Bản án số 02/2023/HS-ST ngày 01-03-2023 của TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Kiên Giang)về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án 02/2023/HS-ST Kiên Giang
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án 02/2023/HS-ST Kiên Giang
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 02/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2023/HS-ST ngày 01-03-2023 của TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Kiên Giang)về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Châu Thành (TAND tỉnh Kiên Giang) |
Số hiệu: | 02/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/03/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Lâm Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
|
|
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 01/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 03 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 84/2022/HS-ST ngày 13 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2023/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Lâm Văn L (tên gọi khác: My), sinh ngày 06/10/1996 tại Kiên Giang; nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Thành H, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1963 (đã chết); tiền sự: Không.
- Tiền án: Có 01 tiền án, ngày 20/01/2022 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đến nay vẫn chưa chấp hành án.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/9/2022 (bị cáo có mặt tại phiên tòa)
- Người làm chứng:
1/ Ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1970 (Vắng mặt). Địa chỉ: ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang.
2/ Ông Võ Văn T, sinh năm 1976 (Vắng mặt).
Địa chỉ: ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lâm Văn L, sinh 1996, nơi cư trú: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang, là đối tượng nghiện ma túy. Vào tối ngày 19/9/2022, Lâm Văn L gặp đối tượng tên H.A (không rõ họ tên và địa chỉ) tại Cảng cá T thuộc xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang, H.A hỏi L còn sử dụng ma túy không, nếu còn sử dụng thì H.A sẽ liên hệ mua ma túy cho L. L nói vẫn còn sử dụng ma túy và đưa cho H.A 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để mua ma túy cho L. Đến khoảng 18 giờ 00 phút ngày 20/9/2022, H.A đến phòng trọ số 7, nhà trọ của ông Võ Văn T, thuộc ấp ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang, nơi L đang thuê để ở đưa cho L 01 (một) bịch ma túy và 01 (một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy. Sau đó H.A bỏ đi đâu không rõ.
Sau khi mua được ma túy, L lấy một phần cho vào nỏ thủy tinh sử dụng, tuy nhiên do thấy bịch ma túy có khối lượng nhiều nên L đã chia nhỏ ra thành nhiều bịch nylon để cất giữ và sử dụng dần. Đến khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày, khi Lâm Văn L đang sử dụng ma túy tại phòng trọ thì bị lực lượng Công an tiến hành kiểm tra, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tạm giữ toàn bộ tang vật có liên quan và được niêm phong. Tang vật được thu giữ trong phòng trọ của Lâm Văn L, gồm: 01 (một) bịch nylon màu trắng, được hàn kín, kích thước 2,5cm x 3,8cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, không đồng nhất nghi là chất ma túy; 01 (một) bịch nylon màu trắng được hàn kín, kích thước 2,8cm x 2,4cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, không đồng nhất nghi là chất ma túy; 01 (một) bịch nylon màu trắng, có rãnh gài, viền đỏ, kích thước 4,5cm x 03cm, bên trong có chứa 07 (bảy) bịch nylon màu trắng, được hàn kín, kích thước mỗi bịch 01cm x 2,5cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, không đồng nhất nghi là chất ma túy; 01 (một) nỏ thủy tinh, cao 13cm, phần đầu ống nỏ có chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, không đồng nhất nghi là chất ma túy; 01 (một) mảnh giấy bạc, kích thước 7,5cm x 2,9cm; 01 (một) bình thủy tinh, gắn nắp nhựa màu đỏ, có gắn ống hút nhựa màu trắng dài 22cm; 01 (một) hộp quẹt gas màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 (một) tim hộp quẹt dài 10cm đã qua sử dụng và 01 (một) bóp da màu đen, kiểu nữ, dây đeo bằng kim loại hình mắt xích, đã qua sử dụng. Tất cả tang vật đã được niêm phong theo quy định. Sau khi bắt quả tang L về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, lực lượng chức năng đã đưa L về Công an xã Bình An để lấy lời khai. Tại đây, L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận giám định số 913/KL-KTHS ngày 26/9/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận:
- Các hạt tinh thể trong suốt, dạng rắn không đồng nhất chứa trong 09 (chín) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 1,4452 gam.
- Các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, không đồng nhất chứa trong 01 (một) nỏ thủy tinh, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,0684 gam.
Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 247, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.
- Đồ vật, tài liệu thu giữ, tạm giữ gồm:
Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã thu giữ và trả lại cho bị cáo vật chứng không liên quan đến vụ án, gồm: 01 (một) bóp da màu đen, kiểu nữ, dây đeo bằng kim loại hình mắt xích, đã qua sử dụng.
Đối với các vật chứng, gồm:
+ Các hạt tinh thể trong suốt còn lại sau giám định có khối lượng là 1,3157 gam, đựng trong 03 (ba) bịch nylon; 01 (một) cái nỏ thủy tinh được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng, có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật vụ số: 913/2022, ngày 28/9/2022, chữ ký của người chứng kiến niêm phong Đoàn Văn H, giám định viên Thái Thị Thanh Th, đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang;
+ 01 (một) mảnh giấy bạc hút thuốc 7,5cm x 2,9cm; 01 (một) bình thủy tinh, gắn nắp nhựa màu đỏ, có gắn ống hút nhựa màu trắng dài 22cm; 01 (một) hộp quẹt gas màu đỏ, đã qua sử dụng và 01 (một) tim hộp quẹt, dài 10cm đã qua sử dụng. Tất cả được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng có chữ Công an tỉnh Kiên Giang Công an huyện Châu Thành, có chữ “Vụ tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 20/9/2022 tại ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang”, có chữ ký của Trần Minh H, Võ Văn T, Nguyễn Văn V, có đóng dấu niêm phong của Công an xã Bình An, huyện Châu Thành.
Đối với đối tượng tên H.A, là người bán ma túy cho L, ngoài lời khai của bị can L, không có chứng cứ khác chứng minh và chưa xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, Kiên Giang không thể mời đối tượng làm việc để xác minh vấn đề trên. Khi nào làm việc được với đối tượng này sẽ tiến hành xử lý theo quy định.
Đối với hành vi tàng trữ công cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy của Lâm Văn L, do chưa đủ 06 đơn vị nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 254 Bộ luật hình sự.
Tại bản cáo trạng số: 01/CT- VKS- CT ngày 12/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Lâm Văn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành vẫn giữ nguyên quan điểm và quyết định truy tố đối với bị cáo Lâm Văn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự;
xử phạt bị cáo Lâm Văn L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Áp dụng Điều 56 BLHS, tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 06 tháng tù của bản án số 18/2022/HS-ST ngày 20/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của hai bản án.
Về biện pháp tư pháp đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; xử tịch thu tiêu hủy: Các hạt tinh thể trong suốt còn lại sau giám định có khối lượng là 1,3157 gam, đựng trong 03 (ba) bịch nylon; 01 (một) cái nỏ thủy tinh được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng, có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật vụ số: 913/2022, ngày 28/9/2022, chữ ký của người chứng kiến niêm phong Đoàn Văn H, giám định viên Thái Thị Thanh Th, đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 01 (một) mảnh giấy bạc hút thuốc 7,5cm x 2,9cm; 01 (một) bình thủy tinh, gắn nắp nhựa màu đỏ, có gắn ống hút nhựa màu trắng dài 22cm; 01 (một) hộp quẹt gas màu đỏ, đã qua sử dụng và 01 (một) tim hộp quẹt, dài 10cm đã qua sử dụng. Tất cả được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng có chữ Công an tỉnh Kiên Giang Công an huyện Châu Thành, có chữ “Vụ tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 20/9/2022 tại ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang”, có chữ ký của Trần Minh H, Võ Văn T, Nguyễn Văn V, có đóng dấu niêm phong của Công an xã Bình An, huyện Châu Thành.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành.
Bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, thể hiện: Để có ma túy sử dụng, vào tối ngày 19/9/2022, Lâm Văn L đi gặp đối tượng tên H.A để nhờ mua ma túy cho L với số tiền 1.000.000 đồng. Sau khi được H.A đưa ma túy, đến khoảng 18 giờ 40 phút ngày 20/9/2022, khi L đang sử dụng ma túy tại phòng trọ số 7, thuộc ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang thì bị lực lượng Công an tiến hành kiểm tra, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu giám định là 1.5136 gam.
Đối chiếu với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:….; c) Methamphetamin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; …”.
Như vậy, hành vi của bị cáo cất giấu 1.5136 gam ma túy loại Methamphetamin để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như đã viện dẫn nêu trên. Do đó, có cơ sở kết luận cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành truy tố bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi của bị cáo gây ra: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với ma túy và các chất gây nghiện khác. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã trưởng thành, có đủ năng lực nhận thức rõ hậu quả của việc sử dụng ma túy không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như kinh tế của chính bản thân bị cáo mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên pháp luật nghiêm cấm. Mặc dù nhận thức rõ được tác hại của ma túy, nhưng với lối sống buông thả, không có trách nhiệm với bản thân bị cáo vẫn cố tìm mua ma túy để tàng trữ sử dụng thì bị phát hiện và bắt quả tang. Bản thân của bị cáo vào năm 2022 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đáng lẽ ra bị cáo phải biết ăn năn hối cải, tìm việc làm, khắc phục sai lầm của bản thân để làm lại cuộc đời nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội để chịu sự nghiêm trị của pháp luật.
Trong tình hình tội phạm về ma túy đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế, xã hội và an ninh trật tự như hiện nay thì hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm, để răn đe giáo dục nhằm ngăn chặn và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo có tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức án vừa của khung hình phạt cũng là phù hợp.
[6] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, khung hình phạt cũng như việc áp dụng các điều luật để xử lý vụ án là có căn cứ pháp luật nên HĐXX ghi nhận để xem xét.
[7] Về biện pháp tư pháp:
7.1. Đối với các hạt tinh thể trong suốt còn lại sau giám định có khối lượng là 1,3157 gam, đựng trong 03 (ba) bịch nylon; 01 (một) cái nỏ thủy tinh được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng, có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật vụ số: 913/2022, ngày 28/9/2022, chữ ký của người chứng kiến niêm phong Đoàn Văn H, giám định viên Thái Thị Thanh Th, đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 01 (một) mảnh giấy bạc hút thuốc 7,5cm x 2,9cm; 01 (một) bình thủy tinh, gắn nắp nhựa màu đỏ, có gắn ống hút nhựa màu trắng dài 22cm; 01 (một) hộp quẹt gas màu đỏ, đã qua sử dụng và 01 (một) tim hộp quẹt, dài 10cm đã qua sử dụng. Tất cả được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng có chữ Công an tỉnh Kiên Giang Công an huyện Châu Thành, có chữ “Vụ tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 20/9/2022 tại ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang”, có chữ ký của Trần Minh H, Võ Văn T, Nguyễn Văn V, có đóng dấu niêm phong của Công an xã Bình An, huyện Châu Thành. Đây là vật chứng thu giữ trong vụ án không còn giá trị sử dụng nên cần xử tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
7.2. Đối với 01 (một) bóp da màu đen, kiểu nữ, dây đeo bằng kim loại hình mắt xích, đã qua sử dụng; quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã thu giữ và trả lại cho bị cáo do vật chứng này không liên quan đến vụ án nên HĐXX không xem xét.
[8] Về án phí: Xử buộc bị cáo phải có nghĩa vụ nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về điều luật áp dụng và tội danh: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Lâm Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lâm Văn L 02 (hai) năm tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án hình sự sơ thẩm số:18/2022/HS-ST ngày 20/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Buộc bị cáo Lâm Văn L phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 20/9/2022.
3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử tịch thu tiêu hủy các hạt tinh thể trong suốt còn lại sau giám định có khối lượng là 1,3157 gam, đựng trong 03 (ba) bịch nylon; 01 (một) cái nỏ thủy tinh được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng, có dòng chữ CÔNG AN TỈNH KIÊN GIANG PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, Niêm phong mẫu vật vụ số: 913/2022, ngày 28/9/2022, chữ ký của người chứng kiến niêm phong Đoàn Văn H, giám định viên Thái Thị Thanh Th, đóng dấu mộc đỏ niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang; 01 (một) mảnh giấy bạc hút thuốc 7,5cm x 2,9cm; 01 (một) bình thủy tinh, gắn nắp nhựa màu đỏ, có gắn ống hút nhựa màu trắng dài 22cm; 01 (một) hộp quẹt gas màu đỏ, đã qua sử dụng và 01 (một) tim hộp quẹt, dài 10cm đã qua sử dụng. Tất cả được niêm phong trong 01 (một) phong bì màu trắng có chữ Công an tỉnh Kiên Giang Công an huyện Châu Thành, có chữ “Vụ tàng trữ trái phép chất ma túy xảy ra ngày 20/9/2022 tại ấp M, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang”, có chữ ký của Trần Minh H, Võ Văn T, Nguyễn Văn V, có đóng dấu niêm phong của Công an xã Bình An, huyện Châu Thành.
Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành đang quản lý theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 01/QĐ-VKSCT ngày 12/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Lâm Văn L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
|
|
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!