy dịnh tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Tĩnh;
- VKSND tỉnh Hà Tĩnh;
- VKSND thị xã Kỳ Anh;
- Chi cục THADS thị xã Kỳ Anh;
- Các đương sự;
- UBND xã Kỳ L;
- Lưu Hồ sơ; VP-TA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Duy Hoàng
11
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm