Bản án số 03/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 03/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hữu Lũng (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 03/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: khoản vay có thười hạn và có lãi suất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HỮU LŨNG
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 03/2025/DS-ST
Ngày 31-3-2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Mạnh Cường.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Lê Thị Hồng Vân.
2. Ông Hoàng Văn Thưởng.
- Thư phiên toà: Vy Khánh Ly - Thư Toà án nhân dân huyện Hữu
Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn tham
gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Tuyên - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụsố: 69/2024/TLST-
DS ngày 21 tháng 10 năm 2024 về việc Tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2025/QÐXXST-DS ngày 21 tháng 02 năm
2025, Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2025/QĐST-DS ngày 19 tháng 3 năm
2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị B, sinh năm 1972. Địa chỉ: Thôn R, Đ,
huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Bị đơn:
+ Ông Nông Văn T, sinh năm 1970. Có mặt.
+ Bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1976. Có mặt.
Cùng địa chỉ: Số nhà A, ngõ A, đường C, khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh
Lạng Sơn.
- Người làm chứng:
+ Bà Hoàng Thị L, sinh năm 1986. Địa chỉ: Số nhà C, đường C, khu T, thị
trấn H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Phạm M, sinh năm 1957. Địa chỉ: Số A, đường C, khu T, thị trấn H,
huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Trong đơn khởi kiện ngày 30/9/2021, bản tự khai, các lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị B trình bày:
và vợ chồng ông Nông Văn T, Hoàng Thị T1 quan hệ quen biết
nhau. Ngày 06/5/2022 (âm lịch), hai ông bà hỏi vay số tiền 50.000.000 đồng; khi
vay tiền, bà Hoàng Thị T1 có viết giấy vay tiền đề ngày 06/5/2022 và được cả hai
bên được ký xác nhận, sau đó bà Hoàng Thị T1nói vay trong vòng 01 tháng
sẽ thu xếp trả tiền, nên bà Nguyễn Thị B không tính lãi. Tuy nhiên đến hẹn vợ
chồng họ không trả được tiền cho bà.
Đến ngày 14/7/2022 (dương lịch) tức ngày 16/6/2022 (âm lịch), hai vợ
chồng tiếp tục hỏi vay số tiền 70.000.000 đồng để đáo hạn ngân hàng; hai bên có
lập giấy vay tiền do bà Hoàng Thị T1 viết tay cùng ký, lúc đó ông Nông Văn
T cũng có mặt và nói “một mình bà T1 ký vào giấy là được rồi”. Trong giấy vay
tiền, phần cuối trang ghi chữ “Tiền lại:700.000” nội dung hai bên thoả thuận
về việc tính i suất của khoản vay 70.000.000 đồng tương ng 700.000
đồng/tháng. Hoàng Thị T1 hẹn khi nào bán được nhà thì sẽ trả tiền toàn bộ hai
khoản vay 120.000.000 đồng tự nguyện trả lãi 1.200.000 đồng/tháng/nợ gốc.
Sau một năm kể từ ngày cho vay tiền, Nguyễn Thị B đã đến nhà ông
Nông Văn T, bà Hoàng Thị T1 để đòi tiền nhiều lần nhưng họ không trả; dẫn đến
việc, hai bên đã thống nhất cùng nhau lập “Giấy xác nhận trả nợ” ngày 23/7/2023
để chốt lại hai khoản vay trước đó; có ông Phạm Minh L1 hàng xóm cạnh nhà bà
T1 làm chứng. Tổng số tiền còn nợ là 130.000.000 đồng, trong đó có 02 n
vay trước cộng với 10.000.000 đồng tiền thuê nhà (bị đơn thuê làm quán bán
hàng), thoả thuận gia hạn trả nợ đến ngày 23/12/2023, “bà T1 tự nguyện trả lãi
1.200
N
.1 tháng” tức tự nguyện trả tiền lãi 1.200.000 đồng/tháng/tổng số tiền
vay. Nếu đến hết ngày 23/12/2023, không trả được nợ thì sẽ đổi bằng đồ nội thất
gỗ tính theo định giá.
Đến hẹn, do không trả được tiền nên Nguyễn Thị B đến xem đồ nội
thất, tuy nhiên khi bà Hoàng Thị T1 nói bộ bàn ghế với kệ tivi giá 100.000.000
đồng là không hợp lý nên bà yêu cầu trả khoản vay bằng tiền mặt; bà Hoàng Thị
T1 hẹn khi nào bán được nhà thì sẽ trả đủ tiền. Trong suốt thời gian sau khi thoả
thuận lãi, vợ chồng ông Nông Văn T, Hoàng Thị T1 mới chỉ trả được 1.200.000
đồng tiền lãi của 01 tháng, khi trả không lập giấy tờ nên lâu ngày cũng không
nhớ vào thời gian nào.
Tiếp đến tháng 01/2024 dương lịch hai bên đã thống nhất thoả thuận lập
Giấy vay tiền (thay cho hợp đồng vay tiền) với nội dung ông Nông Văn T,
Hoàng Thị T1 trách nhiệm trả số tiền 161.030.000 đồng; trong đó
130.000.000 đồng tiền nợ gốc tiền lãi tạm tính đối với khoản vay
120.000.000 đồng từ ngày cho vay 06/5/2022 đến tháng 05/2024 dương lịch
31.030.000 đồng; các bị đơn hẹn bán nhà được sẽ trả đủ tiền cho bà. Khi lập giấy
3
vay tiền có Nguyễn Thị B, ông Nông n T và bà Hoàng Thị T1 tđọc
đồng ý vào phần người vay tiền, sau đó mang Giấy vay tiền đến nhà chị
Hoàng Thị L để ký vào phần làm chứng. Toàn bộ số tiền cho vay là tiền cá nhân
của bà Nguyễn Thị B tự đi vay, không liên quan đến các thành viên còn lại trong
gia đình.
Tại phiên toà nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc ông Nông
Văn T Hoàng Thị T1 trách nhiệm liên đới trả cho toàn bộ số tiền
161.030.000 đồng theo Giấy vay tiền đã thoả thuận vào tháng 01/2024 dương lịch,
tự nguyện không yêu cầu tính lãi suất từ khi chốt nợ đến khi giải quyết tại Tòa án;
trường hợp chậm trả, bị đơn phải chịu lãi xuất 01%/tiền nợ gốc/tháng kể từ ngày
01/4/2025 cho đến khi thi hành xong khoản nợ.
Tại bản tự khai, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
tòa bị đơn bà Hoàng Thị T1 trình bày:
Vợ chồng bà có mối quan hệ quen biết với nguyên đơn Nguyễn Thị B.
Ngày 06/5/2022, vợ chồng bà hỏi vay số tiền 50.00.000 đồng để sửa sang lại
căn nhà thuê của Nguyễn Thị B để bán hàng ăn; viết giấy vay tiền tại nhà
của bà. Khi vay hai bên không hẹn thời hạn trả nợ, tuy nhiên bà Nguyễn Thị B có
nói cho vay trước 50.000.000 đồng để sửa sang lại quán, sau bán ng nếu
thiếu tiền thì sẽ cho vay tiếp.
Đến ngày 14/7/2022 (tức 16/6/2022 âm lịch), vợ chồng tục hỏi vay số
tiền 70.000.000 đồng, hai bên lập giấy vay tiền do Nguyễn Thị B viết tay
có được ký, sau đó giao nhận tiền. Bà thừa nhận nội dung trong phần cuối
trang giấy vay tiền ghi “Tiền lại:700.000” thoả thuận tính lãi suất của khoản
vay 70.000.000 đồng theo lãi suất ngân hàng 01%/tháng là 700.000 đồng/tháng.
Khoảng tháng 7/2023, do nguyên đơn đòi lại nhà quán không cho thuê
bán hàng ăn nữa, nên vợ chồng bà đã chuyển tất cả đồ đạc, dỡ hết mái tôn ở quán
thuê chuyển vntại khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Đến ngày
23/7/2023, bà Nguyễn Thị B đến đòi lại tài sản và đòi trả tiền; hai bên có xô xát,
cãi nhau tuy nhiên sau đó đã thống nhất cùng nhau lập “giấy xác nhận trả nợ”
ngày 23/7/2023 để chốt lại khoản vay nợ tiền thuê nhà tổng số tiền
130.000.000 đồng. Khi viết giấy xác nhận ông Phạm Minh L1 người làm chứng
ký xác nhận vào trong giấy.
Hai bên thoả thuận gia hạn thời gian trả nợ đến ngày 23/12/2023 dương
lịch, Hoàng Thị T1 đồng trả tiền lãi theo lãi suất ngân hàng là 1.200.000
đồng/tháng. Bà Nguyễn Thị B nói đến hẹn, vợ chồng bà T1 không trả được nợ
thì sẽ đổi bằng đồ nội thất gỗ của gia đình để trừ nợ tính theo giá ngân hàng định
giá. Sau đó bà Nguyễn Thị B đến xem và bà Hoàng Thị T1 có được yêu cầu, nếu
4
lấy đồ nội thất thì phải trừ hết khoản nợ 130.000.000 đồng nhưng bà Nguyễn Thị
B không đồng ý.
trả cho bà Nguyễn Thị B số tiền lãi 1.200.000 đồng hàng tháng của
khoản vay được khoảng 3-4 lần, khi trả đưa tiền mặt trực tiếp, không lập giấy tờ,
vì lâu ngày nên bà không nhớ đã trả tiền lãi vào thời gian nào.
Đến tháng 01/2024 hai bên đã thống nhất thoả thuận lập Giấy vay tiền (thay
cho hợp đồng vay tiền) với nội dung vợ chồng trách nhiệm trả cho
Nguyễn Thị B stiền 161.030.000 đồng, trong đó 130.000.000 đồng tiền nợ
gốc tiền lãi tạm tính đối với khoản vay 120.000.000 đồng từ ngày cho vay
06/5/2022 đến tháng 01/2024 dương lịch là 31.030.000 đồng. Khi chốt nợ vợ
chồng hẹn khi nào tiền thì sẽ trả dần, khi đó do bà Nguyễn Thị B cũng đồng
ý nên vợ chồng bà mới đồng ý ký giấy vay tiền.
Nay Hoàng Thị T1 đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn vviệc vchồng
bà có trách nhiệm liên đới trả số tiền nợ 161.030.000 đồng, trường hợp chậm trả
bị đơn phải chịu lãi xuất 1%/tiền nợ gốc/tháng kể từ ngày 01/4/2025 cho đến khi
thi hành xong khoản nợ. Tuy nhiên, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên vợ chồng
T1 không đồng ý với phương thức trả một lần của nguyên đơn, bị đơn yêu cầu
khi có tiền sẽ trả dần.
Tại các lời khai trong qtrình giải quyết vụ án tại phiên tòa bị đơn
ông Nông Văn T trình bày:
Ông đồng nhất ý kiến với phần trình bày, yêu cầu của Hoàng Thị T1.
Những lần vay tiền đều do vợ ông trực tiếp thoả thuận, nhận tiền; mặc dù những
lần vay tiền, ông không được trực tiếp ký vào các giấy vay tiền đề ngày 6/5/2022
và ngày 14/7/2022 dương lịch nhưng vợ chồng ông đã thống nhất trước với nhau
về việc vay tiền vay với mục đích để mở quán bán hàng ăn phục vụ cho việc
phát triển kinh tế chung của gia đình.
Người làm chứng bà Hoàng Thị L trình bày: Ngày 06/5/2022 bà có được
chở bà Nguyễn Thị B ra Ngân hàng L2 chi nhánh huyện H, tỉnh Lạng Sơn để rút
50.000.000 đồng tiền mặt và mang đến nhà cho vợ chồng ông Nông Văn T và bà
Hoàng Thị T1 vay tiền. Tuy nhiên khi đến nhà thì bà không vào cùng nên không
trực tiếp nhìn thấy việc giao tiền. Đến khoảng tháng 01/2024, Nguyễn Thị B
có đến nhà và cầm theo “Giấy vay tiền”, sau đó bà cũng đồng ý ký làm chứng.
Người làm chứng ông Phạm M trình bày: Ông được xác nhận
người làm chứng vào “giấy xác nhận trả nợ” ngày 23/7/2023 với số tiền
130.000.000 đồng. Việc vợ chồng ông Nông Văn T và bà Hoàng Thị T1 bán nhà
hay chưa thì ông không biết, hiện ông đang ở nhờ tại nhà đất của họ.
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng
Sơn đã tiến hành mở phiên họp cho các đương sự kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
5
công khai chứng cứ; hòa giải vào ngày 21/02/2025 nhưng không thành.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án cho đến khi
xét xử, Hội đồng xét xử tại phiên tòa của những người tham gia tố tụng đều
đúng với quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình theo
quy định của pháp luật.
Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 19, 20, 117, 463, 465,
466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 2, khoản 2 Điều 5 Nghị quyết
01/2019/NQ-TP ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp
dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Nông Văn T
Hoàng Thị T1 phải trả cho Nguyễn Thị B số tiền 161.030.000đ. Kể tngày
01/4/2025 bị đơn phải chịu lãi xuất 1%/tiền nợ gốc/tháng cho đến khi thi hành
xong khoản nợ.
- Không chấp nhận đối với các yêu cầu về phương thức trả tiền của nguyên
đơn.
Về án p áp dụng Điều 147 BLTTDS; Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản và sử dụng án phí lệ phí, ông
Nông Văn T và bà Hoàng Thị T1 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được xem
xét, thẩm tra tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật thẩm quyền: Bà Nguyễn Thị B khởi kiện yêu
cầu vợ chồng ông Nông Văn T, Hoàng Thị T1 phải trả cho Nguyễn Thị B
số tiền 161.030.000 đồng theo các Giấy vay tiền và giấy xác nhận trả nợ nên Tòa
án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Bị
đơn ông Nông Văn T, Hoàng Thị T1 đều ttại thị trấn H, huyện H, tỉnh
Lạng Sơn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng,
tỉnh Lạng Sơn theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị B đã giao nộp cho Toà
án 03 giấy vay tiền và 01 giấy xác nhận trả nợ, cụ thể:
[3] Thứ nhất, đối với Giấy vay tiền ngày 06/5/2022, bị đơn Hoàng Thị
T1 vay số tiền 50.000.000 đồng của nguyên đơn, khi vay hai bên không thoả
6
thuận tính lãi của khoản vay này. Mặc phần trình bày của hai bên mâu thuẫn
về mục đích vay và bà Nguyễn Thị T2 cho rằng chữ ký trong giấy vay tiền ngày
06/5/2022 không phải chữ ký của bà nhưng không đề nghi giám định và bản thân
tự thừa nhận ngày 06/5/2022 được vay số tiền 50.000.000 đồng nhưng chỉ thoả
thuận bằng miệng. Ngoài ra, ông Nông Văn T cũng thừa nhận ngày hôm đó
Nguyễn Thị B mang số tiền 50.000.000 đồng xuống nhà gặp bà Hoàng Thị T1
để cho vợ chồng bị đơn vay để sửa sang lại quán bán hàng ăn; nên xác định việc
vay số tiền 50.000.000đ là có thật, tình tiết không phải chứng minh.
[4] Thứ hai, đối với Giấy vay tiền ngày 14/7/2022 dương lịch (ngày
16/6/2022 âm lịch), bị đơn bà Hoàng Thị T1 có vay số tiền 70.000.000 đồng của
nguyên đơn, khi vay hai bên được thoả thuận tính lãi 01%/tháng đối với số tiền
70.000.000 đồng là 700.000 đồng/tháng. Mặc dù phần trình bày của hai bên mâu
thuẫn về thời hạn trả nợ ông Nông Văn T trình bày không được chứng kiến,
tuy nhiên phía bị đơn xác định được vay số tiền 70.000.000 đồng được thoả
thuận tính lãi suất 700.000 đồng/tháng đối với khoản vay trên, nhưng sau đó bị
đơn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền lãi theo thoả thuận.
[5] Thứ ba, đối với Giấy xác nhận trả nợ ngày 23/7/2023, hai bên đã chốt
lại khoản vay hai lần trước đó vào các ngày 06/5/2022 và ngày 14/7/2022 dương
lịch 120.000.000 đồng cùng với 10.000.000 đồng tiền thuê nhà vợ chồng bị đơn
còn nợ, tổng 130.000.000 đồng. Ngoài ra, khi lập Giấy xác nhận trả nợ hai bên tự
nguyện thoả thuận tính lãi 1.200.000 đồng/tháng, thời hạn trả nợ đến ngày
23/12/2023. Nguyên đơn cho rằng bị đơn chỉ trả được tiền lãi 1.200.000 đồng một
lần, bị đơn cho rằng đã trả tiền lãi được 3-4 lần, tuy nhiên bị đơn không cung cấp
được tài liệu chứng cứ chứng minh cho phần trình bày của mình hai bên đương
sự cũng không tranh chấp về nội dung này.
[6] Thứ tư, đối với giấy vay tiền không ghi ngày tháng năm, tuy nhiên phần
nội dung thể hiện việc bị đơn vay tiền “ từ tháng 6/2022 đến nay là tháng 01 năm
2024” vẫn chưa trả tiền. Do vợ chồng bị đơn không thực hiện đúng nghĩa vụ trả
nợ theo Giấy xác nhận trả nợ lập ngày 23/7/2023 nên hai bên đã thoả thuận chốt
lại các khoản vay là 161.030.000 đồng, bao gồm: Các khoản vay và nợ trước đó
giữa nguyên đơn và bị đơn 130.000.000 đồng cùng tiền lãi 30.000.000 đồng (từ
06/5/2022 đến tháng 5/2024); 330.000 đồng tiền Nguyễn Thị Bình B1 giấy cho
các bị đơn; 700.000 đồng tiền Nguyễn Thị B phải đi cầm cố sổ tiết kiệm lấy
tiền cho ông Nông Văn T và bà Hoàng Thị T1 vay.
[7] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bị đơn ông Nông Văn
T Hoàng Thị T1 đều thừa nhận đã cùng nguyên đơn chốt nợ sau cùng vào
tháng 01/2024 thống nhất thoả thuận lập Giấy vay tiền. Hội đồng xét xử xét
thấy, các giấy vay tiền và cam kết trả nợ giữa bà Nguyễn Thị B ông Nông Văn
7
T, bà Hoàng Thị T1 được xác lập trên tinh thần tự nguyện, phù hợp với quy định
của pháp luật, do đó đã phát sinh quyền và nghĩa vụ của bên cho vay và bên vay.
[8] Tại các Giấy vay tiền ngày 06/5/2022, ngày 14/7/2022 dương lịch hai
bên không thoả thuận thời hạn trả nợ và phần trình bày về thời hạn trả nợ của các
bên là mâu thuẫn. Tuy nhiên ngày 23/7/2023, hai bên đã xác định thời hạn trả nợ
của khoản vay đến ngày 23/12/2023 thực tế đến thời hạn trả nợ bị đơn không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo cam kết; nên đến tháng 01/2024, hai bên đã
lập Giấy vay tiền (thay cho Hợp đồng vay tiền) để chốt lại khoản nợ. Như vậy, có
sở để xác định ông T và bà T1 đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo quy định
tại Điều 466 Bộ luật dân sự, do đó yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số
tiền nợ là có căn cứ và được chấp nhận.
[9] Về yêu cầu tính lãi: Các đương sự thừa nhận tại Giấy vay tiền ngày
14/7/2022 âm lịch hai bên thoả thuận tính lãi 700.000 đồng/tháng, nhưng bị đơn
chưa thực hiện nghĩa vụ trả lãi hàng tháng tại Giấy xác nhận trả nợ ngày
23/7/2023 hai bên thoả thuận tính lãi 1.200.000 đồng/tháng từ thời điểm vay lần
đầu đến thời hạn trả nợ là 23/12/2023. Xét thấy phần trình bày của các đương sự
mâu thuẫn về những lần trả tiền lãi, tuy nhiên tại phiên toà các đương sự không
đưa ra được các tài liệu, chứng cứ đchứng minh cho phần trình bày của mình.
Tại giấy chốt nợ cuối cùng lập vào tháng 01/2024, hai bên đã xác định lại số tiền
vay tổng là 161.030.000 đồng, không thoả thuận tính lãi, ngoài ra trong quá trình
giải quyết vụ án và tại phiên toà nguyên đơn tự nguyện không yêu cầu bị đơn
thanh toán tiền lãi từ khi chốt nợ tháng 01/2024 đến ngày xét xử 31/3/2025.
[10] Đối với yêu cầu tính lãi xuất 01%/tháng đối với số tiền còn nợ kể từ sau
ngày xét xử cho đến khi thi hành trả xong khoản nợ; yêu cầu mức lãi xuất tương
ứng 12%/năm là phù hợp quy định tại các Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự
khoản 2 Điều 2, khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày
11/01/2019 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm bởi theo thoả thuận vay được các bên thừa
nhận thì đây khoản vay lãi xuất hơn nữa tại phiên toà các bị đơn cũng nhất
trí về mức và thời điểm tính lãi xuất; do vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu tính lãi
xuất của nguyên đơn.
[11] Về nghĩa vụ trả nợ; bị đơn ông Nông Văn T trình bày những lần bà B
cho vợ chồng ông vay tiền, ông không được trực tiếp ký vào các giấy vay tiền đề
ngày 6/5/2022, ngày 14/7/2022 dương lịch giấy xác nhận trả nợ ngày 23/7/2023
ông đều đi làm, không có mặt ở nhà, tuy nhiên ông và bà T1 đã thống nhất trước
với nhau về việc vay tiền của B việc mục đích của việc vay tiền để mở
quán bán hàng ăn phục vụ cho việc phát triển kinh tế chung của gia đình do vậy
ông Nông Văn T có nghĩa vụ liên đới cùng Hoàng Thị T1 hoàn trả các khoản
vay cho bà Nguyễn Thị B.
8
[12] Về phương thức trả tiền: Bị đơn ông Nông Văn T và bà Hoàng Thị T1
nhất trí thực hiện nghĩa vụ trả tiền nợ 161.030.000 đồng nhưng do hoàn cảnh khó
khăn nên đề xuất phương án thoả thuận sẽ trả tiền nợ làm nhiều lần, trong khoảng
thời gian kéo dài “khi nào có tiền thì trả”; đề nghị này không có trong thoả thuận
hợp đồng và không phù hợp với những cam kết khi vay tiền nên không có căn cứ
chấp nhận ý kiến của các bị đơn.
[13] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ do đó
không phải chịu án phí và được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp; bị đơn
thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền nợ cho nguyên đơn nên phải chịu án phí dân
sự thẩm giá ngạch tương ng số tiền 161.030.000 đồng x 5% = 8.052.000
đồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự khoản 2 Điều 26 Ngh
quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội.
[14] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật
của những người tiến hành tố tụng tham gia tố tụng đúng thực tế, phù hợp
với tài liệu thu thập trong hồ diễn biến tranh tụng tại phiên tòa. Đối với quan
điểm về việc đề nghị giải quyết nội dung vụ án; đại diện Viện kiểm sát đã đưa ra
được các nhận định, đánh giá chứng cứ, căn cứ chứng minh phù hợp với đường
lối, định hướng giải quyết vụ án của Hội đồng xét xnêu trên nên được chấp
nhận.
[15] Các đương sự quyền kháng cáo phần bản án có liên quan theo quy
định pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng các Điều 117, 163, 164, 166, 275, 280, 401, 357, 463, 466 Điều
468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, các
Điều 144, 146, 147, các Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc bị đơn ông Nông Văn T và bà Hoàng Thị T1 thực hiện nghĩa vụ liên
đới thanh toán cho bà Nguyễn Thị B số tiền nợ 161.030.000 đồng (một trăm sáu
mươi mốt triệu, không trăm ba mươi nghìn đồng) theo c Giấy vay tiền ngày
06/5/2022, Giấy vay tiền ngày 14/7/2022 dương lịch tức ngày 16/6/2022 âm lịch,
Giấy xác nhận trả nợ ngày 23/7/2023 và Giấy vay tiền lập tháng 01/2024.
9
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (tức là ngày 01/4/2025) cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với
số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; lãi xuất phát sinh do chậm trả
tiền được các bên đương sự thống nhất, thỏa thuận là 01%/01 tháng/số tiền (một
phần trăm/một tháng).
2. Án phí:
- Ông Nông Văn T Hoàng Thị T1 phải thực hiện nghĩa vụ liên đới
chịu án pdân sự thẩm giá ngạch số tiền 8.052.000đ (tám triệu, không trăm,
năm mươi hai nghìn đồng - đã làm tròn) để nộp Ngân sách nhà nước.
- Nguyễn Thị B không phải chịu án phí dân sự thẩm được hoàn
trả lại số tiền 4.026.000đ (bốn triệu, không trăm, hai mươi sáu nghìn đồng) theo
Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004854 ngày 21/10/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn mặt tại phiên tòa quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Toà tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự người phải thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án quy định tại điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lạng Sơn; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND H. Hữu Lũng;
- Chi cục THADS H. Hữu Lũng;
- Các đương sự: ……………….;
- Lưu: Tòa, hồ sơ vụ án.
(Đã ký)
Nguyễn Mạnh Cường.
Tải về
Bản án số 03/2025/DS-ST Bản án số 03/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2025/DS-ST Bản án số 03/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất