Bản án số 02/2024/ ngày 29/02/2024 của TAND huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
  • Bản án số 02/2024/

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2024/

Tên Bản án: Bản án số 02/2024/ ngày 29/02/2024 của TAND huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Nghĩa Hành (TAND tỉnh Quảng Ngãi)
Số hiệu: 02/2024/
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/02/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông pp khởi kiện yêu cầu ông NC phải trả đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN NGHĨA HÀNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG NGÃI
Bản án số: 02/2024/ DS-ST
Ngày 29 - 02 - 2024
V/v Tranh chấp về
quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HÀNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Trần Thị Thanh Bình
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Từ Văn Khánh
2. Ông Ngô Văn Lâm
Thư ký phiên toà: Bà Phan Quỳnh Trang– Thư ký Toà án nhân dân huyện N,
tỉnh Quảng Ngãi.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi tham
gia phiên tòa: Bà Trương Thị Thy - Kiểm sát viên
Trong ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện
Nghĩa Hành, xét xử thẩm ng khai vụ án thụ số 01/2022/TLST-DS ngày 18
tháng 10 năm 2022 về việc Tranh chấp quyền sdụng đất, theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xsố 06/2023/QĐXXST - DS ngày 01/12/2023, Quyết định hoãn phiên
toà số 25/2023/ QĐST-DS ngày 21/12/2023, Quyết định hoãn phiên toà số 28/2024/
QĐST-DS ngày 09/01/2024, Thông báo chuyển ngày xét xử số 04/TB-TA ngày
05/02/2024 của Toà án nhân dân huyện Nghĩa Hành, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông PP, sinh năm 1956.
Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Bị đơn: Ông NC, sinh năm 1968
Địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà NTC, sinh năm 1962
- Bà NTD, sinh năm 1970,
Đều ở địa chỉ: Thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi.
- Uỷ ban nhân dân xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Ông TXD –Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã H,
huyện N, tỉnh Quảng Ngãi.
Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa.
Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu tại hồ tại phiên tòa, nguyên đơn
ông P trình bày:
Vào năm 1989 ông P vợ C khai hoang đất rừng tại khu vực Hố Quạ
thuộc thôn K, H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi để trồng mỳ. Đến năm 1995, tiếp tục
mở rộng khai hoang và chuyển sang trồng đào. Năm 2007 chuyển sang trồng cây
keo và đến năm 2012 ông P khai thác cây keo. Sau khi ông P và bà C khai thác cây
keo xong thì ông NC đến lấn chiếm và trồng 400 cây keo lai trên phần diện tích đất
của ông P và bà C. Ông P và bà C đã nhiều lần có Đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân xã
H giải quyết nhưng hoà giải không thành nên ông P đã khởi kiện.
Diện tích đất mà ông P C khai hoang và bị ông , bàD lấn chiếm đã được
Uỷ ban nhân dân xã H tạm gọi theo thực địa là thửa đất 92, tờ bản đồ số 2 xã H, diện
tích là 1.495m
2
(tạm đo đạc vào năm 2014), diện tích đo đạc thực tế theo bản vẽ tại
buổi xem xét, thẩm định tại chỗ của Toà án nhân dân huyện N vào tháng 6/2016
1.315,9m
2
.
Tại Bản án dân sự thẩm s06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017, Toà án nhân
dân huyện N đã tuyên buộc ôngC và bàD trlại 1.315,9m
2
đất nêu trên
cho ông P
C; Ông P C được sở hữu 400 cây keo lai mà ôngC, đã trồng trên phần
diện tích 1.315,9m
2
đất này ông P, bà C phải hoàn trả giá trtài sản cho ôngC,
bàD là 8.000.000đồng. Nhưng vì bản vẽ kèm theo bản án nêu trên không có toạ độ
nên thực hiện thi hành án không được, ông P C chưa nhận được đất, tháng
5/2022 ôngC, bàD đã khai thác 400 cây keo này, vậy ông và bà C cũng chưa thi
hành án hoàn trả số tiền 8.000.000đồng giá trị tài sản nêu trên cho ông P, bàD theo
Bản án dân sự thẩm số 06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân huyện
N.
Sau khi ôngC bàD khai thác keo thì từ tháng 7 năm 2022 đến nay ông P
C đã trồng cây keo trên diện tích đất tranh chấp, ôngC bàD đến phát dọn
trên phần đất tranh chấp, khi hàng xóm nói thì ôngC bàD nói lại đất của ông
ấy, ai trồng keo thì ông bà ấy ăn thôi.
Phần diện tích đất ông P và C đang tranh chấp với ông NC, NTD
theo số liệu đo đạc tại buổi xem xét, thẩm định tại chỗ của Toà án nhân dân huyện
N vào ngày 03/3/2023 là 1.599,8m
2
, có giới cận:
-Phía Đông giáp thửa đất của VTT và thửa đất của L (đều Thôn K, xã
H) ranh giới được xác định là bờ đá được chất cao khoảng 40cm. Bờ đá này do ông
P, bà C và phía bà VTT, bà L tự giác phần ai nấy bỏ đá chất thành bờ ranh.
-Phía Nam giáp thửa đất của VTT (ở Thôn K, H) ranh giới được xác
định là bờ đá được chất cao khoảng 40cm.
-Phía Bắc và phía Tây giáp đất của ông P và bà C nên không bờ đá xác
định ranh giới.
Nay ông P yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông NC bà NTD phải trả lại cho
ông P C diện tích đất 1.599,8m
2
Khu vực Hố Quạ, thôn K, H, trước kia
tạm gọi theo thực địa thửa số 92, tờ bản đồ số 02 H. Trên phần diện tích đất
tranh chấp hiện 1.500 cây keo của ông P C trồng, không cây keo của
ôngC, bàD và không có tài sản gì khác của ai, vì vậy số cây keo này ông P và bà C
hưởng.
Ông P yêu cầu ôngC và bàD phải hoàn trả cho ông các khoản tiền ông đã nộp
tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản từ khi Tòa án
thụ lý vụ án vào năm 2016 cho đến nay là 15.500.000đồng; Ông đã nhận lại số tiền
125.000đồng tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp do Chi cục thi hành án dân s
huyện N hoàn trả theo quyết định tại Bản án dân sự thẩm số 06/2017/DS-ST ngày
27/4/2017, Toà án nhân dân huyện N.
Tại các tài liệu có tại hồ sơ vụ án trong giai đoạn tố tụng từ khi thụ lý vụ án
cho đến khi Quyết định tái thẩm của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng số
55/2022/TT-DS ngày 25/9/2022 bị đơn ông NC người đại diện theo uỷ quyền
của bị đơn bà NTDtrình bày:
Khoảng năm 1988- 1989, ba anh em ruột ông NC NQ, NL, NC khai
hoang đất tại khu vực Hố Quạ thuộc thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi để sản
xuất. Năm 1990 ôngC bàD kết hôn nên 3 anh em thống nhất chia diện tích đất
khai hoang thành 3 phần. Phần đất vợ chồng ôngC nhận tạm gọi theo thực địa thửa
số 92, tbản đồ số 02 xã H, diện tích đo đạc theo thực tế 1.315,9m
2
. Sau khi được
phân chia đất thì vợ chồng ôngC trồng cây mì, cây chuối, cây mít. Năm 1995, vợ
chồng ôngC khai thác mì nên trên đất chỉ còn cây chuối và cây mít. Sau đó ôngC đi
làm ăn xa, bàD nhà không canh tác. Không năm nào, ông P đến chặt phá toàn
bộ cây chuối, cây mít, chiếm đất của ôngC, bàD để sử dụng. Khi biết sự việc, bàD
có đến gặp nói với bà C vợ chồng bàD đồng ý cho vợ chồng ông P một vkeo,
khi ông P thu hoạch keo xong thì bà sẽ lấy lại đất. Năm 2012, ông P thu hoạch keo
xong, ôngC, bàD lấy lại đất và trồng keo trên diện tích đất 1.315,9m
2
. Vì vậy, ôngC
không đồng ý trả lại đất theo yêu cầu khởi kiện của ông P, vì đây là đất do ông khai
hoang vào năm 2018, trường hợp nếu nhà nước thu hồi thì vợ chồng ôngC đồng ý
giao trả cho Nhà nước.
Tại giai đoạn tố tụng kể từ ngày 18/10/2022 đến nay: Bị đơn ông NC không
có ý kiến trình bày.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Nguyễn Thị C: thống nhất với ý kiến trình bày của chồng ông
P, bà không đồng ý với ý kiến của bị đơn. Nay bà C yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
ông NC NTDphải trả lại cho ông P Nguyễn Thị C diện tích đất 1.599,8m
2
Khu vực Hố Quạ, thôn K, H, trước kia tạm gọi theo thực địa thửa số 92, tờ
bản đồ số 02 xã H. Trên phần diện tích đất tranh chấp chỉ có 1.500 cây keo của ông
P bà C trồng, không y keo của ôngC, bàD không tài sản khác của
ai, vậy số cây keo này ông P C hưởng. C ông P không thi hành án
hoàn trả số tiền 8.000.000đồng cho ôngC, bàD như bản án sơ thẩm số 06/2017/DS-
ST ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân huyện N đã tuyên, vì ôngC, bàD đã thu hoạch
400 cây keo rồi.
+ NTD trình bày: Bà thống nhất với ý kiến trình bày của chồng bà ông
NC, không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Trong giai đoạn tố tụng kể từ ngày
18/10/2022 đến nay: BàD không có ý kiến trình bày.
Đại diện theo pháp luật của Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Uỷ ban
nhân dân xã H, trình bày:
Đất tại khu vực Hố Quạ, thôn K, xã H trước đây một số hộ dân tự ý đến
khai phá, canh tác sản xuất, trong đó ông PP, NTC sử dụng ổn định, liên tục
từ năm 1995 đến năm 2012, sau đó ông NC NTD đến chiếm canh tác. Từ
lúc khai phá đến nay người dân chỉ canh tác chứ không đăng ký, kê khai với quan
nhà nước. Năm 2014, Uỷ ban nhân dân(sau đây viết tắt là UBND) xã H thuê Trung
tâm tư vấn nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi đo đạc, lập bản đồ
địa chính, theo bản đồ này thì phần đất ông P, bà Nguyễn Thị C canh tác là thửa đất
số 92, tờ bản đồ số 02, diện tích 1.495m
2
, kết quả đo đạc bản đồ nêu trên được UBND
xã H niêm yết công khai, nhưng người dân xé bỏ nên bản đồ chưa được nghiệm thu,
vậy thửa đất số 92, tờ bản đồ số 02 H nêu trên chỉ là tạm gọi theo thực địa,
chưa có giá trị pháp lý. Diện tích đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền s
dụng cho ai, thuộc quyền quản lý của UBND xã H.
Năm 2019, thực hiện chủ trương của UBND huyện N về việc đo đạc cấp giấy
chứng nhận quyền sdụng đất rừng sản xuất cho nhân dân trên toàn huyện, trong
đó có xã H. Khi đo đạc tại khu vực Hố Quạ, thôn K, xã H thì ông NC là người dẫn
đạc đối với thửa đất số tạm gọi theo thực địa là 92 nêu trên (thời điểm này trên đất
có cây keo của ông NC), số liệu đo đạc năm 2019 thì phần đất này được xác định là
thửa đất số 78, tờ bản đồ số 30, xã H, diện tích 717m
2
.
Tháng 5/2022 ôngC và bàD khai thác keo trồng trên diện tích đất tranh chấp,
từ tháng 7 năm 2022 đến nay ông P và bà C đã trồng cây keo trên diện tích đất này.
UBND xã H xác định, phần đất trước kia tạm gọi theo thực địa là thửa số 92,
tờ bản đồ số 02 xã H, nay là thửa đất số 78, tờ bản đồ số 30, Bản đồ lâm nghiệp
H được đo vẽ năm 2019, không nằm trong diện quy hoạch, đủ điều kiện để được cấp
quyền sử dụng cho ông P.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Quảng Ngãi phát
biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và T
phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã
chấp hành đúng đầy đủ, bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp
hành chưa đúng đầy đủ các quy định tại các Điều 71,72,73 của Bộ luật tố tụng
dân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 9 Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 68,
Điều 203, khoản 4 Điều 147, Điều 157, Điều 288 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 164,
Điều 166, Điều 179, Điều 182, Điều 185 của Bluật dân sự năm 2015, Điều 4, điểm
c khoản 1 Điều 10, Điều 202, Điều 203 Luật đất đai 2013; Điều 4, Điều 21 Nghị
định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Buộc vợ chồng ông
NC ND phải trả cho vợ chồng ông PP bà NTC din tích 1.599,8m
2
đất rừng
sản xuất ở Khu vực Hố Quạ, thôn K, xã H.
Ông NCNTD có nghĩa vụ chịu toàn bộ chi phí tố tụng, vì ông P đã nộp
tạm ứng và chi phí xong nên ông NCNTD nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông P.
Về án phí dân sự thẩm: Ông NC NTD phải chịu theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về quyền sử dụng đất, nên thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N theo quy định tại khoản 3 Điều
26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[2.1] Vào năm 2016, ông P khởi kiện tranh chấp quyền sdụng đất với ông
NC. Bản án dân sự thẩm s06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân
huyện N đã quyết định: Áp dụng khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản
1 Điều 147; khoản 1 Điều 57, khoản 1 Điều 1158; khoản 1 Điều 165, khoản 1 Điều
166; Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Điều 31, Điều 84 Luật
Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, khoản 1 Điều 166, khoản 1 Điều 179, khoản 1
Điều 182, Điều 185 Bluật dân sự năm 2015, Điều 4, Điểm c khoản 1 Điều 10, Điều
202, điểm ba khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013, khoản 1 và khoản 1 Điều 21
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật đất đai năm 2013, tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông P. Buộc vợ chồng ông NC,
NTD trả lại 1.315,9m
2
đất tại thửa số 92 tbản đồ số 2 H, huyện N, tỉnh
Quảng Ngãi cho vợ chông ông PP, bà NTC. Phần đất trả lại có giới cận: phía Bắc
nối các điểm 1,2,3 cạnh dài 37,47m giấp thửa 91; phía Nam tính từ điểm 4 đến điểm
5 cạnh dài 48,34m giáp thửa 105; phía Tây nối các điểm 1,6,5 cạnh dài 42,15m giáp
đất rừng chưa đo đạc; phía Đông tính từ điểm 3 đến điểm 4 cạnh dài 23,56m giáp
thửa đất số 93 (có bản vẽ kèm theo). Ông PP, bà NTC được quyền đăng ký kê khai
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Giao vợ chồng ông PP, bà NTC được quyền sở hữu toàn bộ 400 cây keo lai
do ông NC, NTD trồng trên đất tranh chấp, nhưng phải hoàn trả giá trị tài sản
cây keo cho vợ chông ông NC, NTD với stiền 8.000.000đồng (Tám triệu
đồng).”
Quá trình thi hành án, vì bản vẽ kèm theo bản án sơ thẩm và Trích đo bản đồ
địa chính của thửa đất chỉ thể hiện mốc giới, độ dài các cạnh đất tranh chấp không
vị trí toạ độ của các điểm mốc, nên không thực hiện thi hành án được. Chi cục thi
hành án dân sự huyện N đã kiến khị số 287/CC.THADS đề nghị Chánh án Toà
án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án
dân sự nêu trên do không thể thi hành án được.
Quyết định tái thẩm số 22/2022/TT-DS ngày 25/9/2022 của Toà án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng đã huỷ toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2017/DS-ST ngày
27/4/2017 của Toà án nhân dân huyện N.
[2.2] Theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, thể hiện: Phần đất tạm gọi theo
thực địa đo đạc của H năm 2014 là thửa số 92, tờ bản đồ số 02 H, UBND xã
H xác định ông P C sử dụng ổn định từ năm 1995 đến năm 2012 (17 năm) xảy
ra tranh chấp với ôngC, bàD. Theo số đo thực tế của Toà án nhân dân huyện N tại
buổi xem xét thẩm định tại chỗ ngày 10 tháng 6 năm 2016 thì diện tích đất tranh
chấp giữa ông PP, bà NTC và ôngC, bàD là 1.315,9m
2
.
Theo kết quả đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ vào ngày 03/3/2023 của Tòa
án nhân dân huyện N thì diện tích đất rừng sản xuất tại khu vực Hố Quạ thôn K, xã
H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi, có tranh chấp giữa nguyên đơn ông P với bị đơn ông
NC và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tạm gọithửa đất số 92)
diện tích là 1.599,8m
2
.
[2.3] Tại Biên bản làm việc ngày 27/10/2023 Biên bản làm việc ngày
07/11/2023, Uỷ ban nhân dân huyện N và Uỷ ban nhân dân xã H đã xác định:
Theo bản đồ địa chính do UBND H thuê Trung tâmvấn nông nghiệp
phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi đo đạc vào năm 2014 thì phần đất tranh chấp
giữa ông P, bà C và ôngC, bàD tạm gọi theo thực địa là thửa số 92, tbản đồ số 02
H, diện tích 1.495m
2
(ông P người dẫn đạc), nhưng bản đồ này chưa được
quan chức năng thẩm định, phê duyệt nên không giá trị pháp lý, vậy số thửa,
tờ bản đồ diện tích của phần đất tranh chấp nêu trên chưa được xác định chính
xác.
Theo Bản đồ lâm nghiệp của H đo vẽ năm 2019 tthửa đất tạm gọi thửa
số 92 nêu trên được xác định là thửa đất số 78, tờ bản đồ số 30, diện tích 717m
2
( ông
NC người dẫn đạc), tuy nhiên Bản đồ lâm nghiệp của xã H đo vẽ năm 2019 đến
thời điểm hiện nay vẫn chưa được quan chức năng thẩm định, phê duyệt nên chưa
có giá trị pháp lý.
Phần đất hiện tranh chấp giữa ông P, C và ôngC, bàD tại Hố Quạ thôn
K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi nằm trong khu vực đất rừng sản xuất của địa
phương H, không nằm trong quy hoạch khác của địa phương, không tranh chấp
về giới cận với các hộ sản xuất lân cận, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng cho ai.
Việc chênh lệch số đo diện tích đất tranh chấp giữa các lần đo là do vào thời
điểm đo đạc các đương sự tự dẫn đạc nên có sai số, Bản đồ lâm nghiệp của xã H đo
vẽ năm 2019 chưa được cơ quan chức năng thẩm định, phê duyệt nên tính đến thời
điểm hiện tại chưa số đo nào được xác định chính thức, vậy, khi Toà án giải
quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông P, bà C ôngC, bàD tại khu
vực Hố Quạ thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi sử dụng số đo từ kết quả xem
xét, thẩm định tại chỗ của Toà án thì UBND huyện N và UBND xã H sẽ chấp nhận
xác lập theo số đo của bản án đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
người được bản án của Toà án công nhận.
Căn cứ quá trình sử dụng đất của ông P NTC, đủ điều kiện để đề nghị
cấp quyền sử dụng đất cho ông P Nguyễn Thị C đối với diện tích đất tại Hố
Quạ thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi nêu trên.
[2.4] Theo các tài liệu, chứng cứ tại hồ sơ, nhận thấy ông P và bà C sử dụng
diện tích đất hiện tranh chấp tại khu vực Hố Quạ thôn K, H, huyện N, tỉnh
Quảng Ngãi ổn định 17 năm, từ năm 1995 đến năm 2012 xảy ra tranh chấp với ôngC,
bàD. Ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân huyện N đã xét xử thẩm buộc ôngC, bàD
phải trả đất cho ông P C; ngày 19/8/2019 ôngC, bàD thi hành án khoản tiền án
phí dân sự sơ thẩm, nhưng cũng trong năm 2019 khi UBND H tiến hành đo đạc
để lập Bản đồ lâm nghiệp của H thì ôngC người dẫn đạc đối với phần đất tại
rừng sản xuất tại khu vực Hố Quạ thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi có tranh
chấp với ông P, NTC đã được giải quyết bằng Bản án dân sự thẩm số
06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân huyện N. Đến tháng 5/2022 ôngC
bàD khai thác số cây keo trồng trên diện tích đất tranh chấp, sau khi ôngC, bàD
khai thác cây keo thì từ tháng 7 năm 2022 đến nay ông P C đã trồng cây keo
trên diện tích đất tranh chấp nêu trên cho đến nay. Theo ông P và bà C trình bày thì
trong thời gian vừa qua, ôngC bàD đến phát dọn tại khu vực ông, đã
trồng cây keo, nêu trên như vậy tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn
bị đơn vẫn còn.
[2.5] Từ những phân tích trên, c định diện tích 1.599,8m
2
đất rừng sản xuất
tại khu vực Hố Quạ thôn K, H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi hiện tranh chấp giữa
ông P, bà C với ôngC, bàD có nguồn gốc là do ông P, bà C khai hoang và canh tác,
ôngC và bàD lấn chiếm, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P về việc
buộc ôngC và bàD trả lại diện tích 1.599,8m
2
đất rừng sản xuất tại khu vực Hố Quạ
thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi cho ông P và bà C.
[3] Đối với tài sản trên diện tích đất tranh chấp, ông P bà C trình bày là
hiện 1.500 cây keo do ông, trồng từ tháng 7/2022, ngoài ra không tài sản
của ai, ôngC bàD không lời trình bày, UBND H cũng xác định tháng 5/2022
ôngC và bàD đã khai thác số cây keo ôngC, bàD trồng trên diện tích đất tranh
chấp, đến tháng 7/2022 ông P C trồng cây keo trên diện tích đất tranh chấp
nêu trên, vì vậy số cây keo ông P C hiện trồng trên diện tích đất tranh chấp thì
ông P và bà C được sở hữu.
Bản án dân sự sơ thẩm s06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân
huyện N đã quyết định: Giao vợ chồng ông P, C được quyền sở hữu toàn bộ 400
cây keo lai do ông NC, bà NTD trồng trên đất tranh chấp, nhưng phải hoàn trả giá
trị tài sản cây keo cho vợ chồng ông NC, NTD với số tiền 8.000.000đồng (Tám
triệu đồng) nhưng vào tháng 5/2022 ôngC bàD đã thu hoạch số cây keo này,
vậy ông P C không phải hoàn trả số tiền giá trị số cây keo mà ôngC, bàD đã
trồng trên diện tích đất tranh chấp.
[5] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N về việc giải quyết vụ
án là đúng quy định của pháp luật.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác:
- Nguyên đơn không phải chịu án pdân sự thẩm, tại Bản án dân sự
thẩm s06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017 của Toà án nhân dân huyện N đã tuyên
hoàn trả lại cho ông P số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 125.000đồng (Một trăm hai
mươi lăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 09193 ngày 14/02/2016 tại Chi cục
thi hành án dân sự huyện N, ông P đã nhận lại số tiền tạm ứng án pnày theo Phiếu
chi số PC 400 ngày 18 tháng 9 năm 2017, vậy Hội đồng xét xkhông xem xét
nữa.
- Ông NC NTD phải chịu án phí dân ssơ thẩm đối với phần yêu cầu
của nguyên đơn được chấp nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2
Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội là: 300.000đồng; Bản án dân sự thẩm số 06/2017/DS-ST
ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân huyện N đã tuyên: “Vợ chồng ông NC, NTD
phải chịu 328.975đồng án phí dân sự về tranh chấp đất và 200.000đồng án phí về i
sản trên đất, tổng cộng tiền án phí vợ chồng ông NC, NTDphải nộp
528.975đồng (Năm trăm hai ơi tám ngàn chín trăm bảy mươi lăm đồng)”, theo
xác nhận của Chi cục thi hành án dân sự huyện N thì ông NC, NTD đã thi hành
án stiền án phí 528.975 đồng theo Biên lai thu tiền phí, lệ phí số 0005980 ngày
19/8/2019 của Chi cục thi hành án dân shuyện N, do đó ông NC NTDđược khấu
trừ vào số tiền đã nộp nêu trên, hoàn trả lại cho ông NC NTDsố tiền chênh
lệch là 228.975đồng.
- Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017, Toà án nhân dân
huyện N đã tuyên “Vợ chồng ông NC, bà NTDphải chịu 5.500.000đồng (năm triệu
năm trăm ngàn đồng) tiền chi phí đo đạc 1.500.000đồng (một triệu năm trăm ngàn
đồng) tiền chi phí định giá tài sản tranh chấp. Số tiền 5.500.000đồng ông P đã thanh
toán cho bên đo đạc 1.500.000đồng nộp tạm ứng chi phí định giá cho Toà nhận
chi phí xong, nên vợ chồng ông NC, NTDphải hoàn trả cho ông P
7.000.000đồng”, theo xác nhận của Chi cục thi hành án dân sự huyện N thì sau khi
Quyết định tái thẩm của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, vào ngày
11/10/2022 Chi cục thi hành án dân sự huyện N đã ban hành Quyết định về việc đình
chỉ thi hành án số 06/-CCTHADS đối khoản thi hành án buộc vợ chồng ông NC,
NTDphải hoàn trả cho ông P 7.000.000đồng theo Bản án dân sự thẩm số
06/2017/DS-ST ngày 27/4/2017 của Toà án nhân dân huyện N, do đó nay ông NC,
NTDphải chịu số tiền chi phí tố tụng khác theo quy định tại khoản 1 điều 157,
khoản 1 điều 158, khoản 1 điều 165, khoản 1 điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự (chi
phí xem xét thẩm định, đo đạc, định giá tài sản) trong thời gian từ ngày thụ lý vụ án
18/02/2016 cho đến nay, tổng cộng 15.500.000đồng, nguyên đơn đã nộp tạm ứng số
tiền chi phí tố tụng này, vì vậy ông NC và bà NTDphải hoàn trả cho nguyên đơn số
tiền 15.500.000đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều
39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 điều 157, khoản 1 điều 158, khoản 1 điều 165, khoản
1 điều 166, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015; Điều 31, điều 84 Luật Bảo vệ phát triển rừng năm 2004; Điều 115,
Điều 158, Điều 164, Điều 166, Điều 179, Điều 182, Điều 185 của Bộ luật dân s
năm 2015; Điều 166, Điều 170, Điểm b khoản 2 Điều 203 của Luật Đất Đai năm
2013; khoản 1 khoản 4 Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đất đai năm 2013, khoản 2 Điều
26 điểm a khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông P, buộc ông NC
NTDphải trả cho ông PP NTC diện tích 1.599,8m
2
đất rừng sản xuất tại khu
vực Hố Quạ thôn K, H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi, kích thước, giới cận, vtrí diện
tích 1.599,8m
2
đất rừng sản xuất tại khu vực Hố Quạ thôn K, H, huyện N, tỉnh
Quảng Ngãi u trên được thể hiện tại Bản trích đo hiện trạng thửa đất kèm theo bản
án này và là một bộ phận không thể tách rời của bản án.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông P và bà Nguyễn Thị C có nghĩa vụ
liên hệ với quan thẩm quyền để làm thủ tục đăng ký, khai quyền sử dụng
1.599,8m
2
đất rừng sản xuất nêu trên theo quy định của pháp luật.
2. Ông P và bà NTC được sở hữu số cây keo mà ông, bà trồng trên diện tích
1.599,8m
2
đất rừng sản xuất tại khu vực Hố Quạ thôn K, xã H, huyện N, tỉnh Quảng
Ngãi.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác:
- Ông NC bà NTDphải chịu án phí dân sự thẩm 300.000đồng (Ba
trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền 528.975đồng đã nộp tại Biên lai
thu tiền phí, lệ phí số 0005980 ngày 19/8/2019 của Chi cục thi hành án dân shuyện
N, hoàn trả lại cho ông NC và bà NTDsố tiền chênh lệch là 228.975đồng (Hai trăm
hai mươi tám ngàn chín trăm bảy mươi lăm đồng).
- Ông NC NTDphải hoàn trả cho ông P số tiền 15.500.000đồng (Mười
lăm triệu năm trăm ngàn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên
phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì
người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thoả thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự,
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi nh án dân
sự.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
TM . HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Nơi nhận: THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND tỉnh Quảng Ngãi; ( Đã ký)
- VKSND huyện N;
- Chi cục THADS huyện N;
- Các đương sự;
- Lưu HS.
Trần Thị Thanh Bình
Tải về
Bản án số 02/2024/ Bản án số 02/2024/

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất