Bản án số 05/2025/DS-ST ngày 05/05/2025 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 05/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 05/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 05/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 05/2025/DS-ST ngày 05/05/2025 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hữu Lũng (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
Số hiệu: | 05/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | ông Lê Văn Thao khởi kiện yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Thị Tâm trả tiền nợ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 05/2025/DS-ST
Ngày: 05-5-2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua
bán tài sản
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Ngô Thảo Nguyên
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Đặng Xuân Tuấn
2. Ông Nguyễn Duy Toàn
- Thư ký phiên toà: Bà Vy Khánh Ly – Thư ký Toà án nhân dân huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tham
gia phiên toà: Ông Mã Anh Tuấn - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2024/TLST-DS ngày
04 tháng 11 năm 2024 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 08/2025/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 03 năm 2025 ; Quyết
định hoãn phiên tòa số 08/2025/QĐST-DS, ngày 29/4/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn Th, sinh năm 1975. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ,
huyện HL, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện
HL, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn): Bà Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện HL, tỉnh
Lạng Sơn. Vắng mặt.
4. Người làm chứng: Bà Vy Thị N. Địa chỉ: Thôn Đồng Lai, xã Đồng Tân,
huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Văng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 10 năm 2024, các lời khai trong quá
trình tố tụng, nguyên đơn ông Lê Văn Th trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị T có
quan hệ họ hàng. Bà Nguyễn Thị T là người mua buôn quả na, từ năm 2023 ông có
bán na cho bà Nguyễn Thị T. Các lần mua bán na trong năm 2023 bà Nguyễn Thị
T đã thanh toán đủ tiền. Đến vụ na năm 2024, bắt đầu từ ngày 17/6/2024 âm lịch,
ông tiếp tục bán na cho bà Nguyễn Thị T. Các lần cụ thể như sau: Đối với mã na

2
ngày 17/6/2024 âm lịch, bán 98 kg x 30.000 đồng/kg = 2.940.000 đồng, bà Nguyễn
Thị T đã trả được 1.940.000 đồng, còn nợ 1.000.000 đồng đến cuối vụ khi cộng sổ
sẽ trả nốt nhưng đến cuối vụ bà Nguyễn Thị T cũng không trả; đối với mã na các
ngày 19/6/2024, 20/6/2024, 22/6/2024, 23/6/2024, 24/6/2024, 26/6/2024 bà
Nguyễn Thị T đã thanh toán đủ tiền nên đã gạch chéo vào trong sổ bên cạnh có ghi
chữ “đã trả”; đến ngày 27, 28/6/2024 âm lịch, trong hai ngày ông đã bán tổng 582
kg na (sau khi trừ 15 kg thùng xốp) x 18.000 đồng/kg = 10.476.000 đồng, khi lấy
na ngày 27/6/2024 bà Nguyễn Thị T có trả trước 3.500.000 đồng, tuy nhiên hai bên
thống nhất tính tròn bà Nguyễn Thị T còn nợ lại 7.000.000 đồng; ngày 29/6/2024
âm lịch, bán 220 kg na x 18.000 đồng/kg= 3.960.000 đồng, bà Nguyễn Thị T hẹn
đến tối quay lại trả tiền nhưng đến hẹn vẫn chưa thanh toán tiền; ngày 01/7/2024
âm lịch, bán 101 kg na x 16.000 đồng/kg = 1.616.000 đồng, bà Nguyễn Thị T trả
2.000.000 đồng để trừ vào 7.000.000 đồng còn lại của mã na hai ngày 27,
28/6/2024 âm lịch (trừ đi thì bà Nguyễn Thị T còn nợ 5.000.000 đồng), còn mã na
bán ngày 01/7/2024 bà Nguyễn Thị T chưa trả tiền; ngày 03/7/2024 âm lịch bán 50
kg na x 16.000 đồng = 800.000 đồng, bà Nguyễn Thị T trả 3.000.000 đồng để trừ
vào 5.000.000 đồng tiền nợ còn lại của mã na hai ngày 27, 28/6/2024 âm lịch (trừ
đi thì bà Nguyễn Thị T còn nợ 2.000.000 đồng), mã na ngày 03/7/2024 bà Nguyễn
Thị T chưa thanh toán; ngày 04/7/2024 âm lịch, bán 50 kg na cho bà Nguyễn Thị T
x 16.000 đồng= 800.000 đồng, hôm đó do ông đi ăn cỗ trong quê vợ ở xã Thiện
Tân nên ông đóng na vào thùng xốp sẵn gửi bên nhà mẹ đẻ là bà Vy Thị N ở ngay
sát nhà để bà Nguyễn Thị T lên lấy na, hôm đó bà Nguyễn Thị T chưa trả tiền cho
ông cũng không gửi tiền na lại cho mẹ ông. Tính đến ngày 06/8/2024 âm lịch, bà
Nguyễn Thị T còn nợ các mã na sau: mã na ngày 17/6/2024 nợ 1.000.000 đồng;
ngày 27, 28/6/2024 nợ lại 2.000.000 đồng; ngày 29/6/2024 nợ 3.960.000 đồng;
Ngày 01/7/2024 nợ 1.616.000 đồng; ngày 03/7/2024 nợ 800.000 đồng và ngày
04/7/2024 âm lịch nợ 800.000 (tất cả đều là ngày âm lịch); tổng số tiền bà Nguyễn
Thị T còn nợ là 10.176.000 đồng.
Ngày 06/8/2024 âm lịch bà Nguyễn Thị T vào nhà ông để thanh toán số tiền
na còn nợ, bà Nguyễn Thị T muốn hẹn mấy hôm nữa nhưng ông không đồng ý và
đi ra ngoài rửa sân. Bà Nguyễn Thị T ngồi trong nhà nói chuyện với vợ ông. Một
lúc sau vợ ông ra gọi và nói rằng bà Nguyễn Thị T chỉ đồng ý trả 3.000.000 đồng,
vợ ông đã cầm và đưa lại cho ông nên ông viết vào sổ chốt nợ “cộng tổng tiền na
năm 2024” bà Nguyễn Thị T nợ 10.176.000 đồng, ngày 6/8/2024 âm lịch trả
3.000.000 đồng, còn 7.000.000 đồng bà Nguyễn Thị T hẹn đến 10/8/2024 âm lịch
sẽ trả hết. Bà Nguyễn Thị T được đọc và ký xác nhận nợ ở cuối trang giấy chốt nợ.
Tuy nhiên, khi đến hẹn bà Nguyễn Thị T không trả tiền, ông đã gọi điện thoại
nhiều lần nhưng bà Nguyễn Thị T nói là đã trả hết tiền. Theo giấy chốt nợ, bà
Nguyễn Thị T còn nợ ông 7.000.000 đồng, lúc đó ông đã bớt 176.000 đồng, do bà
Nguyễn Thị T cố tình trốn tránh không trả nên ông yêu cầu tính đủ là 7.176.000
đồng. Việc ông làm na, mua bán na với bà Nguyễn Thị T không liên quan gì đến
vợ là bà Nguyễn Thị Th1, vợ ông đi bán thịt lợn ở chợ từ sáng sớm và thường về
muộn nên không biết được việc ông mua bán na như thế nào.
3
Về tờ lịch ghi mã na bà Nguyễn Thị T cung cấp cho Toà án, là do ông ghi
các mã còn nợ tiền (phần chữ viết màu mực đậm hơn) ra một tờ lịch để bà Nguyễn
Thị T đối chiếu, cụ thể: ngày 28/6 = 2.000.000, ngày 29/6 = 3.960.000, ngày 1/7 =
1.616.000, ngày 3/7 = 800.000, ngày 4/7 = 800.000, nợ cũ = 1.000.000; =
10.176.000; toàn bộ chữ còn lại trong tờ lịch đều do bà Nguyễn Thị T tự ghi vào.
Ông khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị T phải trả đủ số tiền 7.176.000 đồng
theo giấy cộng tổng tiền na 2024, không yêu cầu tính lãi suất.
Đối với yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T, về số tiền 400.000 đồng bà
cho rằng đã trả thừa tiền na ngày 06/8/2024 âm lịch, ông không đồng ý. Theo Sổ
ghi từng mã na, tính đến ngày 06/8/2024 âm lịch bà Nguyễn Thị T còn nợ tổng tiền
na là 7.176.000 đồng, bà Nguyễn Thị T được ký chốt nợ vào trong sổ, như vậy bà
trình bày đã trả hết nợ và ông còn nợ lại 400.00 đồng là không đúng; đối với số
tiền 80.000 đồng ông thừa nhận là có được mua hoa quả và rau của bà Nguyễn Thị
T và chưa trả tiền nên ông nhất trí trả số tiền này.
Trong quá trình tố tụng, bị đơn bà Nguyễn Thị T trình bày: Bà và ông Lê
Văn Th có mối quan hệ họ hàng. Bà là chủ mua na nên năm 2023 có mua na với
ông Lê Văn Th và hai bên đã thanh toán đầy đủ. Đến vụ na năm 2024, bà tiếp tục
mua na của nhà ông Lê Văn Th. Mỗi lần mua bán na đều ghi vào sổ của ông Lê
Văn Th, cụ thể các lần mua bán đúng như ông Lê Văn Th trình bày, nhưng về số
tiền trả nợ thì cụ thể như sau: Đối với mã na ngày 17/6/2024 âm lịch bà được mua
98 kg na với giá tiền 2.940.000 đồng, đã trả được 2.000.000 đồng, còn nợ
1.000.000 đồng; đối với các mã na ngày 19/6/2024, 20/6/2024, 22/6/2024,
23/6/2024, 24/6/2024, 26/6/2024 đã thanh toán đủ tiền và ông Lê Văn Th gạch
chéo vào trong sổ bên cạnh có ghi chữ “đã trả”; đối với mã na ngày 27, 28/6/2024
âm lịch, có mua na với tổng số tiền là 10.476.000 đồng, khi lấy na ngày 27/6/2024
bà có trả trước 3.500.000 đồng, đến ngày hôm sau 28/7/2024 tiếp tục mua na và trả
tiếp 2.000.000 đồng cho ông Lê Văn Th nhưng không bảo ông trừ số tiền này vào
sổ ghi nợ vì nghĩ rằng ông Lê Văn Th sẽ tự trừ tiền vào sổ của mình, số tiền bà còn
nợ của hai mã na ngày 27, 28/6/2024 âm lịch là 5.000.000 đồng và 1.000.000 đồng
mã na ngày 17/6/2024 âm lịch. Khi ông Lê Văn Th chốt sổ của ngày 27, 28/6 bà
cũng có mặt ở đó, bà có biết chữ và được kiểm tra nhưng bà cũng không biết ông
Lê Văn Th cộng tiền bao nhiêu, do khi đó bà đang vội đi nên không để ý và cũng
không có ý kiến gì về số tiền nợ đã chốt; ngày 29/6/2024, mua 220 kg với giá tiền
3.960.000 đồng, hẹn đến ngày 03/7/2024 âm lịch sẽ trả tiền nhưng buổi trưa cùng
ngày bà đã mang tiền sang trả cho ông Lê Văn Th ở cổng nhà; ngày 01/7/2024 âm
lịch, mua tiếp 1.616.000 đồng tiền na, bà chưa trả tiền mã na này mà trả số tiền
3.000.000 đồng của mã na ngày 27, 28/6/2024 âm lịch; sáng ngày 03/7/2024 âm
lịch bà đến nhà ông Lê Văn Th để mua 50 kg na nhưng vợ chồng ông không ở nhà
nên đã gửi na ở nhà bà Ních (mẹ ông Lê Văn Th ở ngay cạnh nhà ông Thao) với
giá 800.000 đồng. Buổi trưa cùng ngày bà quay lại để bán hoa quả cho bà Ních
thấy ông Lê Văn Th có mặt ở nhà, bà có gọi ông sang nhà bà Ních để trả hết số tiền
2.000.000 đồng còn nợ của mã na ngày 27, 28/6/2024 âm lịch; ngày 04/7/2024 âm
lịch, mua 50 kg với giá 800.000 đồng, chưa trả tiền ngay mà hẹn cuối vụ hết na sẽ
trả tiền nhưng hôm đó bà có trả số tiền 3.960.000 đồng mã na ngày 29/6/2024, bà

4
còn được bớt 10.000 đồng; đến ngày 06/8/2024 âm lịch bà đến nhà ông Thao để
thanh toán số tiền còn lại và đã đưa cho vợ ông Lê Văn Th là bà Nguyễn Thị Th1
số tiền 3.000.000 đồng để thanh toán hai mã na ngày 03/7/2024 và ngày 04/7/2024
âm lịch và số tiền còn nợ ngày 17/6/2024 âm lịch, tổng là 2.600.000 đồng. Các lần
bà trả tiền đều không có ai chứng kiến hay lập giấy tờ gì, ông Lê Văn Th sẽ tự gạch
vào sổ của mình. Chỉ có ngày 03/7 âm lịch có sự chứng kiến của bà Vy Thị N.
Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị T khai, ngày 03/7 bà trả 2.000.000 đồng của
mã na ngày 27, 28/6; ngày mùng 4/7 trả số tiền 3.960.000 của mã ngày 29/6 và
1.600.000 đồng của mã na ngày 01/7, đến ngày 06/8 thì trả thêm 3.000.000 đồng
của mã na ngày 03, 04/7 và 1.000.000 đồng còn nợ của mã ngày 17/6, tất cả đều là
ngày âm lịch. Như vậy là bà đã trả hết nợ và ông Thao còn nợ bà 400.000 đồng.
Ngày 06/8/2024 âm lịch, khi hai bên cùng chốt nợ, ông Lê Văn Th có ghi vào sổ
“cộng tổng tiền na năm 2024”, bà có được đọc lại và ký tên, do lúc đó vội đi đóng
hàng hoa quả bà chưa cộng lại các mã na nên đã yêu cầu ông Lê Văn Th viết ra
mặt sau của một tờ lịch các mã na còn nợ để đối chiếu. Đến tối cùng ngày, sau khi
đối chiếu lại bà gọi điện thoại nói rằng đã trả hết tiền nhưng ông Lê Văn Th không
nhất trí. Bà hẹn đến ngày 10.8.2024 âm lịch vào nhà bà chốt lại nợ, tuy nhiên ông
Thao không vào, từ đó đến nay mà chỉ trao đổi qua điện thoại. Có một vài lần gặp
nhau ở đường, ông Lê Văn Th đòi bà trả nợ nhưng bà nói là đã trả hết tiền thì bị
ông Lê Văn Th dọa đánh.
Đối với mặt sau của tờ lịch đúng như ông Lê Văn Th trình bày, các dòng
ngày 28/6 = 2.000.000, ngày 29/6 = 3.960.000, ngày 1/7 = 1.616.000, ngày 3/7 =
800.000, ngày 4/7 = 800.000, nợ cũ = 1.000.000; = 10.176.000 do ông Thao ghi,
toàn bộ chữ còn lại trong tờ lịch là do bà viết vào tối ngày 06.8.2024 âm lịch, trước
khi gọi điện thoại cho ông Lê Văn Th.
Ngày 29/6/2024 âm lịch, ông Thao có mua của bà 01 quả dưa hấu, 01 quả
dưa vàng và 5.000 đồng tiền mướp ngọt nhưng chưa trả tiền.
Tính đến nay bà đã tranh toán đủ tất cả các mã na mua trong năm 2024 nên
bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Th. Do ông Lê Văn Th còn
nợ tiền nên bà có yêu cầu phản tố yêu cầu ông Thao phải trả số tiền 480.000 đồng.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/12/2024, bà Nguyễn Thị Th1 trình bày: Bà
là vợ của ông Lê Văn Th, việc mua bán giữa chồng bà và bà Nguyễn Thị T bà
không được biết. Ngày 06/8/2024 âm lịch bà Nguyễn Thị T có lên nhà bà chốt nợ
tiền mua na với ông Lê Văn Th, bà có được chứng kiến hai bên chốt lại số tiền na
còn nợ là 10.176.000 đồng, bà Nguyễn Thị T có được đọc lại và ký vào sổ của ông
Lê Văn Th. Ngày hôm đó bà Nguyễn Thị T có đưa cho bà số tiền 3.000.000 đồng
và hẹn đến 10/8/2024 âm lịch sẽ trả hết. Sau khi bà Nguyễn Thị T về thì bà đã đưa
toàn bộ số tiền này cho chồng.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm
phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định pháp luật. Các đương sự,
người làm chứng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy
định tại các Điều 70, 71, 72,73, 78 Bộ luật Tố tụng dân sự; về nội dung vụ án đề

5
nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ các Điều 351, 430, 440 Bộ luật Dân sự: chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Th, buộc bà Nguyễn Thị T phải có trách
nhiệm trả cho ông Lê Văn Th số tiền mua na còn nợ là 7.176.000 đồng; chấp nhận
một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T, buộc ông Lê Văn Th phải trả cho
bà Tâm số tiền mua hoa quả chưa trả là 80.000 đồng. Không chấp nhận một phần
yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T về việc buộc ông Lê Văn Th phải trả số tiền
400.000 đồng; về án phí: căn cứ điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm b khoản 1,
khoản 3 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, do yêu cầu
của ông Lê Văn Th được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự
có giá ngạch theo quy định. Đối với yêu cầu phản tố của bà Tâm không được chấp
nhận bà Tâm phải chịu án phí, phần được chấp nhận ông Thao phải chịu án phí
theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Quan hệ tranh chấp giữa các
đương sự phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa phục vụ nhu cầu phát triển
kinh tế của gia đình nên được xác định là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản. Bị
đơn bà Nguyễn Thị T có địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện HL, tỉnh Lạng Sơn căn cứ
theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị Th1, người làm chứng bà Vy Thị N, tuy nhiên họ đã có
lời khai trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án vắng
mặt theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và tại
phiên tòa, xác định: Có việc bà Nguyễn Thị T mua na với ông Lê Văn Th từ năm
2023. Các lần mua bán na trong năm 2023 đều đã thanh toán xong. Do có quan hệ
họ hàng nên năm 2024, hai bên chuyển sang phương thức mua nợ, trả trước một
phần hoặc toàn bộ hoặc mã na sau sẽ trả tiền của mã na trước. Việc mua, bán na
giữa hai bên được giao kết bằng lời nói, nguyên đơn có sổ ghi chép theo dõi các
lần mua bán na, không có việc ký nhận trong sổ (trừ giấy cộng tổng tiền na 2024).
Khi giao na, trả tiền, mua mã na ngày nào trả tiền ngày đó, nếu chưa trả đủ sẽ ghi
nợ, sau một khoảng thời gian thì hai bên sẽ cùng cộng sổ chốt nợ với nhau để
thanh toán.
[4] Nguyên đơn ông Lê Văn Th giao nộp cho Tòa án 01 quyển sổ có ghi
các lần lấy hàng, trả tiền với bà Nguyễn Thị T, trong đó 01 tờ giấy có nội dung
“Cộng tổng tiền na 2024. Chị Tâm nợ là 10.176.000 đồng (mười triệu một trăm
bảy sáu nghìn), ngày 06/8 âm lịch trả ba triệu. Tổng còn bảy triệu 7.000.000 đồng
hẹn đến 10/8 âm lịch trả nốt”. Có chữ ký cùng tên của bà Nguyễn Thị T. Bị đơn
bà Nguyễn Thị T thừa nhận có được mua quả na với ông Lê Văn Th từ 2023 và đã
thanh toán xong các mã na của năm 2023. Đến năm 2024, mỗi lần lấy na đều ghi
6
vào sổ của ông Lê Văn Th. Khi ông Lê Văn Th cộng chốt sổ số tiền nợ, bà có mặt
và khẳng định chữ ký và tên tại giấy cộng tổng tiền na 2024 là của bà, do bà tự
nguyện ký sau khi đã kiểm tra lại. Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện
bà Nguyễn Thị T có nợ của ông Lê Văn Th số tiền 7.176.000 đồng. Tuy khi chốt
nợ hai bên đã chốt số tiền là 7.000.000 đồng và hẹn đến 10/8/2024 sẽ thanh toán,
do bà Nguyễn Thị T không thực hiện theo thỏa thuận nên ông Lê Văn Th yêu cầu
bà Nguyễn Thị T phải trả đủ số tiền 7.176.000 đồng là có căn cứ. Do đó chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn Th về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T trả số tiền
còn nợ là 7.176.000 đồng.
[5] Bà Nguyễn Thị T cung cấp cho Tòa án 01 tờ lịch, mặt sau có nội dung
“giấy này em Thao gi”, trên đó có ghi các ngày lấy na và số tiền. Bà Nguyễn Thị T
cho rằng sau khi chốt nợ đã yêu cầu ông Lê Văn Th viết vào mặt sau một tờ lịch
các mã na còn nợ. Đến tối sau khi đối chiếu lại thì thấy rằng đã trả hết nợ nên đã
gọi điện thoại trao đổi với ông Lê Văn Th. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, thấy rằng việc bà Nguyễn Thị T cho rằng đã trả hết số tiền na đã
nợ cho ông Lê Văn Th vào ngày 06/8/2024 âm lịch là không có căn cứ. Bởi lẽ, khi
hai bên chốt nợ vào ngày 06/8/2024 âm lịch bà đã được kiểm tra và tự nguyện ký
tên. Theo giấy cộng tổng tiền na 2024 có ghi rõ “Tổng còn bảy triệu 7.000.000
đồng hẹn đến 10/8 âm lịch trả nốt” nếu đã trả hết tiền thì sẽ không hẹn ngày trả
nợ, do đó có cơ sở để khẳng định bị đơn còn nợ tiền nguyên đơn. Đối với mặt sau
của 01 tờ lịch, bà Nguyễn Thị T cũng thừa nhận các dòng chữ có ghi “Ngày 28/6
=2.000.000, ngày 29/6 = 3.960.000, ngày 01/7 – 1.616.000, ngày 3/7 = 800.000,
ngày 4/7 = 800.000, nợ cũ = 1.000.000, = 10.176.000” là do ông Lê Văn Th ghi,
còn lại 05 chữ “Rồi” là do bà tự ghi vào. Hai bên cũng chưa từng đối chiếu chốt nợ
với nhau theo tờ lịch này. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà
Nguyễn Thị T nhiều lần thay đổi ý kiến về ngày trả tiền của các mã na. Bà Nguyễn
Thị T còn trình bày bà có sổ theo dõi việc mua bán na với nhiều người nhưng
riêng với ông Lê Văn Th thì lại không ghi vì lấy mã na nào trả tiền mã na đó
nhưng thực tế khi lấy na bà có nợ tiền ông Lê Văn Th. Hơn nữa, bà cũng không
cung cấp thêm được tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh cho phần trình bày
của mình. Như vậy không có căn cứ để chứng minh bà đã thanh toán số tiền nợ
cho ông Lê Văn Th.
[6] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn: vào ngày 06/8/2024 âm lịch bà
Nguyễn Thị T cho rằng đã trả cho ông Lê Văn Th 3.000.000 đồng nhưng thực tế
bà chỉ còn nợ hai mã na ngày 03, 04/7/2024 âm lịch là 1.600.000 đồng và mã na
ngày 17/6/2024 âm lịch (mã na mua ngày đầu tiên), tổng là 2.600.000 đồng nên bà
đã tự ghi trả thừa cho ông Thao 400 (tức là 400.000 đồng) vào trong tờ lịch. Bà Vy
Thị N là mẹ ông Lê Văn Th khai nhận không được chứng kiến việc bà trả tiền cho
ông Lê Văn Th vào ngày 02/7/2024 âm lịch. Như đã phân tích ở mục [4] và mục
[5] do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận. Bị đơn không cung cấp
được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình ngoài mặt sau của tờ lịch
do bị đơn tự ghi nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận một phần yêu
cầu phản tố đối với số tiền 400.000 đồng. Đối với số tiền 80.000 đồng, nguyên
đơn thừa nhận có được mua của bị đơn 01 quả dưa hấu, 01 quả dưa vàng và 5.000

7
đồng tiền mướp ngọt, tổng cộng là 80.000 đồng nhưng chưa trả tiền. Do đó có căn
cứ để chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn về việc ông Lê Văn Th phải
trả số tiền 80.000 đồng.
[7] Về lãi suất: Do các đương sự không ai có yêu cầu tính lãi suất nên
không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn Th được
chấp nhận nên bị đơn bà Nguyên Thị Tâm phải chịu 358.800 đồng tiền án phí dân
sự sơ thẩm có giá ngạch và 300.000 đồng án phí đối với phần yêu cầu phản tố
không được chấp nhận; nguyên đơn ông Lê Văn Th phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu phản tố được chấp nhận theo quy định tại
khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2, khoản 5 Điều 26 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
[9] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án là
có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271,
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 1 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 351, Điều
430, Điều 434, Điều 440, Điều 468 Bộ luật Dân sự; khoản 2, khoản 5 Điều 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn Th. Buộc bị
đơn bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho ông Lê Văn Th tổng số
tiền 7.176.000 đồng.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T. Buộc ông Lê
Văn Th có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị T số tiền 80.000 đồng.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị T về việc
yêu cầu ông Lê Văn Th phải thanh toán số tiền 400.000 đồng.
5. Án phí: Ông Lê Văn Th phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để
nộp ngân sách Nhà nước. Xác nhận ông Lê Văn Th đã nộp đủ 300.000 theo biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án ký hiệu BLTU/23, số: 0004870 ngày
01/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Bà Nguyễn Thị T phải chịu 658.800 đồng án phí dân sự sơ thẩm để nộp
ngân sách Nhà nước. Xác nhận bà Nguyễn Thị T đã nộp 300.000 đồng theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005001, ngày 03/3/2025. Bà Nguyễn Thị
T còn phải nộp tiếp số tiền 358.800 đồng

8
6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng
mặt có quyền kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản
án.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 05/5/2025) cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận
về mức lãi suất thì bên có nghĩa vụ chậm trả tiền phải trả lãi đối với số tiền chậm
trả,tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 357, Điều 468
Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự có quyền thoả
thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án quy định tại điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN –CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Hữu Lũng;
- Chi cục THADS huyện Hữu Lũng;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Ngô Thảo Nguyên
9
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
Nguyễn Duy Toàn Đặng Xuân Tuấn
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ngô Thảo Nguyên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Bản án số 865/2025/DS-PT ngày 05/08/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm