Bản án số 01/2024/HC-ST ngày 10/09/2024 của TAND huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2024/HC-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2024/HC-ST ngày 10/09/2024 của TAND huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Sơn Tịnh (TAND tỉnh Quảng Ngãi)
Số hiệu: 01/2024/HC-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/09/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị Ngọ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN SƠN TỊNH
TỈNH QUẢNG NGÃI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 01/2024/HC-ST
Ngày: 10/9/2024
V/v khiếu kiện Quyết định
giải quyết khiếu nại của Chủ
tịch UBND xã Tịnh Thọ,
huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Ngãi
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN TỊNH, TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Lê Thanh Tân
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Võ Tấn Trung
Bà Đào Thị Thu Đoàn
- Thư phiên a: Ông Nguyễn Đăng Tín - Thư Tòa án nhân dân huyện
Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi tham
gia phiên tòa: Ông Nguyễn Hà Th và bà Võ Duy Hoàng Y - Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh
Quảng Ngãi mở phiên tòa xét xthẩm công khai vụ án Hành chính thụ số
01/2024/TLST-HC ngày 13/3/2024 về Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu
nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãitheo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HC ngày 26 tháng 8 năm 2024,
giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện:Trương Thị N, sinh năm 1928.
Địa chỉ: Xóm C, thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo ủy quyền của Trương Thị N: Ông Phạm Thành L,
sinh năm 1983; địa chỉ: Xóm C, thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Địa chỉ trụ sở: Xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T.
2
Địa chỉ trụ sở: Xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
- Bà Phạm Thị H, sinh năm 1954.
- Ông Phạm Thanh H1, sinh năm 1956.
- Ông Phạm Hồng S, sinh năm 1950.
Cùng địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
(Tại phiên tòa: Bà Trương Thị N, ông Phạm Thành L, Chủ tịch UBND xã
T, ông Phạm Thanh H1, ông Phạm Hồng S mặt; Phạm ThH đơn xin
vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 26/02/2024, bản trình bày ngày 20/6/2024, các
tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án tại phiên tòa thẩm ông Nguyễn
Thành L1 người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện bà Trương Thị N
trình bày:
Nguồn gốc thửa đất 220, diện tích 879,2m
2
; thửa đất 210, diện tích
1488,8m
2
cùng tờ bản đ số 23 thửa đất 304, tờ bản đồ số 24 diện tích
572,8m
2
T, huyện S của ông lưu hạ cho vợ chồng Trương Thị N
quản lý, sử dụng gia đình N đã làm ntrên đất này từ trước năm 1975.
Thửa đất 220, 210 thửa 304 theo Chỉ thị 299/TTg thuộc thửa đất 693, tờ
bản đồ số 11, diện tích 4.570m
2
do N khai, đăng ký loại đất T, tại trang số
64, dòng số 3 sổ đăng ký ruộng đất 5b.
Chồng của bà N ông Phạm K chết ngày 15/8/1974, vợ chồng bà N có 3
người con Phạm Thị H, ông Phạm Thanh H1 ông Phạm Hồng S. Đến
năm 1996 do thường xuyên bị ngập lụt nên gia đình N di dời đến thửa đất
153 để sinh sống, thửa đất mà gia đình bà N m nhà sinh sống gần thửa đất 220
thửa đất 304 nên nhà cửa, vật kiến trúc trên đất vẫn n nguyên gia đình
bà N vẫn quản lý, sử dụng đất ổn định từ trước đến nay.
Theo Nghị định 64/CP tthửa đất 693 biến động thành thửa 68, tờ bản
đồ số 21, diện tích 1.786m
2
, do biến động giảm do Hợp tác mở mương
kênh đi qua thửa đất. Không hiểu lý do mà thửa đất 68 do gia đình bà N đang
quản lý, sử dụng nhưng UBND xã T kê khai, đăng ký trong sổ mục kê ruộng đất
lập ngày 14/01/2000. Sau khi mương kênh đi qua thì thửa đất 68 đã tách thành 2
thửa là thửa 220, tờ bản đồ số 23 và thửa đất 304, tờ bản đồ số 24.
Do N không hiểu biết nên cứ nghĩ đất của do ông lưu hạ lại,
bà đang quản lý sử dụng nên không đi kê khai, đăng ký để được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Bà N không biết việc đất của nhưng
UBND xã T kê khai, đăng ký đất theo Nghị định 64/CP.
Ngày 03 tháng 11 năm 2023, bà N làm hồ sơ đề nghị UBND xã T xem xét
đề nghị UBND huyện S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tại thửa
đất 220, tờ bản đồ số 23 diện tích 879,2m
2
và thửa đất 304, tờ bản đồ số 24, diện
tích 572,8m
2
xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo quy định.
3
Tại Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND T đã trả lời
nội dung: Tại khoản 2 Điều 8 Luật Đất đai 2013 quy định: Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công
cộng được giao để quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương. Sau
khi nhận được Công văn s574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND T về
việc trả lời đơn yêu cầu, bà N nhận thấy Công văn này trả lời chưa đúng với nội
dung yêu cầu theo đơn đề nghị đngày 03/11/2023 của nên đơn
khiếu nại Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND xã T.
Tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi không chấp nhận
khiếu nại của bà N với nội dung như sau:
- Theo hồ sơ 299/TTg: Thửa đất khiếu nại là thuộc thửa 693, tờ bản đồ số
11, diện tích 4.570m
2
loại đất T, do Trương Thị N đi đăng theo Chỉ thị
299/TTg, tại trang số 64, dòng số 3 sổ đăng ruộng đất 5b, do Ủy ban nhân
dân T lập cho thôn T năm 1987, Ủy ban nhân dân huyện S duyệt ngày
30/4/1987.
- Theo hồ thực hiện Nghị định 64/CP thửa đất 693 biến động thành
thửa đất 68, tờ bản đồ số 21, diện tích 1786m
2
, loại đất trồng rừng do Ủy ban
nhân dân xã T đứng tên chủ sử dụng đất tại trang số 174, quyển sổ mục lập
cho các tờ bản đồ từ 16 đến 21, lập ngày 14/01/2000. Như vậy thửa đất trên do
UBND xã quản lý.
- Theo hồ đo đac năm 2018: Thuộc thửa đất 220, diện tích 879,2m
2
, tờ
bản đồ số 23 thửa đất 304, tờ bản đồ số 24, diện tích 572,8m
2
do UBND
quản lý. Tuy nhiên hai thửa đất này không nằm trong hồ sơ kê khai đăng đất
công ích và đất nông nghiệp khác do UBND xã quản được lập theo Chỉ thị số
09/CT ngày 19/4/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Q.
Do đó Chủ tịch UBND T ban hành Công văn số 574/UBND ngày
16/11/2023 về việc trả lời đơn yêu cầu củaTrương Thị N đối với thửa đất 68,
tờ bản đồ số 21, diện tích 1786m
2
, loại đất trồng rừng do UBND T đứng tên
chủ sử dụng đất tại trang số 174, quyển sổ mục lập ngày 14/01/2000 đất
của UBND xã quản lý là đúng theo quy định của pháp luật.
Từ những nhận định trên Chủ tịch UBND T đã bác toàn bộ nội dung
đơn khiếu nại đề ngày 12/12/2023 của N khiếu nại Công văn số 574/UBND
ngày 16/11/2023 của UBND xã T.
Việc Chủ tịch UBND T ban hành Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày
05/02/2024 đã bác toàn bộ nội dung đơn khiếu nại đề ngày 12/12/2023 của N
khiếu nại Công văn s574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND T làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của bà. Bà N không đồng ý với nội dung của Quyết định số
32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 bởi vì:
- Thứ nhất: Thửa đất 220, diện tích 879,2m
2
, tờ bản đồ số 23 thửa đất
304, diện tích 572,8m
2
, tờ bản đồ số 24 có nguồn gốc là ông bà lưu hạ lại, do
4
N đi khai, đăng theo Chỉ thị 299/TTg đất do N quản lý, sử dụng ổn
định không ai tranh chấp ttrước năm 1975 đến nay 1 phần của thửa đất
thửa 210, diện tích 1488,8m
2
, tờ bản đồ số 23 đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho con trai bà N là ông Phạm Hồng S. Bà N khẳng định thửa
đất 220 thửa 304 không phải đất công cộng do UBND T quản lý. Việc
UBND T vận dụng khoản 2 Điều 8 Luật Đất đai 2013 cho rằng thửa đất 220
thửa 304 đất công cộng do Ủy ban nhân dân cấp quản lý là không đúng
quy định của pháp luật.
- Thứ hai: Thửa đất 220 và thửa 304 do bà N đi khai, đăng ký theo Chỉ
thị 299/TTg N đầy đủ các loại giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013. Việc
UBND cho rằng 2 thửa đất này do UBND quản thể hiện tại sổ mục
lập ngày 14/01/2000 không đúng, sổ mục kê ruộng đất chỉ loại sổ được
lập để liệt các thửa đất thông tin các thửa đất chứ không phải các loại
giấy tờ theo quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013.
- Thứ ba: UBND cho rằng thửa đất 68, tờ bản đồ số 21, diện tích
1786m
2
loại đất trồng rừng do UBND xã quản không đúng, vì đây là đất
vườn của gia đình N được ông lưu hạ lại. Gia đình N quản lý, sử
dụng ổn định từ trước năm 1975 đến nay, không hiểu lý do gì UBND xã lại đi kê
khai trong sổ mục kê năm 2000 là không đúng.
- Thứ tư: Thửa 220, diện tích 879,2m
2
, tờ bản đsố 23 thửa đất 304,
diện tích 572,8m
2
, tờ bản đồ số 24 hiện nay không nằm trong hồ sơ kê khai đăng
ký đất công ích và đất nông nghiệp khác do UBND xã quản lý được lập theo Chỉ
thị số 09/CT ngày 19/4/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Q.
Như vậy, đối chiếu theo quy định của pháp luật, thửa đất 220, diện tích
879,2m
2
, tờ bản đồ số 23 thửa đất 304, diện tích 572,8m
2
, tờ bản đồ số 24
T đủ điều kiện để được xét đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
N theo quy định. Nhưng tại phần cuối của Công văn số 574/UBND ngày
16/11/2023, UBND T cho rằng: UBND chưa đủ sở đề nghị UBND
huyện cấp GCNQSDĐ cho bà” không hợp lý, việc UBND cho rằng bà N
“chưa đủ sở” không đúng. Tại Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày
05/02/2024 đã bác toàn bộ nội dung đơn khiếu nại đề ngày 12/12/2023 của bà N
khiếu nại Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND xã T.
Do đóTrương Thị N khởi kiện và yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Sơn
Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi giải quyết:
1. Hủy quyết định Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Buộc Ủy ban nhân dân T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện
nhiệm vụ, công vụ lập thủ tục xét đề nghị quan thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho đối với thửa đất 220, tờ bản đồ số 23
thửa đất 304, tờ bản đồ số 24 T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo quy định của
pháp luật.
5
Tại công văn số 392/UBND ngày 06/9/2024 của UBND T thay thế cho
Công văn số 223/UBND ngày 22/5/2024 của UBND xã T và tại phiên toà, người
bị kiện Chủ tịch UBND T người đại diện theo pháp luật của người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND xã T trình bày:
- Theo hồ sơ thực hiện Chỉ thị 299/CT-TTg tại T được UBND huyện S
duyệt ngày 30/4/1987: Bản đồ 299 thì vị trí đất Trương Thị N đơn khiếu
nại, thuộc số thửa 693, tờ bản đồ số 11, diện tích 4.570m
2
, loại đất T; Theo sổ
mục kê ruộng đất thì Trương Thị N đứng tên chủ sử dụng đất tại trang số 32;
Theo sổ 5b lập cho thôn T thì thửa đất này do bà Trương Thị N đứng tên chủ sử
dụng đất tại số thứ tự số C, trang số 64.
- Hồ địa chính lập năm 2000: Tại thời điểm thực hiện đo đạc bản đồ
địa chính năm 1998 thì thửa đất số 693, tờ bản đồ số 11 (Trong hồ 299) biến
động thành thửa đất số 68, tờ bản đsố 21, diện tích 1.786m
2
, loại đất LNK;
Theo sổ Mục đất thì thửa đất này đất do UBND T quản thể hiện tại
trang số 174, sổ Mục kê lập năm 2000.
- Hồ địa chính lập năm 2018: Hiện nay theo bản đồ đo đạc năm 2018
thì thửa đất 68, tờ bản đồ 21 (đo 1998) biến động thành 02 thửa đất: thửa 220, tờ
bản đồ 23 và thửa 304, tờ bản đồ 24.
- Theo kết quả xác minh từ ông Trần M và ông Nguyễn Văn T (người biết
về đất): Trương Thị N sinh sống trên vị trí đất này từ ngày theo chồng
về đây năm 1965, đến năm 1983 N theo sống với con trai út Phạm
Thanh H1. Từ đó vẫn canh tác liên tục thửa đất trên cho mục đích nông
nghiệp. Hiện trạng ông Phạm Thanh H1 đang canh tác trên 02 thửa đất: thửa
220, tờ bản đồ 23 và thửa 304, tờ bản đồ 24 ổn định, không tranh chấp.
- Trương Thị N sinh sống trên vị trí đất này từ ngày theo chồng về
đây là năm 1965, đến năm 1983 bà N theo sống với con trai út là Phạm Thanh
H1. Từ đó bà vẫn canh tác liên tục thửa đất trên cho mục đích nông nghiệp. Mặt
khác đất sản xuất nông nghiệp trong địa giới hành chính xã thì được cân đối chia
cho toàn dân theo Nghị định 64/CP, phần còn lại do UBND quản lý, cụ thể
đối với số thửa đất số 693, tờ bản đồ s11 (Trong hồ 299) biến động thành
thửa đất số 68, tờ bản đồ số 21, diện tích 1.786m
2
, loại đất LNK. Theo sổ Mục
kê đất thì thửa đất này là đất do UBND xã T quản lý thể hiện tại trang số 174, sổ
Mục lập năm 2000. Như vậy, việc UBND đăng trong sổ mục năm
2000 trong khi Trương Thị N đang sử dụng đối với thửa đất trên căn cứ
theo quy định chung của đán 64 trên toàn xã, tại mục 08 phần IV Đề án giao
đất nông nghiệp cho hgia đình, nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích
sản xuất nông nghiệp.
- Căn cứ theo khoản 2 Điều 8 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 Điều 19 Nghị
định 43/2014 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2013, UBND không đề nghị
cấp thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho Trương Thị
N tại thửa đất trên.
6
- UBND xã T ban hành Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 về việc
trả lời đơn yêu cầu của Trương Thị N Chủ tịch UBND T ban hành
Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 về việc giải quyết khiếu nại của
Trương Thị N lần đầu là đảm bảo theo quy định.
- Trường hợp Tòa án nhân dân huyện tuyên hủy Công văn số 574/UBND
ngày 16/11/2023 của UBND xã T về việc trả lời đơn yêu cầu của bà Trương Thị
N và hủy Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch UBND xã
T về việc giải quyết khiếu nại của Trương Thị N thuộc thẩm quyền của
Tòa án.
Tại bản trình bày ngày 28/3/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Phạm Thị H trình bày:
Phạm Thị H trình bày giống như trình bày của Trương Thị N
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị N.
Tại các bản trình bày ngày 28/3/2024 và tại phiên tòa người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan ông Phạm Thanh H1, ông Phạm Hồng S trình bày:
Các ông Phạm Thanh H1, Phạm Hồng S trình bày giống như trình bày của
Trương Thị N và đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị N.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Ngãi:
* Về tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán,
Thư ký, Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ các quy định của Luật tố tụng Hành
chính. Người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chấp hành đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.
* Về Nội dung: UBND T ban hành công văn 574/UBND ngày
16/11/2023 vi phạm pháp luật, dẫn đến việc ban hành Quyết định giải quyết
khiếu nại số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của chủ tịch UBND T cũng trái
pháp luật. Tuy nhiên, trong vụ án này người khởi kiện không yêu cầu huỷ công
văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND T nhưng theo quy định của
Luật tố tụng hành chính thì trong quá trình giải quyết ván cũng phải xem xét
đến tính hợp pháp căn cứ của công văn 574/UBND là đối tượng liên quan
trực tiếp đến việc khiếu nại và Quyết định giải quyết khiếu nại số 32/QĐ-UBND
ngày 05/02/2024 của chủ tịch UBND xã T.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 193 Luật
Tố tụng hành chính, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị N.
- Huỷ Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
- Huỷ Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của Ủy ban nhân dân
T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
- Buộc Ủy ban nhân dân T thực hiện nhiệm vụ, công vụ xác nhận đề
nghị quan thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
7
cho Trương Thị N đối với thửa đất 220, tờ bản đồ số 23 và thửa đất 304, tờ
bản đồ số 24 xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, được
thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tại phiên toà, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Thị H vắng
mặt đơn đề nghị xét xvắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 157, Điều 158
Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt
đương sự nêu trên.
[1.2] Xác định đối tượng khởi kiện, thẩm quyền và phạm vi giải quyết vụ án.
[1.2.1] Thời điểm khởi kiện, Trương Thị N yêu cầu hủy Quyết định số
32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch UBND T, huyện S, tỉnh Quảng
Ngãi; Buộc UBND xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
theo quy định của pháp luật.
Tại bản trình bày ngày 20/6/2024, N bổ sung xác định yêu cầu khởi
kiện tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày
30/7/2024, ông Phạm Thành L người đại diện theo ủy quyền của người khởi
kiện đã trình bày và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của bà N, theo đó đề nghị Tòa
án nhân dân huyện Sơn Tịnh hủy Quyết định số 32/-UBND ngày 05/02/2024
của Chủ tịch UBND T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi; Buộc UBND T, huyện
S, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện nhiệm vụ, công vụ lập thủ tục xét đề nghị quan
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho N đối với thửa
đất 220, tờ bản đồ số 23 thửa đất 304, tờ bản đồ số 24 T, huyện S, tỉnh
Quảng Ngãi theo quy định của pháp luật.
Thấy rằng: Khiếu kiện của bà Trương Thị N liên quan đến việc giải quyết khiếu
nại trong quản lý, sử dụng đất đai. Đây hoạt động quản hành chính n
nước trong lĩnh vực đất đai theo quy định tại khoản 14 Điều 22 Luật Đất đai
2013, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh
Quảng Ngãi theo quy định tại khoản 2 Điều 3, Điều 31 Luật Tố tụng hành chính.
Đối tượng khởi kiện Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND
T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
[1.2.2] Từ yêu cầu hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 32/QĐ-UBND ngày
05/02/2024 của Chủ tịch UBND T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi; Buộc UBND
T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án thì người khởi kiện bổ sung yêu
cầu buộc UBND T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện nhiệm vụ, công vụ
lập thủ tục xét đề nghị quan thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho N đối với thửa đất 220, tờ bản đồ số 23 thửa đất 304, tờ bản
8
đồ số 24 T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo quy định của pháp luật không
vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu.
[1.3] Về thời hiệu khởi kiện.
Các đương sự không tranh chấp pháp về thời hiệu khởi kiện. Ngày
03/11/2023, Trương Thị N làm đơn yêu cầu gửi đến UBND xã T yêu cầu
UBND T xem xét đnghị UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà đối với thửa đất 220, tờ bản đồ số 23 và thửa đất 304, tờ bản đồ
số 24 xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 16/11/2023, UBND T ban hành
Công n số 574/UBND trả lời đơn yêu cầu của N. Ngày 12/12/2023, N
đơn khiếu nại Công văn 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND xã T. Ngày
05/02/2024, Chủ tịch UBND T ban hành Quyết định số 32/QĐ-UBND về
việc giải quyết khiếu nại của Trương Thị N. Không đồng ý với Quyết định
giải quyết khiếu nại số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch UBND
T, ngày 26/02/2024 Trương Thị N nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính được
đảm bảo về thời hiệu khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật
Tố tụng hành chính.
[1.4]Xét thấy Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND xã T có liên
quan trực tiếp đến Quyết định giải quyết khiếu nại bị kiện số 32/QĐ-UBND
ngày 05/02/2024 của Chủ tịch UBND xã T. Để giải quyết triệt để vụ án, Hội
đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 193 Luật tố tụng hành chính xem xét tính hợp
pháp căn cứ đối với Công văn liên quan s 574/UBND ngày
16/11/2023 của UBND xã T.
[2] Về nội dung:
[2.1] Nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đăng khai thửa đất 220
tờ bản đồ số 23 (viết tắt thửa 220) thửa đất 304, tờ bản đồ số 24 (viết tắt là
thửa 304) xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi:
Thửa đất 693, tờ bản đồ số 11 (đo năm 1987) xã T (nay thửa 220 và
thửa 304) được bà Trương Thị N sử dụng từ năm 1965 đến năm 1983, sau đó bà
theo sống với con trai Phạm Thanh H1 tại xóm C, thôn T, T, huyện S, tỉnh
Quảng Ngãi. Tuy nhiên, N gia đình vẫn sử dụng các thửa đất này liên
tục cho đến nay không có tranh chấp.
Theo hồ 299/TTg: Theo hồ sơ, bản đồ giải thửa thực hiện Chỉ thị
299/TTg của Thủ tướng Chính phủ thì thửa đất 220, 304 thuộc thửa đất số 693,
tờ bản đồ số 11, diện tích 4.570m
2
, loại đất T (viết tắt thửa 693), do
Trương Thị N đăng ký, thể hiện tại dòng s3, trang số 64, quyển số đăng
ruộng đất sổ 5b do UBND xã T lập cho thôn T năm 1987, UBND huyện S duyệt
ngày 30/4/1987.
Theo hồ sơ thực hiện Nghị định 64/CP: Theo hồ sơ, bản đồ giải thửa thực
hiện Nghị định 64/CP của Thủ tướng Chính phủ thì thửa 693 biến động thành
thửa đất số 68, tờ bản đồ số 21, diện tích 1.786m
2
, loại đất rừng trồng (viết tắt là
9
thửa 68), do UBND T đứng tên chủ sử dụng đất tại trang số 174, quyển sổ
mục kê lập cho các tờ bản đồ (từ tờ 16 đến tờ 21).
Theo hồ sơ đo đạc năm 2018: Thửa 68 thuộc 02 thửa đất số 220, tờ bản đ
số 23, diện tích 879,2m
2
và thửa đất số 304, tờ bản đồ 24, diện tích 572,8m
2
đất UBND xã T quản lý.
[2.2] Xét tính hợp pháp căn cứ đối với Công văn liên quan số
574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND xã T:
[2.2.1] Ngày 03/11/2023, Trương Thị N nộp đơn yêu cầu gửi đến
UBND T yêu cầu UBND T xem xét đề nghị UBND huyện S cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà đối với thửa đất 220 thửa 304. Tại đơn
yêu cầu xem xét đề nghị UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với các thửa đất nêu trên, N trình bày: Nguồn gốc thửa đất do ông
bà lưu hạ lại, do bà là người đăng ký kê khai theo Chỉ thị 299/TTg và bà sử dụng
ổn định từ trước năm 1975 cho đến nay, không tranh chấp; một trong
các loại giấy tờ đđược cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất quy định tại
Điều 100 Luật Đất đai năm 2013; việc UBND xã T cho rằng các thửa đất này do
UBND T quản thể hiện tại sổ mục lập ngày 14/01/2000 là không đúng
vì sổ mục kê ruộng đất chỉ là loại sổ được lập để liệt kê các thửa đất và thông tin
các thửa đất chkhông phải các loại giấy ttheo quy định tại Điều 100 Luật
Đất đai năm 2013; UBND T cho rằng thửa 68 (nay thửa 220, 304) loại
đất trồng rừng do UBND T quản không đúng đây đất vườn của
gia đình bà được ông bà lưu hạ lại.
Sau khi tiếp nhận đơn yêu cầu của Trương Thị N, UBND T đã đối
chiếu với hồ sơ địa chính của các thửa đất 220, 304 và trả lời như sau: Tại khoản
2 Điều 8 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng được
giao đquản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương”; Thửa 220
thửa 304 (đo đạc năm 2018) được tách ra từ thửa 68 (đo năm 1998); Trên sở
hồ địa chính lập vào thời điểm thực hiện Nghị định 64/CP thì thửa 68 loại
đất rừng. Thửa đất này do UBND xã quản thhiện tại trang 174, sổ mục
lập ngày 14/01/2000. Hiện tại đang thực hiện Chỉ thị 09 của UBND tỉnh Q, n
UBND xã T chưa đủ cơ sở để đề nghị UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho bà N.
Đơn đề nghị ngày 03/11/2023 của Trương Thị N mặc không làm
theo mẫu đơn số 04a/ĐK được ban hành kèm theo Thông tư 24/2014/TT-
BTNMTngày 19/5/2014 của Bộ T1 (được sửa đổi bởi Thông 33/2017/TT-
BTNMTngày 29/9/2017 Thông 14/2023/TT-BTNMT16/10/2023 của Bộ
T1), nhưng trong đơn đề nghị nội dung: “Đề nghị UBND T xem xét đề
nghị UBND huyện S xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi Trương
Thị N đối với thửa đất số 220, diện tích 879,2m
2
tờ bản đồ số 23 thửa đất
304, tbản đồ số 24, diện tích 572,8m
2
; Trường hợp UBND T không đồng ý
đề nghị UBND huyện S xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tôi thì
10
trả lời cụ thể lý do bằng văn bản cho tôi theo đúng quy định của pháp luật” nên
UBND T ban hành Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 để trả lời đơn
yêu cầu cho bà N là đúng về mặt hình thức. Tuy nhiên, theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 70 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định về trình tự, thủ
tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất lần đầu đăng bổ
sung đối với tài sản gắn liền với đất thì trách nhiệm của UBND trong trường
hợp này “Xác nhận hiện trạng sử dụng đất so với nội dung khai đăng ký;
trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18
của Nghị định này thì xác nhận nguồn gốc thời điểm sử dụng đất, tình trạng
tranh chấp s dụng đất, s phù hợp với quy hoạch…”. Như vậy, Công văn
574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND T trả lời đơn yêu cầu của N
nội dung "Chưa đủ sở đề nghị UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho Nkhông đúng quy định về thẩm quyền trách nhiệm của
UBND theo quy định nêu trên, bởi thẩm quyền xem xét cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không phải thuộc thẩm quyền của UBND cấp mà
thẩm quyền đó thuộc quan cấp trên, còn UBND chỉ thẩm quyền xác
nhận để đề ngh
[2.2.2] Theo Trương Thị N trình bày, thửa đất 220, diện tích 879,2m
2
;
thửa 210, diện tích 1488,8m
2
cùng tờ bản đồ số 23 thửa đất 304, tờ bản đồ số
24 diện tích 572,8m
2
T, huyện S của ông lưu hạ cho vợ chồng quản
lý, sử dụng gia đình đã làm nhà trên thửa đất này từ trước năm 1975.
Thửa 220 và thửa 304 theo Chỉ thị 299/TTg là thuộc đất 693, tờ bản đồ số 11 do
đi kê khai, đăng loại đất T tại trang số 64, dòng số 3 sổ đăng ruộng đất
5b. Nên việc UBND T ban hành Công văn số 574/UBND ngày 16/11/2023
nêu trên không đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy: Các
thửa đất 220, 304 theo Chỉ thị 299/TTg là thửa 693 do bà Trương Thị N đăng ký
theo Chỉ thị 299/TTg, N gia đình sử dụng ổn định từ năm 1965 cho đến
nay không tranh chấp. Mặc dù thực hiện theo Nghị định 64/CP thì UBND
T đăng ký kê khai đối với các thửa đất này, nhưng thực tế UBND xã T không sử
dụng; chưa có quan thẩm quyền ra Quyết định huỷ bỏ quyết định phê
duyệt hồ sơ đăng ký theo chỉ thị 299/TTg do UBND xã T xác lập đề nghị UBND
huyện S phê duyệt ngày 30/04/1987 cũng không quan thẩm quyền
nào Quyết định thu hồi mà thực tế gia đình N hiện tại vẫn đang quản lý sử
dụng. Như vậy, Trương Thị N sử dụng các thửa đất nói trên ổn định từ năm
1965 cho đến nay không có tranh chấp và bà N có một trong các loại giấy tờ quy
định tại điểm g khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, phù hợp với quy định
tại Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, nên có
sở để UBND xã T xem xét đề nghị cơ quan thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho bà N đối với các thửa đất nói trên.
Do đó, Công văn có liên quan số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND
xã T không đúng quy định về thẩm quyền của UBND xã; quy định của pháp luật
11
về đất đai; tình hình sử dụng đất thực tế ảnh hưởng đến quyền lợi của N
nên cần phải huỷ Công văn có liên quan này.
[2.3] Xét tính hợp pháp căn cứ của Quyết định giải quyết khiếu nại
số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân T, huyện
S, tỉnh Quảng Ngãi:
[2.3.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Ngày 12/12/2023, bà Trương Thị N đơn khiếu nại Công văn số
574/UBND 16/11/2023 của UBND xã T về việc trả lời nội dung đơn yêu cầu
của bà N. Ngày 25/12/2023, UBND xã T ban hành Thông báo thụ lý số 161/TB-
UBND về việc thụ giải quyết khiếu nại lần đầu. Cùng ngày 25/12/2023, Chủ
tịch UBND T ban hành Quyết định số 420/QĐ-UBND về việc thành lập tổ
xác minh nội dung đơn khiếu nại của N.
Trên sđó, tổ xác minh đã tiến hành làm việc với những người biết
việc đều cho rằng thửa đất 693, tờ bản đồ số 11 o năm 1987) nay thửa 220
thửa 304 được bà N sử dụng từ năm 1965 đến năm 1983, sau đó N theo
sống với con trai Phạm Thanh H1 tại xóm C, thôn T, T, huyện S, tỉnh
Quảng Ngãi. Tuy nhiên, N và con trai của vẫn sử dụng thửa đất này liên
tục cho đến nay không có tranh chấp.
Ngày 29/01/2024, UBND xã T tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người
khiếu nại với UBND T; tại buổi đối thoại, Trương Thị N vẫn xác định
thửa đất 220 và thửa đất 304 là đất của ông bà để lại, không phải đất của UBND
xã T quản lý.
Trên sở Báo cáo số 02/BC-TXM ngày 23/01/2024 của tổ xác minh
T, báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh đơn khiếu nại ca bà N, ngày 05/02/2024,
Chủ tịch UBND xã T ban hành Quyết định số 32/-UBND về việc giải quyết
khiếu nại của bà N.
vậy, Quyết định giải quyết khiếu nại số 32/QĐ-UBND ngày
05/02/2024 do chủ tịch UBND T ban hành đúng thẩm quyền, trình tự, thủ
tục giải quyết khiếu nại lần đầu được quy định tại các Điều 17, 27, 28, 29, 30, 31
Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi nh Luật Khiếu nại;
Thông tư số 05/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy
định quy trình xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
[2.3.2] Xét về nội dung của Quyết định giải quyết khiếu nại s32/QĐ-
UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch UBND T, thấy rằng: Như nhận định
phần [2.2.1], [2.2.2], việc UBND T ban hành công văn 574/UBND ngày
16/11/2023 vi phạm pháp luật nên dẫn đến việc Chủ tịch UBND T ban
hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 bác
toàn bộ nội dung đơn khiếu nại đề ngày 12/12/2023 của N khiếu nại Công
văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND xã T cũng trái pháp luật. Do đó,
việc Trương Thị N khởi kiện yêu cầu huỷ Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày
12
05/02/2024 của Chủ tịch UBND T về việc giải quyết đơn khiếu nại ngày
12/12/2023 của bà Trương Thị N là có căn cứ để chấp nhận.
[2.4] Xét yêu cầu của Trương Thị N buộc UBND T, huyện S, tỉnh
Quảng Ngãi thực hiện nhiệm vụ, công vụ lập thủ tục xét đề nghị quan
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà đối với thửa đất 220,
tờ bản đồ số 23 và thửa đất 304, tờ bản đồ số 24 xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi
theo quy định của pháp luật:
Do Ủy ban nhân dân xã T ban hành Công văn số 574/UBND ngày
16/11/2023 trả lời đơn yêu cầu của bà N nội dung không đúng quy định về
thẩm quyền, thực tế sử dụng đất của bà N, quy định của pháp luật đất đai và làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của N; Yêu cầu khởi kiện của bà N về việc yêu cầu
huỷ Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch UBND xã T về
việc giải quyết khiếu nại căn cứ để chấp nhận nên yêu cầu buộc UBND
T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện nhiệm vụ, công vụ lập thủ tục xét đề nghị
cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà N đối với
thửa đất 220, tbản đồ số 23 thửa đất 304, tờ bản đồ số 24 T, huyện S,
tỉnh Quảng Ngãi là có căn cứ chấp nhận.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xn cứ để chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Trương Thị N, đồng thời căn cứ huỷ Công
văn có liên quan số 574/UBND ngày 16/11/2023 của UBND xã T.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Tịnh, tỉnh
Quảng Ngãi tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, đúng
quy định của pháp luật.
[5] Về án phí hành chính sơ thẩm:
- Bà Trương Thị N không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
[6] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 204
Điều 206 Luật Tố tụng hành chính.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 1 Điều 31; khoản 1 Điều
115; điểm a khoản 2 Điều 116; Điều 158; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 193;
Điều 204; Điều 206; khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính.
Căn cứ vào Điều 17, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật
Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại;
Thông tư số 05/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 của Thanh tra Chính phủ quy
định quy trình xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh.
13
Căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 100 Luật Đất đai năm 2013; Điều 18,
điểm a khoản 2 Điều 70 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
Phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai.
Căn cứ Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị N:
- Huỷ ng văn số 574/UBND ngày 16/11/2023 của Ủy ban nhân dân T,
huyện S, tỉnh Quảng Ngãi về việc trả lời đơn yêu cầu của bà Trương Thị N.
- Huỷ Quyết định số 32/QĐ-UBND ngày 05/02/2024 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi về việc giải quyết khiếu nại của bà
Trương Thị N.
- Buộc Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thực hiện nhiệm
vụ, công vụ lập thủ tục xem xét đề nghị quan thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho bà Trương Thị N đối với thửa đất 220, tờ bản đồ số
23 thửa đất 304, tờ bản đồ số 24 T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo quy
định của pháp luật.
2. Về án phí hành chính sơ thẩm:
- Bà Trương Thị N không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi phải chịu
300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự mặt tại phiên tòa được quyền kháng
cáo bản án thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng
mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp
luật.
Nơi nhận:
- TAND, VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND huyện Sơn Tịnh;
- Chi cục THADS huyện Sơn Tịnh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ; lưu án văn.
TM/ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thanh Tân
14
Tải về
Bản án số 01/2024/HC-ST Bản án số 01/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2024/HC-ST Bản án số 01/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất