Bản án số 05/2025/DS-ST ngày 05/05/2025 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 05/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 05/2025/DS-ST ngày 05/05/2025 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hữu Lũng (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 05/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Lê Văn Thao khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị Tâm trả tiền nợ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 05/2025/DS-ST
Ngày: 05-5-2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua
bán tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Ngô Thảo Nguyên
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đặng Xuân Tuấn
2. Ông Nguyễn Duy Toàn
- Thư ký phiên toà: Bà Vy Khánh Ly Thư ký Toà án nhân dân huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tham
gia phiên toà: Ông Mã Anh Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng n xét xử thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2024/TLST-DS ngày
04 tháng 11 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 08/2025/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 03 năm 2025 ; Quyết
định hoãn phiên tòa số 08/2025/QĐST-DS, ngày 29/4/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Văn Th, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ,
huyện HL, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
2. Bị đơn: Nguyễn Thị T, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn Đ, Đ, huyện
HL, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn): Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn Đ, Đ, huyện HL, tỉnh
Lạng Sơn. Vắng mặt.
4. Người làm chứng: Vy Thị N. Địa chỉ: Thôn Đồng Lai, Đồng Tân,
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Văng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 10 m 2024, các li khai trong q
trình t tụng, nguyên đơn ông Văn Th trình bày: Ông Nguyễn Thị T
quan hệ họ hàng. Bà Nguyễn Thị T là người mua buôn quả na, từ năm 2023 ông
bán na cho Nguyễn Thị T. Các lần mua bán na trong năm 2023 Nguyễn Thị
T đã thanh toán đủ tiền. Đến vna năm 2024, bắt đầu từ ngày 17/6/2024 âm lịch,
ông tiếp tục bán na cho Nguyễn Thị T. Các lần cụ thể như sau: Đối với na
2
ngày 17/6/2024 âm lịch, bán 98 kg x 30.000 đồng/kg = 2.940.000 đồng, bà Nguyễn
Thị T đã trả được 1.940.000 đồng, còn nợ 1.000.000 đồng đến cuối vụ khi cộng sổ
sẽ trả nốt nhưng đến cuối vụ Nguyễn Thị T cũng không trả; đối với na các
ngày 19/6/2024, 20/6/2024, 22/6/2024, 23/6/2024, 24/6/2024, 26/6/2024
Nguyễn Thị T đã thanh toán đủ tiền nên đã gạch chéo vào trong sổ bên cạnh có ghi
chữ “đã trả”; đến ngày 27, 28/6/2024 âm lịch, trong hai ngày ông đã bán tổng 582
kg na (sau khi trừ 15 kg thùng xốp) x 18.000 đồng/kg = 10.476.000 đồng, khi lấy
na ngày 27/6/2024 bà Nguyễn Thị T có trả trước 3.500.000 đồng, tuy nhiên hai bên
thống nhất tính tròn Nguyễn Thị T còn nợ lại 7.000.000 đồng; ngày 29/6/2024
âm lịch, bán 220 kg na x 18.000 đồng/kg= 3.960.000 đồng, bà Nguyễn Thị T hẹn
đến tối quay lại trả tiền nhưng đến hẹn vẫn chưa thanh toán tiền; ngày 01/7/2024
âm lịch, bán 101 kg na x 16.000 đồng/kg = 1.616.000 đồng, Nguyễn Thị T trả
2.000.000 đồng để trừ vào 7.000.000 đồng còn lại của na hai ngày 27,
28/6/2024 âm lịch (trừ đi thì Nguyễn Thị T còn nợ 5.000.000 đồng), còn mã na
bán ngày 01/7/2024 bà Nguyễn Thị T chưa trả tiền; ngày 03/7/2024 âm lịch bán 50
kg na x 16.000 đồng = 800.000 đồng, bà Nguyễn Thị T trả 3.000.000 đồng để trừ
vào 5.000.000 đồng tiền nợ còn lại của na hai ngày 27, 28/6/2024 âm lịch (trừ
đi thì Nguyễn Thị T còn nợ 2.000.000 đồng), mã na ngày 03/7/2024 bà Nguyễn
Thị T chưa thanh toán; ngày 04/7/2024 âm lịch, bán 50 kg na cho bà Nguyễn Thị T
x 16.000 đồng= 800.000 đồng, hôm đó do ông đi ăn cỗ trong quê vợ Thiện
Tân nên ông đóng na vào thùng xốp sẵn gửi bên nhà mẹ đẻ Vy Thị N ngay
sát nhà để Nguyễn Thị T lên lấy na, hôm đó Nguyễn Thị T chưa trả tiền cho
ông cũng không gửi tiền na lại cho mẹ ông. Tính đến ngày 06/8/2024 âm lịch, bà
Nguyễn Thị T còn nợ các na sau: na ngày 17/6/2024 nợ 1.000.000 đồng;
ngày 27, 28/6/2024 nợ lại 2.000.000 đồng; ngày 29/6/2024 nợ 3.960.000 đồng;
Ngày 01/7/2024 nợ 1.616.000 đồng; ngày 03/7/2024 nợ 800.000 đồng ngày
04/7/2024 âm lịch nợ 800.000 (tất cả đềungày âm lịch); tổng số tiền Nguyễn
Thị T còn nợ là 10.176.000 đồng.
Ngày 06/8/2024 âm lịch bà Nguyễn Thị T vào nhà ông để thanh toán số tiền
na còn nợ, Nguyễn Thị T muốn hẹn mấy hôm nữa nhưng ông không đồng ý
đi ra ngoài rửa sân. Bà Nguyễn Thị T ngồi trong nhà nói chuyện với vợ ông. Một
lúc sau vợ ông ra gọi và nói rằng Nguyễn Thị T chỉ đồng ý trả 3.000.000 đồng,
vợ ông đã cầm đưa lại cho ông nên ông viết vào sổ chốt nợ “cộng tổng tiền na
năm 2024” Nguyễn Thị T nợ 10.176.000 đồng, ngày 6/8/2024 âm lịch trả
3.000.000 đồng, còn 7.000.000 đồng Nguyễn Thị T hẹn đến 10/8/2024 âm lịch
sẽ trả hết. Bà Nguyễn Thị T được đọc và ký xác nhận nợ ở cuối trang giấy chốt nợ.
Tuy nhiên, khi đến hẹn Nguyễn Thị T không trả tiền, ông đã gọi điện thoại
nhiều lần nhưng Nguyễn Thị T nói đã trả hết tiền. Theo giấy chốt nợ,
Nguyễn Thị T còn nợ ông 7.000.000 đồng, lúc đó ông đã bớt 176.000 đồng, do
Nguyễn Thị T cố tình trốn tránh không trả nên ông yêu cầu tính đủ 7.176.000
đồng. Việc ông làm na, mua bán na với Nguyễn Thị T không liên quan đến
vợ bà Nguyễn Thị Th1, vợ ông đi bán thịt lợn chợ từ sáng sớm thường về
muộn nên không biết được việc ông mua bán na như thế nào.
3
Về tờ lịch ghi na Nguyễn Thị T cung cấp cho Toà án, do ông ghi
các mã còn nợ tiền (phần chữ viết màu mực đậm hơn) ra một tờ lịch để Nguyễn
Thị T đối chiếu, cụ thể: ngày 28/6 = 2.000.000, ngày 29/6 = 3.960.000, ngày 1/7 =
1.616.000, ngày 3/7 = 800.000, ngày 4/7 = 800.000, nợ = 1.000.000; =
10.176.000; toàn bộ chữ còn lại trong tờ lịch đều do bà Nguyễn Thị T tự ghi vào.
Ông khởi kiện yêu cầu Nguyễn Thị T phải trả đủ số tiền 7.176.000 đồng
theo giấy cộng tổng tiền na 2024, không yêu cầu tính lãi suất.
Đối với yêu cầu phản tố của Nguyễn Thị T, về số tiền 400.000 đồng
cho rằng đã trả thừa tiền na ngày 06/8/2024 âm lịch, ông không đồng ý. Theo Sổ
ghi từng mã na, tính đến ngày 06/8/2024 âm lịch bà Nguyễn Thị T còn nợ tổng tiền
na 7.176.000 đồng, bà Nguyễn Thị T được chốt nợ vào trong sổ, như vậy bà
trình bày đã trả hết nợ ông còn nợ lại 400.00 đồng không đúng; đối với số
tiền 80.000 đồng ông thừa nhận là có được mua hoa quả và rau củaNguyễn Thị
T và chưa trả tiền nên ông nhất trí trả số tiền này.
Trong quá trình tố tụng, bị đơn Nguyễn Thị T trình y: ông
Văn Th mối quan hệ họ hàng. chủ mua na nên năm 2023 mua na với
ông Văn Th hai bên đã thanh toán đầy đủ. Đến vụ na năm 2024, tiếp tục
mua na của nhà ông Văn Th. Mỗi lần mua bán na đều ghi vào sổ của ông
Văn Th, cụ thể các lần mua bán đúng như ông Văn Th trình bày, nhưng về số
tiền trả nợ thì cụ thể như sau: Đối với mã na ngày 17/6/2024 âm lịch được mua
98 kg na với giá tiền 2.940.000 đồng, đã trả được 2.000.000 đồng, còn nợ
1.000.000 đồng; đối với các na ngày 19/6/2024, 20/6/2024, 22/6/2024,
23/6/2024, 24/6/2024, 26/6/2024 đã thanh toán đủ tiền và ông Văn Th gạch
chéo vào trong sổ bên cạnh ghi chđã trả”; đối với mã na ngày 27, 28/6/2024
âm lịch, mua na với tổng số tiền 10.476.000 đồng, khi lấy na ngày 27/6/2024
có trả trước 3.500.000 đồng, đến ngày hôm sau 28/7/2024 tiếp tục mua na trả
tiếp 2.000.000 đồng cho ông Văn Th nhưng không bảo ông trừ số tiền này vào
sổ ghi nợ vì nghĩ rằng ông Lê Văn Th sẽ tự trừ tiền vào sổ của mình, số tiền còn
nợ của hai mã na ngày 27, 28/6/2024 âm lịch là 5.000.000 đồng và 1.000.000 đồng
na ngày 17/6/2024 âm lịch. Khi ông Văn Th chốt sổ của ngày 27, 28/6
cũng mặt đó, biết chữ được kiểm tra nhưng cũng không biết ông
Văn Th cộng tiền bao nhiêu, do khi đó bà đang vội đi nên không để ý cũng
không ý kiến về số tiền nợ đã chốt; ngày 29/6/2024, mua 220 kg với gtiền
3.960.000 đồng, hẹn đến ngày 03/7/2024 âm lịch sẽ trả tiền nhưng buổi trưa cùng
ngày đã mang tiền sang trả cho ông Văn Th cổng nhà; ngày 01/7/2024 âm
lịch, mua tiếp 1.616.000 đồng tiền na, chưa trả tiền na này trả số tiền
3.000.000 đồng của na ngày 27, 28/6/2024 âm lịch; sáng ngày 03/7/2024 âm
lịch đến nhà ông Văn Th để mua 50 kg na nhưng vợ chồng ông không ở nhà
nên đã gửi na nhà Ních (mẹ ông Văn Th ngay cạnh nhà ông Thao) với
giá 800.000 đồng. Buổi trưa cùng ngày quay lại để bán hoa quả cho Ních
thấy ông Lê Văn Th có mặt ở nhà, có gọi ông sang nhà bà Ních để trả hết số tiền
2.000.000 đồng còn nợ của na ngày 27, 28/6/2024 âm lịch; ngày 04/7/2024 âm
lịch, mua 50 kg với giá 800.000 đồng, chưa trả tiền ngay mà hẹn cuối vụ hết na sẽ
trả tiền nhưng hôm đó trả s tiền 3.960.000 đồng na ngày 29/6/2024,
4
còn được bớt 10.000 đồng; đến ngày 06/8/2024 âm lịch đến nhà ông Thao để
thanh toán số tiền còn lại đã đưa cho vợ ông Văn Th Nguyễn Thị Th1
số tiền 3.000.000 đồng để thanh toán hai mã na ngày 03/7/2024 và ngày 04/7/2024
âm lịch và số tiền còn nợ ngày 17/6/2024 âm lịch, tổng 2.600.000 đồng. Các lần
bà trả tiền đều không có ai chứng kiến hay lập giấy tờ gì, ông Lê Văn Th sẽ tự gạch
vào sổ của mình. Chỉ có ngày 03/7 âm lịch có sự chứng kiến của bà Vy Thị N.
Tại phiên tòa, Nguyễn Thị T khai, ngày 03/7 trả 2.000.000 đồng của
na ngày 27, 28/6; ngày mùng 4/7 trả stiền 3.960.000 của ngày 29/6
1.600.000 đồng của na ngày 01/7, đến ngày 06/8 thì trả thêm 3.000.000 đồng
của mã na ngày 03, 04/7 1.000.000 đồng còn nợ của mã ngày 17/6, tất cả đều
ngày âm lịch. Như vậy đã trả hết nợ ông Thao còn nợ 400.000 đồng.
Ngày 06/8/2024 âm lịch, khi hai n cùng chốt n, ông Văn Th ghi vào sổ
“cộng tổng tiền na năm 2024”, được đọc lại tên, do lúc đó vội đi đóng
hàng hoa quả chưa cộng lại các na nên đã yêu cầu ông Văn Th viết ra
mặt sau của một tờ lịch các mã na còn nợ để đối chiếu. Đến tối cùng ngày, sau khi
đối chiếu lại bà gọi điện thoại nói rằng đã trả hết tiền nhưng ông Văn Th không
nhất trí. hẹn đến ngày 10.8.2024 âm lịch vào nhà chốt lại nợ, tuy nhiên ông
Thao không vào, từ đó đến nay chỉ trao đổi qua điện thoại. một vài lần gặp
nhau đường, ông Văn Th đòi trả nợ nhưng nói đã trả hết tiền thì bị
ông Lê Văn Th dọa đánh.
Đối với mặt sau của tờ lịch đúng như ông Văn Th tnh bày, các ng
ngày 28/6 = 2.000.000, ngày 29/6 = 3.960.000, ngày 1/7 = 1.616.000, ngày 3/7 =
800.000, ngày 4/7 = 800.000, nợ = 1.000.000; = 10.176.000 do ông Thao ghi,
toàn bộ chữ còn lại trong tờ lịch là do viết vào tối ngày 06.8.2024 âm lịch, trước
khi gọi điện thoại cho ông Lê Văn Th.
Ngày 29/6/2024 âm lịch, ông Thao mua của 01 qudưa hấu, 01 quả
dưa vàng 5.000 đồng tiền mướp ngọt nhưng chưa trả tiền.
Tính đến nay đã tranh toán đủ tất cả các na mua trong m 2024 nên
bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Th. Do ông Lê Văn Th còn
nợ tiền nên bà có yêu cầu phản t yêu cầu ông Thao phải trả số tiền 480.000 đồng.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/12/2024, bà Nguyễn Thị Th1 trình bày:
vợ của ông Văn Th, việc mua bán giữa chồng và Nguyễn Thị T
không được biết. Ngày 06/8/2024 âm lịch Nguyễn Thị T lên nhà chốt nợ
tiền mua na với ông Văn Th, bà được chứng kiến hai bên chốt lại số tiền na
còn nợ là 10.176.000 đồng, bà Nguyễn Thị T có được đọc lại và ký vào sổ của ông
Văn Th. Ngày hôm đó Nguyễn Thị T đưa cho số tiền 3.000.000 đồng
và hẹn đến 10/8/2024 âm lịch sẽ trả hết. Sau khi Nguyễn Thị T về thì bà đã đưa
toàn bộ số tiền này cho chồng.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm
phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định pháp luật. Các đương s,
ngưi làm chng đã thực hiện đầy đủ các quyền nghĩa vụ của mình đúng quy
định tại các Điều 70, 71, 72,73, 78 B lut T tng dân s; vnội dung vụ án đề
5
ngh Hội đồng xét x: Căn cứ các Điều 351, 430, 440 B lut Dân s: chp nhn
toàn b yêu cu khi kin ca ông Lê Văn Th, buc bà Nguyn Th T phi có trách
nhim tr cho ông Lê Văn Th s tin mua na còn n 7.176.000 đng; chp nhn
mt phn yêu cu phn t ca Nguyn Th T, buc ông Lê Văn Th phi tr cho
Tâm s tin mua hoa qu chưa trả 80.000 đồng. Không chp nhn mt phn
yêu cu phn t ca Nguyn Th T v vic buc ông Văn Th phi tr s tin
400.000 đồng; v án phí: căn cứ điu 147 B lut T tng dân sự, điểm b khon 1,
khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Ngh quyết 326/2016/UBTVQH 14, do yêu cầu
của ông Văn Th được chấp nhận nên Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự
giá ngạch theo quy định. Đối với yêu cầu phản tố của bà Tâm không được chấp
nhận bà Tâm phải chịu án phí, phần được chấp nhận ông Thao phải chịu án phí
theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan h pháp luật thẩm quyền: Quan h tranh chp gia các
đương sự phát sinh t hoạt đng mua bán hàng hóa phc v nhu cu phát trin
kinh tế của gia đình nên đưc xác định là tranh chp hợp đồng mua bán tài sn. B
đơn bà Nguyn Th T địa ch: Thôn Đ, Đ, huyện HL, tnh Lạng Sơn căn cứ
theo quy đnh ti khoản 3 Điều 26, đim a khon 1 Điu 35, đim a khoản 1 Điều
39 ca B lut T tng dân s, v án thuc thm quyn gii quyết ca Tòa án nhân
dân huyn Hu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan Nguyễn Thị Th1, người làm chứng Vy Thị N, tuy nhiên họ đã
lời khai trong h nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án vắng
mặt theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ tại
phiên tòa, xác định: việc Nguyễn Thị T mua na với ông Văn Th từ năm
2023. Các lần mua bán na trong năm 2023 đều đã thanh toán xong. Do có quan hệ
họ hàng nên năm 2024, hai bên chuyển sang phương thức mua nợ, trả trước một
phần hoặc toàn bộ hoặc na sau sẽ trả tiền của na trước. Việc mua, bán na
giữa hai bên được giao kết bằng lời nói, nguyên đơn sổ ghi chép theo dõi các
lần mua bán na, không có việc ký nhận trong sổ (trừ giấy cộng tổng tiền na 2024).
Khi giao na, trả tiền, mua na ngày nào trả tiền ngày đó, nếu chưa trả đủ sghi
nợ, sau một khoảng thời gian thì hai bên sẽ cùng cộng sổ chốt nvới nhau để
thanh toán.
[4] Nguyên đơn ông Văn Th giao nộp cho Tòa án 01 quyển sổ ghi
các lần lấy hàng, trả tiền với Nguyễn Thị T, trong đó 01 tờ giấy nội dung
Cộng tổng tiền na 2024. Chị Tâm nợ 10.176.000 đồng (mười triệu một trăm
bảy sáu nghìn), ngày 06/8 âm lịch trả ba triệu. Tổng còn bảy triệu 7.000.000 đồng
hẹn đến 10/8 âm lịch trả nốt. chữ cùng tên của Nguyễn Thị T. Bị đơn
Nguyễn Thị T thừa nhận có được mua quả na với ông Lê Văn Th từ 2023 và đã
thanh toán xong các na của năm 2023. Đến năm 2024, mỗi lần lấy na đều ghi
6
vào sổ của ông Văn Th. Khi ông Văn Th cộng chốt sổ số tiền nợ, mặt
khẳng định chữ tên tại giấy cộng tổng tiền na 2024 của bà, do tự
nguyện sau khi đã kiểm tra lại. Theo các tài liu chng c trong h thể hin
Nguyn Th T n ca ông Văn Th s tin 7.176.000 đồng. Tuy khi cht
n hai bên đã chốt s tiền 7.000.000 đng hẹn đến 10/8/2024 s thanh toán,
do Nguyn Th T không thc hin theo tha thun nên ông Văn Th yêu cu
bà Nguyn Th T phi tr đủ s tin 7.176.000 đồng là có căn cứ. Do đó chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Văn Th v vic yêu cu Nguyn Th T tr s tin
còn n là 7.176.000 đồng.
[5] Nguyn Th T cung cp cho Tòa án 01 t lch, mt sau ni dung
giy này em Thao gi”, trên đó có ghi các ngày ly na và s tin. Bà Nguyn Th T
cho rng sau khi cht n đã yêu cầu ông Văn Th viết vào mt sau mt t lch
các na còn nợ. Đến ti sau khi đi chiếu li thì thy rằng đã tr hết n nên đã
gọi điện thoi trao đổi vi ông Văn Th. Căn cứ vào các tài liu chng c
trong h sơ vụ án, thy rng vic bà Nguyn Th T cho rng đã trả hết s tiền na đã
n cho ông Văn Th vào ngày 06/8/2024 âm lch là không có căn c. Bi l, khi
hai bên cht n vào ngày 06/8/2024 âm lch đã được kim tra t nguyn
tên. Theo giy cng tng tiền na 2024 ghi Tổng còn bảy triệu 7.000.000
đồng hẹn đến 10/8 âm lịch trả nốt” nếu đã trả hết tiền thì sẽ không hẹn ngày trả
nợ, do đó s để khẳng định b đơn còn n tiền nguyên đơn. Đối vi mt sau
ca 01 t lch, Nguyn Th T cũng tha nhn các dòng ch ghi Ngày 28/6
=2.000.000, ngày 29/6 = 3.960.000, ngày 01/7 1.616.000, ngày 3/7 = 800.000,
ngày 4/7 = 800.000, n = 1.000.000, = 10.176.000do ông Văn Th ghi,
còn li 05 ch Ri” là do bà tự ghi vào. Hai bên cũng chưa từng đối chiếu cht n
vi nhau theo t lch này. Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa,
Nguyễn Thị T nhiều lần thay đổi ý kiến về ngày trả tiền của các mã na. Bà Nguyn
Th T còn trình bày s theo dõi vic mua bán na vi nhiều người nhưng
riêng vi ông Văn Th tli không ghi ly na nào tr tin na đó
nhưng thực tế khi ly na n tin ông Văn Th. Hơn nữa, bà cũng không
cung cấp thêm đưc tài liu chng c nào khác chng minh cho phn trình bày
ca mình. Như vậy không căn cứ để chứng minh đã thanh toán s tin n
cho ông Lê Văn Th.
[6] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn: vào ngày 06/8/2024 âm lịch
Nguyễn Thị T cho rằng đã trả cho ông Văn Th 3.000.000 đồng nhưng thực tế
chỉ còn nhai mã na ngày 03, 04/7/2024 âm lịch 1.600.000 đồng na
ngày 17/6/2024 âm lịch (mã na mua ngày đầu tiên), tổng là 2.600.000 đồng nên bà
đã tự ghi trả thừa cho ông Thao 400 (tức là 400.000 đồng) vào trong tờ lịch. Bà Vy
Thị N mẹ ông Lê Văn Th khai nhận không được chứng kiến việc trả tiền cho
ông Văn Th vào ngày 02/7/2024 âm lịch. Như đã phân tích mục [4] và mục
[5] do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận. Bị đơn không cung cấp
được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình ngoài mặt sau của tờ lịch
do bị đơn tự ghi nên Hội đồng xét x không có căn cứ để chấp nhận một phần yêu
cầu phản tố đối với stiền 400.000 đồng. Đối với số tiền 80.000 đồng, nguyên
đơn thừa nhận được mua của bị đơn 01 quả dưa hấu, 01 quả dưa vàng và 5.000
7
đồng tiền mướp ngọt, tổng cộng là 80.000 đồng nhưng chưa trả tiền. Do đó căn
cứ để chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc ông Lê Văn Th phải
trả số tiền 80.000 đồng.
[7] Về lãi suất: Do các đương sự không ai yêu cầu tính lãi suất nên
không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Th được
chấp nhận nên bị đơn Nguyên Th Tâm phải chịu 358.800 đồng tiền án phí dân
sự thẩm giá ngạch 300.000 đồng án phí đối với phần yêu cầu phản tố
không được chấp nhận; nguyên đơn ông Lê Văn Th phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự thẩm đối với phần yêu cầu phản tố được chấp nhận theo quy định tại
khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khon 2, khoản 5 Điều 26 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
[9] Xét đề ngh ca Kim sát viên ti phiên tòa v vic gii quyết v án
có căn cứ nên Hội đng xét x chp nhn.
[10] Các đương sự quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271,
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 351, Điều
430, Điều 434, Điều 440, Điều 468 Bộ luật Dân sự; khon 2, khoản 5 Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Th. Buộc bị
đơn Nguyn Th T nghĩa vthanh toán khoản nợ cho ông n Th tổng số
tiền 7.176.000 đồng.
2. Chp nhn mt phn yêu cu phn t ca Nguyn Th T. Buc ông
Văn Th có nghĩa vụ thanh tn cho Nguyễn ThT s tiền 80.000 đồng.
3. Không chp nhn mt phn yêu cu phn t ca bà Nguyn Th T v vic
yêu cu ông Lê Văn Th phi thanh toán s tin 400.000 đồng.
5. Án phí: Ông Văn Th phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để
nộp ngân sách Nhà nước. Xác nhận ông Văn Th đã nộp đủ 300.000 theo biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án ký hiu BLTU/23, s: 0004870 ngày
01/11/2024 ca Chi cc Thi hành án dân s huyn Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Nguyễn Thị T phải chịu 658.800 đồng án phí dân sự thẩm để nộp
ngân sách Nhà nước. Xác nhận Nguyễn Thị T đã nộp 300.000 đồng theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005001, ngày 03/3/2025. Nguyễn Thị
T còn phải nộp tiếp số tiền 358.800 đồng
8
6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn quyền kháng cáo Bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng
mặt quyền kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản
án.
Kể tngày tiếp theo của ngày tuyên án thẩm (ngày 05/5/2025) cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận
về mức lãi suất thì bên nghĩa vụ chậm trả tiền phải trả lãi đối với số tiền chậm
trả,tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 357, Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự có quyền thoả
thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án quy định tại điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN –CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Hữu Lũng;
- Chi cục THADS huyện Hữu Lũng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Ngô Thảo Nguyên
9
CÁC HI THM NHÂN DÂN
Nguyễn Duy Toàn Đặng Xuân Tun
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Ngô Tho Nguyên
Tải về
Bản án số 05/2025/DS-ST Bản án số 05/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 05/2025/DS-ST Bản án số 05/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất